intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quyền tự do hợp đồng trong bối cảnh Việt Nam tham gia ký kết các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới

Chia sẻ: ViLichae ViLichae | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

48
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp luật về quyền tự do hợp đồng trong bối cảnh Việt Nam tham gia ký kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, chỉ ra những bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện quyền tự do hợp đồng hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quyền tự do hợp đồng trong bối cảnh Việt Nam tham gia ký kết các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới

  1. QUYỀN TỰ DO HỢP ĐỒNG TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM THAM GIA KÝ KẾT CÁC HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI TỰ DO THẾ HỆ MỚI Ths. Nguyễn Thị Vinh Hƣơng Ths. Nguyễn Thị Kim Thanh Trƣờng Đại học Thƣơng mại Tóm lược: Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới được kỳ vọng mang đến những lợi ích lớn đối với nền kinh tế nước ta, tuy nhiên, bên cạnh đó c ng đặt ra không ít thách thức đối với quyền tự do hợp đồng ở Việt Nam, cần tiếp tục có sự nghiên cứu nh m hoàn thiện pháp luật sao cho phù hợp với bối cảnh hội nhập hiện nay. Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp luật về quyền tự do hợp đồng trong bối cảnh Việt Nam tham gia ký kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, chỉ ra những bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện quyền tự do hợp đồng hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số khuyến nghị nh m đảm bảo quyền tự do hợp đồng ở Việt Nam, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh bạch và tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế. Từ khóa: FTA thế hệ mới; quyền tự do hợp đồng. 1. Khái quát về Hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới (FTA) Theo quan niệm truyền thống, Hiệp định thương mại tự do (FTA) là thỏa thuận giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhằm mục đích tự do hóa thương mại về một hoặc một số nhóm mặt hàng bằng việc cắt giảm thuế quan, có các quy định tạo thuận lợi cho trao đổi hàng hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên bên cạnh việc tiếp tục duy trì chế độ thuế quan độc lập với hàng nhập khẩu từ các quốc gia bên ngoài FTA. Ngày nay, các hoạt động giao dịch không chỉ giới hạn ở các sản phẩm hàng hóa hữu hình mà còn có sản phẩm hàng hóa dịch vụ, phi vật thể. Các phương thức giao dịch cũng ngày càng hiện đại, nhiều dịch vụ thương mại mới ra đời. Bên cạnh đó, các hoạt động xúc tiến đầu tư, hợp tác, chuyển giao công nghệ, hoàn thiện hóa thủ tục hải quan... trong quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, các nhà sản xuất và phân phối cũng được đẩy mạnh. Do sự phát triển này, việc thỏa thuận giữa các quốc gia trong giao thương cũng ngày càng mở rộng nội dung. Nếu FTA truyền thống là sự thỏa thuận về tự do hóa thương mại hàng hóa hữu hình, cắt giảm thuế quan và cùng nhau thỏa thuận loại bỏ các rào cản phi thuế quan thì phạm vi cam kết của FTA hiện đại điều chỉnh toàn diện nhiều lĩnh vực, vượt ra ngoài khuôn khổ tự do hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ thông thường, bao gồm: thuận lợi hóa thương mại, hoạt động đầu tư, đấu thầu, chính sách cạnh tranh, các biện pháp phi thuế quan, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, cơ chế giải quyết tranh chấp, lao động, môi trường nhằm tạo môi trường kinh doanh minh bạch và cạnh tranh công bằng giữa các thành viên. Bên cạnh đó có cả những vấn đề mới đối với Chính phủ các quốc gia tham gia như: mua sắm công; chống tham nhũng; giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ và nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí còn gắn với những vấn đề dân 946
