intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quyết định số 316/QĐ-TTg

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:79

70
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

QUYẾT ĐỊNH PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN “XÂY DỰNG VÀ RÀ SOÁT CÁC CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT VÀ VĂN NGHỆ SỸ; CHẾ ĐỘ TÀI TRỢ, ĐẶT HÀNG ĐỐI VỚI CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT; CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH SÁNG TÁC TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT” THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23-NQ/TW NGÀY 16 THÁNG 6 NĂM 2008 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT TRONG THỜI KỲ MỚI THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quyết định số 316/QĐ-TTg

  1. THỦ TƯỚNG CHÍNH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT PH Ủ NAM ------- Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------------- Hà Nội, ngày 01 tháng 03 năm 2011 Số: 316/QĐ-TTg QUYẾT ĐỊNH PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN “XÂY DỰNG VÀ RÀ SOÁT CÁC CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT VÀ VĂN NGHỆ SỸ; CHẾ ĐỘ TÀI TRỢ, ĐẶT HÀNG ĐỐI VỚI CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT; CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH SÁNG TÁC TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT” THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23-NQ/TW NGÀY 16 THÁNG 6 NĂM 2008 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT TRONG TH Ờ I K Ỳ M Ớ I THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001; Căn cứ Nghị định số 185/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Căn cứ Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới; Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,
  2. QUYẾT ĐỊNH: Điều 1. Phê duyệt Đề án “Xây dựng và rà soát các chế độ chính sách đối với các hoạt động văn học, nghệ thuật và văn nghệ sỹ; chế độ tài trợ, đặt hàng đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật; chính sách khuyến khích sáng tác trong các hoạt động văn học, nghệ thuật” với những nội dung sau đây: 1. Mục tiêu: a) Tạo mọi điều kiện thuận lợi để đội ngũ văn nghệ sĩ sáng tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật; phát hiện và khẳng định những giá trị mới làm phong phú và đa dạng đời sống văn hóa, văn nghệ; góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. b) Từng bước hoàn thiện khung pháp lý đối với việc tài trợ, đặt hàng và khuyến khích sáng tác trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật. c) Xây dựng chính sách đãi ngộ phù hợp, bình đẳng đối với văn nghệ sĩ trong các cơ sở công lập và ngoài công lập, bảo đảm cho văn nghệ sĩ tạo ra các tác phẩm văn học nghệ thuật có chất lượng; thực hiện chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa của Đảng và Nhà nước. d) Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng và đãi ngộ đặc biệt với nhân tài của đất nước trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật. đ) Tôn trọng, phát huy dân chủ, tự do tư tưởng trong hoạt động sáng tạo văn học nghệ thuật, nghiên cứu, sưu tầm để tạo ra các sản phẩm văn học, công trình nghệ thuật, gắn liền với phát huy trách nhiệm công dân của trí thức, văn nghệ sĩ. e) Củng cố, đẩy mạnh hoạt động của các Hội văn học, nghệ thuật ở Trung ương và địa phương nhằm nâng cao khả năng tập hợp, phát huy tiềm năng sáng tạo và phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ của Hội.
  3. 2. Giải pháp: Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chính sách liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến tài trợ, đặt hàng sáng tác các tác phẩm văn học, nghệ thuật, cụ thể như sau: a) Tổ chức hợp lý các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật. b) Tăng cường công tác quản lý kinh phí đầu tư, tài trợ, đặt hàng. c) Sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách nhà nước, đẩy mạnh việc xã hội hóa để khuyến khích sáng tác, hỗ trợ và quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật. d) Đổi mới công tác đào tạo, đặc biệt là tài năng trẻ. đ) Tổ chức các cuộc thi sáng tác, hội thảo khoa học, biểu diễn, trưng bày các tác phẩm văn học, nghệ thuật, trao giải thưởng hàng năm cho các tác phẩm văn học, nghệ thuật có chất lượng cao; quảng bá hợp tác quốc tế, giao lưu và hội nhập với văn học, nghệ thuật thế giới. e) Nâng cao hiệu quả, vai trò của các Hội văn học, nghệ thuật trong việc tạo điều kiện, khuyến khích sáng tác, đẩy mạnh lý luận phê bình, quảng bá các tác phẩm của nghệ sĩ ở trong và ngoài nước. Điều 2. Kinh phí thực hiện Đề án từ nguồn ngân sách nhà nước, huy động các nguồn lực xã hội, sự tham gia, đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong nước, quốc tế và các nguồn vốn tài trợ hợp pháp khác. Ngân sách nhà nước được cấp hàng năm theo quy định hiện hành đảm bảo việc thực hiện Đề án với các nội dung đã được phê duyệt tại Quyết định này. Điều 3. Tổ chức thực hiện
  4. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Nội vụ, Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam và các cơ quan có liên quan triển khai xây dựng các văn bản điều chỉnh chế độ tài trợ, đặt hàng đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, chính sách khuyến khích sáng tác đối với văn nghệ sỹ trong các hoạt động văn học, nghệ thuật. Điều 4. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành. Điều 5. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này. KT. THỦ TƯỚNG PHÓ THỦ TƯỚNG Nơi nhận: - Ban Bí thư Trung ương Đảng; - Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ; - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan Nguyễn Thiện Nhân thuộc CP; - UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW; - Văn phòng Trung ương Đảng; - Ban Tuyên giáo Trung ương; - UBTQLH các Hội VHNT Việt Nam; - VPCP: BTCN, các PCN, Cổng TTĐT, các Vụ: TH, KTTH, ĐP, Công báo;
  5. - Lưu: Văn thư, KGVX (5b). Đ Ề ÁN XÂY DỰNG VÀ RÀ SOÁT CÁC CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VÀ VĂN NGHỆ SỸ. CHẾ ĐỘ TÀI TRỢ, ĐẶT HÀNG ĐỐI VỚI CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC NGHỆ THUẬT. CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH SÁNG TÁC TRONG CÁC HO ẠT ĐỘNG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT (Thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị “Về việc tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”) Phần thứ nhất. BỐI CẢNH Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với văn hóa, văn nghệ, cùng những thành tựu của công cuộc đổi mới và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là cơ sở quan trọng thúc đẩy phát triển văn học, nghệ thuật (VHNT) trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, VHNT và đội ngũ văn nghệ sĩ đã không ngừng phát triển. Trong bối cảnh hiện nay, xu hướng các quốc gia ngày càng đề cao tính đặc thù, bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời chọn lọc tiếp thu các giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại và tích cực hội nhập quốc tế thì chủ trương đẩy mạnh ngoại giao văn hóa, coi văn hóa là một trong những trụ cột để thúc đẩy hợp tác quốc tế ngày càng được coi trọng.
  6. Hơn 50 năm sau Đề cương văn hóa Việt Nam, ngày 16 tháng 7 năm 1998, Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII đã ra Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” trong đó chỉ rõ “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Trong Nghị quyết này, phát triển sự nghiệp VHNT được xác định là một trong 10 nhiệm vụ cụ thể để xây dựng và phát triển nền văn hóa nước ta. Ngày 16 tháng 6 năm 2008, Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) “về tiếp tục xây dựng và phát triển VHNT trong thời kỳ mới” ra đời đánh dấu một bước ngoặt lớn đối với VHNT nước nhà. VHNT, với tư cách là một bộ phận quan trọng và tinh tế của văn hóa được khẳng định là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội. Trong bối cảnh đất nước đang tiếp tục đổi mới toàn diện hướng tới mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại đến năm 2020, VHNT cũng phải phát triển tương xứng với tầm vóc của dân tộc. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, những biến đổi trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội đang là những tiền đề, đồng thời là những thách thức cho sự phát triển của VHNT Việt Nam. Đánh giá tình hình VHNT thời gian qua, Nghị quyết 23-NQ/TW chỉ rõ “VHNT Việt Nam có bước phát triển mới, có những biến đổi sâu sắc, những đặc điểm mới, đạt được nhiều thành tựu nhưng cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém đan xen nhau”. Tình hình đó đặt ra những vấn đề cần đổi mới, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách cho VHNT trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế, nhằm mục tiêu chung là khuyến khích, huy động mọi nguồn lực xã hội cho sự phát triển VHNT, từ khâu sáng tạo, lý luận phê bình, truyền bá đến tiêu thụ văn hóa. Trong đó, việc rà soát, hoàn thiện, xây dựng hệ thống chế độ chính sách đối với các hoạt động VHNT và văn nghệ sĩ, đầu tư đặt hàng, tài trợ, khuyến khích văn nghệ sĩ sáng tác VHNT, thành lập quỹ sáng tác được coi là khâu đột phá, tạo nên những chuyển biến mang tính đồng bộ,
  7. để VHNT phát triển tương xứng với vai trò của mình trong sự nghiệp phát triển văn hóa của thời kỳ mới. Sự cần thiết xây dựng Đề án: Thực hiện sự chỉ đạo và phân công của Ban Bí thư, Bán cán sự Đảng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì phối hợp với các Ban cán sự Đảng Bộ, ban, ngành liên quan lập đề án “Xây dựng và rà soát các chế độ chính sách đối với các hoạt động VHNT và văn nghệ sĩ. Chế độ tài trợ, đặt hàng đối với các tác phẩm VHNT. Chính sách khuyến khích sáng tác trong các hoạt động VHNT” trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Phạm vi nghiên cứu của Đề án: Xây dựng và rà soát chế độ chính sách đặt hàng, tài trợ và khuyến khích sáng tác trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, bao gồm: văn học, nghệ thuật biểu diễn, điện ảnh, mỹ thuật và nhiếp ảnh. Đối tượng nghiên cứu của đề án: Mọi tổ chức, cá nhân thuộc tất cả các thành phần kinh tế có hoạt động liên quan tới lĩnh vực văn học, nghệ thuật, bao gồm: văn học, nghệ thuật biểu diễn, điện ảnh, mỹ thuật và nhiếp ảnh. Phần thứ hai. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VỀ CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH TÀI TRỢ, ĐẶT HÀNG, KHUYẾN KHÍCH SÁNG TÁC VÀ CÁC QUỸ HỖ TRỢ SÁNG TẠO TRONG LĨNH VỰC VĂN HỌC NGHỆ THUẬT I. CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG VHNT HIỆN NAY:
  8. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, trong thời gian qua nhiều chính sách, thể chế pháp luật được ban hành nhằm tạo điều kiện hỗ trợ cho phát triển VHNT, khuyến khích văn nghệ sĩ sáng tác trong lĩnh vực VHNT. Một số chiến lược, quy hoạch định hướng của ngành đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt làm cơ sở định hướng cho VHNT phát triển, như Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 6 tháng 5 năm 2009 phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2010; Quyết định số 45/2008/QĐ-TTg ngày 28 tháng 3 năm 2008 phê duyệt Quy hoạch phát triển nghệ thuật biểu diễn Việt Nam đến năm 2010. Bên cạnh đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các nghị quyết, chỉ thị … chỉ đạo việc thực hiện nhằm tạo điều kiện phát triển VHNT như: Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh công tác xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao … Nhằm điều chỉnh các hoạt động trên, nhiều chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về tài trợ, đặt hàng khuyến khích sáng tác trong lĩnh vực VHNT đã được ban hành. Trong đó, bên cạnh các chính sách chung điều chỉnh nhiều ngành, lĩnh vực đã có các chính sách điều chỉnh trực tiếp, chủ yếu đến lĩnh vực tài trợ, đặt hàng khuyến khích sáng tác trong lĩnh vực VHNT bao gồm 10 luật; 16 nghị định; 10 quyết định; 02 chỉ thị, 11 thông tư (có danh m ục các văn bản quy phạm pháp luật đính kèm). Trong thời gian qua, các văn bản trên đã góp phần quan trọng và có tác động tích cực đối với phát triển VHNT, khuyến khích văn nghệ sĩ sáng tác, lý luận phê bình và biểu diễn. Đảng, Nhà nước luôn coi văn nghệ sĩ là lực lượng xung kích trên lĩnh vực VHNT, các chính sách khuyến khích đối với văn nghệ sĩ đã được bổ sung, cập nhật. Nhiều chính sách đã đi vào cuộc sống là nguồn động viên đối với văn nghệ sĩ. Bên cạnh các chính sách trên, nhiều giải pháp đồng bộ đã thực hiện tạo điều kiện cho VHNT phát triển. Hàng năm, ngân sách nhà nước dành cho phát triển văn hóa đều tăng, trong đó có văn học nghệ thuật. Chương trình mục tiêu Quốc gia về văn