  2. chủ, nhân quyền hay chống khủng bố... Các FTA hiện đại này còn được gọi là FTA thế hệ mới, khi có hiệu lực sẽ tác động mạnh mẽ tới thể chế của các bên liên quan. Tính đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã đàm phán, ký kết và thực thi 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) với gần 60 đối tác; trong đó đã thực thi 12 FTA, ký và chuẩn bị phê chuẩn 1 FTA, đang đàm phán 3 FTA. Việc Việt Nam ký kết các FTA song phương và đa phương thế hệ mới tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của Việt Nam mở rộng thị trường, tiếp cận thị trường khu vực và toàn cầu, nhưng cũng đặt ra yêu cầu cao trong hoàn thiện thể chế và pháp luật liên quan tới thương mại và những vấn đề khác như: lao động; môi trường; sở hữu trí tuệ đặc biệt là quyền tự do hợp đồng (một trong các vấn đề mấu chốt của quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam hiện nay). 2. Thực trạng pháp luật quy định về quyền tự do hợp đồng ở Việt Nam hiện nay Hợp đồng là một trong những phương tiện pháp lý quan trọng và phổ biến để thỏa mãn quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội. Quyền tự do hợp đồng là một trong các bộ phận cơ bản cấu thành nội dung của quyền tự do kinh doanh, là một trong những quyền cơ bản của con người. Tự do hợp đồng không có nghĩa là tự do không có giới hạn, không có chuẩn mực mà sự tự do ấy nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Việc ghi nhận và bảo đảm quyền tự do hợp đồng có tác động to lớn đến việc ghi nhận và thực thi quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. 2.1. Quyền tự do hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam Quyền tự do hợp đồng được hiểu dưới những khía cạnh chính sau đây: Một là, quyền được tự do, bình đẳng, tự nguyện giao kết hợp đồng: Hợp đồng là sự thỏa thuận và thống nhất về mặt ý chí giữa các chủ thể, nhưng không phải tất cả những thỏa thuận giữa các chủ thể đều là hợp đồng. Sự thỏa thuận chỉ có thể trở thành hợp đồng khi ý chí của các chủ thể được thể hiện (trong sự thỏa thuận) phù hợp với ―ý chí thực‖ của họ. Như vậy, dù thiết lập quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực dân sự, thương mại hay lao động thì các chủ thể đều cần phải được tự do về mặt ý chí, không có chủ thể nào có quyền áp đặt ý chí để bắt buộc hay ngăn cản chủ thể khác giao kết hợp đồng. Quyền tự do giao kết hợp đồng được thể hiện trong pháp luật về hợp đồng khá nhất quán. Chẳng hạn như, Điều 11 Luật Thương mại năm 2005 quy định về nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại. Bên cạnh đó, Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định một trong những điều kiện để giao dịch dân sự nói chung và hợp đồng nói riêng có hiệu lực, đó là mục đích và nội dung không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Trên thực tế, quyền tự do, bình đẳng giao kết hợp đồng có thể bị hạn chế trong một số lĩnh vực nhất định, chẳng hạn như hợp đồng cung cấp các dịch vụ công từ các chủ thể là các công ty nhà nước (họ độc quyền phân phối các dịch vụ như điện, nước, điện thoại...). Chủ thể sử dụng các dịch vụ này ký kết vào các hợp đồng mẫu đã được soạn sẵn mà không được thay đổi nội dung của hợp đồng, thậm chí không có điều khoản để bồi thường khi gây thiệt hại cho người sử dụng… 947
  3. Hai là, quyền được tự do lựa chọn đối tác giao kết hợp đồng: Các chủ thể kinh doanh lựa chọn đối tác để giao kết hợp đồng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: Văn hóa ứng xử của đối tác, khả năng, kinh nghiệm kinh doanh của đối tác, uy tín của đối tác, các điều kiện lợi ích kinh tế phát sinh từ sự thương thảo hợp đồng… Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam có quy định điều kiện để các chủ thể được quyền giao kết các loại hợp đồng: Đối với cá nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi (Điều 15, 16 Bộ luật Dân sự năm 2015); đại diện của pháp nhân (Điều 85 Bộ luật Dân sự năm 2015); thương nhân (khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005), các chủ thể kinh doanh cần căn cứ vào các quy định pháp luật tương ứng với nội dung hợp đồng ký để thỏa thuận, tuân thủ khi ký kết và thực hiện. Ba là, quyền được tự do thỏa thuận nội dung hợp đồng và thay đổi nội dung hợp đồng trong quá trình thực hiện: Quyền tự do thỏa thuận nội dung hợp đồng là quyền hết sức cơ bản của quyền tự do