  9. hóa từ năm 2001 đến nay với mức hỗ trợ khoảng 400 đến 500 tỷ đồng mỗi năm đã góp phần tích cực để bảo tồn, phát huy các giá trị VHNT truyền thống, từng bước hiện đại hóa và hội nhập ngành điện ảnh. Các chính sách và giải pháp trên đã tạo động lực xã hội hóa các hoạt động VHNT theo định hướng của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội ngày càng phát triển và hội nhập, VHNT có tính cạnh tranh gay gắt, những tác phẩm VHNT ra đời cần phải được đầu tư cả vật chất và tinh thần (đội ngũ và cơ sở hoạt động) để đáp ứng nhu cầu thụ hưởng các giá trị VHNT của nhân dân ngày càng cao. Do vậy, cần có một chính sách chung về tài trợ, đặt hàng và khuyến khích sáng tác các tác phẩm VHNT bên cạnh việc bổ sung, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành cho phù hợp với yêu cầu của tình hình thực tế hiện nay. II. CHÍNH SÁCH TÀI TRỢ, ĐẶT HÀNG CÁC TÁC PHẨM VHNT: 1. Thực trạng: Hiện nay, chính sách tài trợ, đặt hàng sáng tác các tác phẩm VHNT của Nhà nước được quy định đối với một số lĩnh vực chuyên ngành như xuất bản (bao gồm tài trợ, đặt hàng các tác phẩm văn học), điện ảnh (bao gồm các quy định về sản xuất và cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích và thông qua chính sách hỗ trợ sáng tạo cho các Hội VHNT chuyên ngành trung ương và địa phương theo Quyết định số 926/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ). Trong lĩnh vực xuất bản, chính sách tài trợ, đặt hàng sáng tác các xuất bản phẩm (trong đó có tác phẩm văn học) được quy định tại Luật Xuất bản số 30/2004/QH11, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất bản số 12/2008/QH12, Nghị định số 111/2005/NĐ-CP và Nghị định số 11/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật Xuất bản như sau: “Nhà nước có chính sách đặt hàng đối với xuất bản phẩm về lý luận, chính trị; xuất bản phẩm phục vụ thiếu niên, nhi đồng, đồng bào dân tộc thiểu số, người khiếm thị; xuất bản phẩm cần phổ biến
  10. rộng rãi nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị, xã hội trọng yếu và thông tin đối ngoại; xuất bản phẩn phục vụ nhiệm vụ thông tin đối ngoại; xuất bản phẩm phục vụ đồng bào miền núi, hải đảo”; “Nhà nước mua bản thảo đối với những tác phẩm có giá trị nhưng thời điểm xuất bản chưa thích hợp hoặc đối tượng sử dụng hạn chế; hỗ trợ mua bản quyền đối với tác phẩm trong nước và nước ngoài có giá trị phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội”. “Hằng năm, Bộ Thông tin và Truyền thông duyệt danh mục xuất bản phẩm thuộc diện đặt hàng, mua bản thảo và hỗ trợ mua bản quyền đối với nhà xuất bản trung ương; Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương duyệt danh mục xuất bản phẩm thuộc diện đặt hàng, mua bản thảo và hỗ trợ mua bản quyền đối với nhà xuất bản địa phương”. Trong lĩnh vực điện ảnh, chính sách tài trợ, đặt hàng tác phẩm điện ảnh được quy định tại Luật Điện ảnh số 62/2006/QH11, Lu ật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh số 31/2009/QH12 và Nghị định số 96/2007/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Điện ảnh số 62/2006/QH11 như sau: “Nhà nước đặt hàng sản xuất phim truyện về đề tài thiếu nhi, truyền thống lịch sử, dân tộc thiểu số; phim tài liệu, phim khoa học, phim hoạt hình”. “Đối với phim sử dụng ngân sách nhà nước, chủ đầu tư dự án sản xuất phim phải thành lập Hội đồng thẩm định kịch bản; được quyết định hình thức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu để lựa chọn dự án sản xuất phim, bảo đảm chất lượng tác phẩm và hiệu quả kinh tế - xã hội. Ngoài hai lĩnh vực trên, các lĩnh vực VHNT chuyên ngành khác hiện chưa có quy định cụ thể về chính sách tài trợ, đặt hàng của Nhà nước. Hàng năm, các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành đầu tư thực hiện các tác phẩm công trình VHNT ở các chuyên ngành này thông qua hoạt động sự nghiệp thường xuyên. Ví dụ, hàng năm, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giao chỉ tiêu kế hoạch và kinh phí cho các nhà hát Trung ương để xây dựng vở diễn mới, tổ chức biểu diễn phục vụ công chúng có bán vé hoặc dưới dạng hợp đồng có thu, giao cho các Trung tâm tổ chức