kinh doanh vì đây là yếu tố cơ bản nhất tác động đến lợi ích của các bên giao kết hợp đồng. Các bên hoàn toàn có quyền lựa chọn đối tượng hàng hóa để mua bán hoặc dịch vụ để cung cấp, thỏa thuận giá cả, cách tính giá, phương thức thanh toán; điều kiện giao nhận hàng, vận chuyển, đóng gói bao bì và các nội dung khác trong hợp đồng trên cơ sở đảm bảo hài hòa quyền và lợi ích của hai bên. Tuy nhiên quyền tự do thỏa thuận nội dung hợp đồng của các bên bị giới hạn bởi các quy định của pháp luật nhằm bảo đảm sự thỏa thuận của các bên không xâm hại đến những lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ hay trật tự công cộng (các nguyên tắc cơ bản của pháp luật). Để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên khi thực hiện quyền tự do thỏa thuận nội dung hợp đồng, Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Thương mại năm 2005, Bộ luật Lao động năm 2012 và các nghị định hướng dẫn đều có những quy định về nội dung của hợp đồng theo hướng các chủ thể phải thỏa thuận đầy đủ các điều khoản chủ yếu để đảm bảo hiệu lực của hợp đồng; thỏa thuận về nội dung hợp đồng không thể trái với các nội dung thường lệ được quy định bởi pháp luật. Quyền tự do thỏa thuận để thay đổi nội dung, đình chỉ hay hủy bỏ hợp đồng đã giao kết trong quá trình thực hiện hợp đồng là sự khẳng định quyền trọn vẹn của các chủ thể kinh doanh trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng. Quy định này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc tôn trọng sự quyết định ý chí của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng, có thể là quyết định thay đổi một phần hợp đồng, hoặc quyết định chấm dứt hợp đồng khi ý chí của cả hai bên trong hợp đồng muốn thay đổi, bổ sung hợp đồng đã ký kết. Bốn là, quyền được tự do thỏa thuận các điều kiện đảm bảo để thực hiện hợp đồng: Điều kiện đảm bảo thực hiện hợp đồng là một trong các nội dung cơ bản để quyết định sự thành công của hợp đồng, đảm bảo các quyền nghĩa vụ của hợp đồng được thực hiện bằng một giao dịch thế chấp tài sản, hoặc giao dịch bảo đảm thanh toán của tổ chức tín dụng, hoặc một bên thứ ba bằng một tài sản là bất động sản hay một nguồn tiền từ một tài khoản ngân 948
  4. hàng; điều kiện đảm bảo thực hiện hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng liên quan mật thiết đối với trách nhiệm tài chính hữu hạn phát sinh trong một hợp đồng. Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định về biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự. Các bên có thỏa thuận lựa chọn áp dụng một biện pháp bảo đảm phù hợp với tính chất của quan hệ nghĩa vụ và khả năng tài sản của mình hoặc pháp luật có quy định một số quan hệ nghĩa vụ phải có biện pháp bảo đảm. Năm là, quyền được tự do thỏa thuận cơ quan tài phán và luật giải quyết tranh chấp hợp đồng: Khi có tranh chấp, các bên có thể tự quyết định việc giải quyết bằng một trong các hình thức sau đây: Thương lượng, hòa giải, trọng tài hoặc Tòa án. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam khuyến khích và ưu tiên các phương thức giải quyết tranh chấp là thương lượng, hòa giải. 2.2. Cam kết của Việt Nam về quyền tự do hợp đồng trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới Như đã trình bày ở nội dung trên, quyền tự do hợp đồng ở Việt Nam được thể hiện đầy đủ trên các khía cạnh: quyền tự do, bình đẳng, tự nguyện giao kết hợp đồng; tự do lựa chọn đối tác khi giao kết hợp đồng; tự do thỏa thuận nội dung và thay đổi nội dung hợp đồng; tự do thỏa thuận các điều kiện đảm bảo để thực hiện hợp đồng; tự do thỏa thuận cơ quan tài phán và luật giải quyết tranh chấp hợp đồng. Tuy nhiên những cam kết cụ thể của Việt Nam về các vấn đề này hiện nay chưa được đề cập một cách trực tiếp. Trong khi đó, một số cam kết về thuế, các cam kết về thương mại, dịch vụ, cam kết về sở hữu trí tuệ…. được pháp luật Việt Nam quy định rất cụ thể, chi tiết thông qua các quy định của văn bản pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành thì các cam kết liên quan đến quyền tự do hợp đồng lại không được pháp luật Việt Nam quy định trực tiếp như vậy. Tuy nhiên bằng các quy định gián tiếp nằm rải rác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thì các cam kết liên quan đến quyền tự do hợp đồng cũng phần nào được thể hiện rõ và nhà nước ta luôn luôn đảm bảo cho các quy định liên quan đến tự do hợp đồng của các chủ thể được thực hiện trên thực tế:  Hiện nay Việt Nam đang tham gia các FTA thế hệ mới với nhiều đối tác như Australia – New Zealand, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc. EU…đều này dẫn đến cơ hội trong việc mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp Việt Nam, cạnh tranh lành mạnh với các đối tác quốc tế và khu vực thông qua việc ký kết các hợp đồng kinh tế. Điều này cho thấy Việt Nam đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được tự do, bình đẳng trong giao kết hợp đồng, cũng như lựa chọn các đối tác. Đối tác ở đây có thể là một quốc gia cụ thể (Trung Quốc, Ấn Độ…), nhưng cũng có thể là một tổ chức quốc tế (EU). Điều 11 của Luật Thương mại năm 2005 cũng quy định rất rõ về tự do, tự nguyện thỏa thuận, cũng có nghĩa là nhà nước ta cam kết tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các doanh nghiệp trong nước được thực hiện một trong những quyền tự do hợp đồng cơ bản của mình.Tuy nhiên điều đó cũng mở ra 949
  5. những thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và tham gia các FTA thế hệ mới, chỉ có các doanh nghiệp mạnh , có đủ năng lực cạnh tranh với với doanh nghiệp nước ngoài mới có thể tồn tại và phát triển được.  Bên cạnh việc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam được tự do, bình đẳng trong việc giao kết cũng như trong việc lựa chọn đối tác, pháp luật Việt Nam cũng gián tiếp có những quy định tạo điều kiện do doanh nghiệp trong nước trong việc thỏa thuận các nội dung, thay đổi nội dung hay thỏa thuận các điều kiện khác để thực hiện hợp đồng. Các doanh nghiệp trong nước khi ký kết hợp đồng với các đối tác trong các FTA thế hệ mới có thể dẫn chiếu những nội dung cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ở Việt Nam như: đối tượng của hợp đồng, thời gian, địa điểm giao nhận hàn, giá cả, phương thức thanh toán, trách nhiệm pháp lý liên quan đến hợp đồng…., từ đó có những thỏa thuận cho phù hợp với quy định của pháp luật, phừ hợp với tình hình thực tế của hai bên để có thể đưa ra những thỏa thuận đạt hiệu quả cao nhất, có lợi cho cả 2 bên.  Lựa chọn cơ quan tài phán và luật để giải quyết tranh chấp cũng là một nội dung quan trọng thể hiện quyền tự do hợp đồng, nhưng đến nay cũng chưa được pháp luật Việt Nam quy định cụ thể cho riêng hoạt động ký kết hợp đồng giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các đối tác trong các FTA thế hệ mới. Thông thường khi ký kết hợp đồng giữa doanh nghiệp Việt Nam với các đối tác, các bên chủ thể đều có dự liệu về việc lựa chọn cơ quan tài phán và luật để giải quyết tranh chấp hợp đồng. Nếu xảy ra tranh chấp giữa các bên thì các bên là doanh nghiệp Việt Nam và đối tác dựa trên sự thỏa thuận đó trong hợp đồng để giải quyết. Điều này cũng có nghĩa là sự tự do thỏa thuận của các bên chủ thể về vấn đề này được Nhà nước đảm bảo thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi cho sự giải quyết tranh chấp giữa các bên. Còn trong trường hợp các bên không có sự thỏa thuận lựa chọn cơ quan tài phán và luật áp dụng, thì nhà nước vẫn đảm bảo cho các bên thực hiện quyền tự do này dựa trên một số quy định cụ thể. Chẳng hạn, khi lựa chọn cơ quan tài phán là trọng tài thương mại thì Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định ―….Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài thì áp dụng pháp luật do các bên thỏa thuận. Nếu các bên không có thỏa thuận thì Hội đồng trọng tài quyết định luật để giải quyết tranh chấp‖. Hoặc trong lĩnh vực dân sự, quy định của pháp luật cũng thừa nhận ―…Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Bộ luật này và Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cùng 1 vấn đề thì áp dụng các quy định của Điều ước quốc tế‖ Nhìn chung các cam kết của Việt Nam khi tham gia các FTA thế hệ mới về quyền tự do hợp đồng không được quy định trực tiếp cụ thể như một số ngành lĩnh vực khác, vì vậy cho tới thời điểm hiện tại thì cũng chưa thể đánh giá cam kết của Việt Nam về quyền tự do hợp đồng trong FTA thế hệ mới với quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tự do hợp đồng hiện hành có sự giống và khác nhau ở những điểm nào. Mặc dù chưa được thể hiện bằng những cam kết cụ thể bằng văn bản pháp luật, nhưng tinh thần của quyền tự do hợp đồng của 950
  6. Việt Nam trong bối cảnh tham gia Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới FTA vẫn được thể hiện khá rõ ràng và đầy đủ. Điều này đã góp phần tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho quyền tự do hợp đồng ở Việt Nam được thực hiện qua các FTA thế hệ mới. 2.3. Những bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện quyền tự do hợp đồng ở Việt Nam. Có thể nói, Việt Nam đã xây dựng được một khung pháp lý khá hoàn chỉnh và thống nhất để điều chỉnh quan hệ hợp đồng, đảm bảo quyền tự do hợp đồng phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập hiện nay, bao gồm: Bộ Luật Dân sự năm 2015, Luật Thương mại năm 2005 và các luật chuyên ngành khác... Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật về quyền tự do hợp đồng, phần nào là rào cản cho việc thực hiện các FTA thế hệ mới, cụ thể: Thứ nhất, còn mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định của luật chuyên ngành với Bộ luật Dân sự năm 2015, như: quy định lại những quy định chung của Bộ luật Dân sự hoặc không có sự thống nhất khi quy định về hợp đồng, cụ thể:  Bộ luật Dân sự năm 2015 đưa ra các quy định tùy nghi khi quy định về nội dung hợp đồng nhằm bảo đảm quyền tự do hợp đồng của các bên trong hợp đồng, theo nguyên tắc ưu tiên áp dụng các thỏa thuận của các bên so với các quy định của pháp luật, tuy nhiên, các đạo luật chuyên ngành lại không thống nhất trong việc ghi nhận kỹ thuật lập pháp này. Một số đạo luật chuyên ngành khác quy định về hoạt động thương mại đặc thù, ví dụ như Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Điện lực,… lại thường sử dụng các quy phạm bắt buộc khi quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.  Một số luật chuyên ngành còn quy định lại những quy định chung về hợp đồng đã được quy định trong Bộ luật Dân sự. Ví dụ: Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) có những quy định về hợp đồng trong hoạt động hàng không như: Vận chuyển hàng hóa, vận chuyển hành khách và hành lý..., Luật Thương mại năm 2005 cũng có quy định về hợp đồng dịch vụ trong khi đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có quy định về các loại hợp đồng cụ thể này tại Mục 10 - Một số hợp đồng thông dụng.  Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định “Giao dịch dân sự đã được xác lập b ng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực”. Trong khi đó rất nhiều quy định của các luật chuyên ngành bắt buộc hợp đồng phải có công chứng, chứng thực thì mới có hiệu lực pháp lý: Ví dụ như, quy định tại Điều 122 Luật Nhà ở năm 2014 về Công chứng, chứng thực hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng về nhà ở: “Hợp đồng về nhà ở phải có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với nhà ở tại đô thị, chứng thực của Ủy ban nhân dân xã đối với nhà ở tại nông thôn...”. Như vậy, quy định này mâu thuẫn với Điều 129 Bộ luật Dân sự 951
  7. năm 2015, nếu áp dụng nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành thì trong trường hợp này, nếu các bên chưa công chứng, chứng thực mà đã thực hiện được 2/3 nghĩa vụ hợp đồng thì hợp đồng vẫn không có giá trị pháp lý. Nếu một bên lợi dụng việc này, yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì gây thiệt hại lớn cho bên còn lại, không đảm bảo được tính công bằng cho các bên cũng như sự tự do hợp đồng trong trường hợp cả hai bên đều thống nhất thỏa thuận mà không công chứng, chứng thực. Việc các luật chuyên ngành có những quy định chồng chéo, mâu thuẫn với các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã gây phức tạp trong việc áp dụng pháp luật và ảnh hưởng đến quyền tự do hợp đồng. Thứ hai đối với mua bán hàng hoá quốc tế (khoản 2 Điều 27 Luật Thương mại năm 2015), phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, trong khi đó, Công ước Viên năm 1980 quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế còn có hình thức đa dạng hơn, chỉ cần có người làm chứng thì hợp đồng cũng được công nhận. Sự giới hạn này hiện nay là một rào cản gây trở ngại cho các chủ thể kinh doanh trong nước, hạn chế quyền tự do kinh doanh khi lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp hợp đồng trong nước, không thể kiện các đối tác nước ngoài khi họ ký kết hợp đồng theo hình thức có người làm chứng là bên môi giới. Thứ ba, Bộ luật Dân sự năm 2015 vẫn còn một số quy định bất cập, vướng mắc như: Khoản 3 Điều 420 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ đề cập đến vai trò của Tòa án mà không đề cập tới vai trò của trọng tài liên quan đến việc điều chỉnh lại hợp đồng. Việc này sẽ dẫn tới bất cập trong quá trình vận dụng khi các bên có thỏa thuận trọng tài. Bên cạnh đó, cả 05 điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều 420 Bộ luật Dân sự năm 2015 đều không thể hiện được yếu tố hoàn cảnh thay đổi cơ bản là hoàn cảnh mà các bên đã căn cứ để thỏa thuận, thống nhất nội dung hợp đồng. Điểm c khoản 1 điều 420 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ xác định mức độ thay đổi hoàn cảnh, chứ không thể hiện rõ tính liên quan giữa hoàn cảnh với nội dung của hợp đồng. Quy định này gây ảnh hưởng đến việc xác định tiêu chí khi nào việc thay đổi hoàn cảnh là thay đổi cơ bản, từ đó ảnh hưởng đến lợi ích giữa các bên trong quan hệ hợp đồng. 3. Một số khuyến nghị nhằm đảm bảo quyền tự do hợp đồng trong bối cảnh Việt Nam tham gia ký kết các hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới Trong bối cảnh Việt Nam tham gia ký kết các FTA thế hệ mới, cần nhanh chóng rà soát, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và đảm bảo quyền tự do hợp đồng nói riêng cho phù hợp thông lệ quốc tế và cam kết của các FTA thế hệ mới. Bên cạnh đó, cần có những giải pháp đồng bộ đối với Nhà nước, hiệp hội và doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tự do hợp đồng ở Việt Nam hiện nay. Một là, các nhà làm luật cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh quan hệ hợp đồng và đảm bảo quyền tự do hợp đồng ở Việt Nam. Cụ thể: 952
  8.  Cần có quy định luật chuyên ngành phải nằm trong mối quan hệ thống nhất với các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, các quy định về hợp đồng trong luật chuyên ngành không lặp lại những nội dung đã được quy định chung trong Bộ luật Dân sự mà chỉ quy định những nội dung mang tính đặc thù về hợp đồng trong từng lĩnh vực đặc thù. Mặt khác, có thể cụ thể hóa các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 nhưng phải phù hợp với nguyên tắc tự do hợp đồng, phù hợp với các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2015.  Tiếp tục nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định còn chưa hợp lý trong Bộ luật Dân sự năm 2015 liên quan đến việc bảo đảm thực hiện quyền tự do hợp đồng của doanh nghiệp từ những vướng mắc nêu trên. Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện văn bản pháp luật, cần tiếp thu kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài để cải thiện quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng của các chủ thể kinh doanh trong nước với đối tác nước ngoài. Trong quá trình chuyển đổi và hội nhập việc tiếp nhận này trở nên cần thiết, mang tính thực tiễn và đảm bảo lợi ích kinh tế, giúp Việt Nam có được một khung pháp lý hiện đại, công bằng và an toàn để thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và có căn cứ hợp lý để giải quyết tranh chấp nếu phát sinh; tránh được những rủi ro, tranh chấp trong kinh doanh quốc tế do xung đột pháp luật. Hai là, bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật Nhà nước cần nghiên cứu, rà soát kỹ các quy định pháp luật cũng như các yêu cầu trong các FTA thế hệ mới, trên cơ sở đó:  Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách thương mại và hệ thống pháp luật gắn với việc thực hiện các cam kết hội nhập nhằm nâng cao hiệu quả huy động, sử dụng vốn đầu tư, cải thiện môi trường kinh doanh nhưng không gây xáo trộn, ảnh hưởng đến lợi ích của các doanh nghiệp đang hoạt động cũng như các nhà đầu tư mới, không xung đột với các cam kết trong các FTA mà Việt Nam đã và sẽ tham gia.  Tăng cường tuyên truyền, phổ biến thông tin về các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đang tham gia đến từng ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân; tổ chức tập huấn nâng cao năng lực cho các cán bộ thuộc cơ quan quản lý nhà nước các cấp và cộng đồng doanh nghiệp về các cam kết cụ thể có liên quan, bảo đảm hiểu rõ, hiểu đúng, từ đó thực thi một cách đầy đủ, hiệu quả, tận dụng được cơ hội cũng như tránh việc vi phạm các cam kết trong FTA.  Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền pháp luật về quyền tự do kinh doanh nói chung và quyền tự do trong giao kết thực hiện hợp đồng nói riêng để các chủ thể kinh doanh có thể nắm bắt đầy đủ các quyền năng của mình mà pháp luật đã quy định, bảo vệ, cho phép các chủ thể kinh doanh thực hiện. Sự nắm bắt và hiểu rõ các quyền này có ý nghĩa rất lớn là tạo điều kiện cho các chủ thể kinh doanh biết các quyền của mình cũng như những quy định khác của pháp luật cần phải tuân thủ trong quá trình kinh doanh, tránh các rủi ro pháp lý.  Ba là, đối với các hiệp hội cần tiếp tục triển khai các hoạt động cung cấp và tư vấn cho doanh nghiệp về pháp luật kinh doanh, kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như 953
  9. kinh nghiệm đối phó với các vụ kiện quốc tế, những rào cản thương mại của các thị trường xuất khẩu; tổ chức nhiều chương trình xúc tiến thương mại – đầu tư theo thị trường, ngành hàng và lĩnh vực kinh doanh cụ thể để nâng cao khả năng tiếp cận thị trường trong và ngoài nước, đẩy mạnh vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản lý, tạo điều kiện kết nối giao lưu giữa các doanh nghiệp hội viên.  Bốn là, đối với doanh nghiệp cần tăng cường liên kết với nhau, tạo những cơ hội đầu tư, chủ động xây dựng năng lực sản xuất, kinh doanh, cải thiện chất lượng, mẫu mã sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh và xây dựng, quảng bá thương hiệu để có thể cạnh tranh với hàng hóa từ các nước trong khu vực ngay cả trong thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu, nghiên cứu đáp ứng các tiêu chí về quy tắc xuất xứ để được hưởng các ưu đãi về thuế quan. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần theo dõi sát sao các thông tin, lộ trình cam kết... liên quan đến ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp mình để chủ động xây dựng chiến lược chiến lược tiếp cận thị trường, mở rộng xuất khẩu, thu hút đầu tư từ các nước thành viên FTA thế hệ mới. Tóm lại, Việt Nam hiện đã đàm phán, ký kết và thực thi 16 FTA với gần 60 đối tác. Đây cũng chính là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam đang tiến những bước dài trong quá trình hội nhập quốc tế, các giao dịch thương mại trong và ngoài nước không ngừng được xác lập, mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. Việc tiếp tục hoàn thiện về hợp đồng nhằm đảm bảo quyền tự do hợp đồng ở Việt Nam là yêu cầu khách quan, đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần phải xây dựng những chính sách pháp luật mang tính chất định hướng, đúng đắn, mềm dẻo... để tạo hành lang pháp lý an toàn nhất bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia vào các giao dịch trên cơ sở tôn trọng quyền tự do thỏa thuận, tự định đoạt. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Hoàng Giang (2006), “Quyền tự do giao kết hợp đồng trong hoạt động thương mại ở Việt Nam”, Luận văn Tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội 2. Vũ Văn Hà (2017), Vai trò của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong thương mại quốc tế, Tạp chí Cộng sản; 3. Dương Đăng Huệ (2002), “Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật. 4. Mutrap (2010, 2011), “Đánh giá tác động của FTA đối với nền kinh tế Việt Nam”; 954
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1