  11. các triển lãm mỹ thuật, nhiếp ảnh … Ở địa phương hoạt động cũng tương tự như vậy. Bên cạnh các quy định theo lĩnh vực chuyên ngành, chính sách tài trợ, đặt hàng của Nhà nước còn thể hiện ở các văn bản quy định về sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích như Nghị định số 31/2005/NĐ-CP ngày 11/3/2005 của Chính phủ quy định về sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, Quyết định số 256/2006/QĐ-TTg ngày 9/11/2006 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế đấu thầu, đặt hàng, giao kế hoạch thực hiện sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, Quyết định số 39/2008/QĐ-TTg ngày 14/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng Ngân sách Nhà nước. Các văn bản quy định về tiêu chí, danh mục các sản phẩm, dịch vụ sử dụng ngân sách nhà nước phải được sản xuất và cung ứng theo hình thức đấu thầu, đặt hàng hoặc giao kế hoạch. Nghị định số 31/2005/NĐ-CP quy định «xuất bản sách giáo khoa, sách và tạp chí phục vụ giảng dạy và học tập; xuất bản bản đồ, sách, báo chính trị; xuất bản tạp chí, tranh ảnh, sách báo phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số; sản xuất phim thời sự, tài liệu, khoa học, phim cho thiếu nhi» được thực hiện theo phương thức đặt hàng hoặc giao kế hoạch, «sản xuất phim truyện do Nhà nước đặt hàng hoặc tài trợ» được thực hiện theo phương thức đấu thầu hoặc đặt hàng. Quyết định số 39/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định «sáng tác, dựng vở và biểu diễn các chương trình nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ của Nhà nước; sáng tác biên soạn sách, báo tạp chí và các ấn phẩm văn hóa phục vụ nhiệm vụ của Nhà nước … » thuộc danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước thực hiện đấu thầu, đặt hàng. Chính sách tài trợ, đặt hàng sáng tác các tác phẩm VHNT cũng được thể hiện ở chính sách hỗ trợ sáng tạo của Nhà nước đối với các Hội VHNT. Ngày 6 tháng 7 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 926/QĐ-TTg về việc “phê
  12. duyệt đề án tiếp tục hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm, công trình VHNT, báo chí ở Trung ương và các Hội VHNT địa phương; hỗ trợ tác phẩm báo chí chất lượng cao ở địa phương giai đoạn 2006-2010”. Hỗ trợ hoạt động sáng tạo VHNT, báo chí theo cơ chế Nhà nước đặt hàng thông qua các Hội VHNT chuyên ngành trung ương; hỗ trợ hoạt động sáng tạo VHNT cho các địa phương thông qua các Hội VHNT địa phương và Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam; hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí chất lượng cao ở địa phương thông qua các Hội Nhà báo ở địa phương. Ngân sách Nhà nước bố trí ổn định kinh phí 210 tỷ đồng trong giai đoạn 2006-2010 để các Hội VHNT từ trung ương đến địa phương thực hiện hỗ trợ sáng tạo cho các tác giả sáng tác tác phẩm VHNT và báo chí những mục tiêu cụ thể như sau: - Hỗ trợ các hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực văn học, mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, kiến trúc, nhiếp ảnh, múa, văn nghệ dân gian, văn nghệ các dân tộc thiểu số, báo chí ở Trung ương và các Hội VHNT địa phương cho các đề tài phản ánh: + Về lịch sử, về các thời kỳ kháng chiến cứu nước, truyền thống văn hóa dân tộc. + Công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ đất nước, những nhân tố tích cực, những con người tiêu biểu trong xã hội, của thời đại. + Thiếu niên, nhi đồng, dân tộc thiểu số. - Hỗ trợ sáng tạo để có những tác phẩm công trình có chất lượng cao; hỗ trợ tác phẩm; công trình có chất lượng cao nhưng chưa được đầu tư. - Hỗ trợ tác phẩm báo chí chất lượng cao ở địa phương tập trung vào các đề tài lớn. Kinh phí hỗ trợ được chia theo tỷ lệ cho các nhóm việc: + Hỗ trợ cho tác giả, nhóm tác giả chiếm từ 20% đến 30%
  13. + Mở trại sáng tác, hội nghị tập huấn, thâm nhập thực tế từ 25% đến 30% + Công bố tác phẩm từ 20% đến 25% + Chi tổ chức thẩm định khoảng 10% Các Nội dung hỗ trợ trong 5 năm (2006-2010): STT Nội dung hỗ trợ Số lượng Tổ chức Trại sáng tác, nghiên cứu, sưu tầm VHNT 1 1.660 Tổ chức lớp tập huấn 2 1.080 Tổ chức hội thảo 3 1.240 Lớp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn sáng tác, 4 1.120 nghiên cứu, sưu tầm VHNT Hỗ trợ công bố tác phẩm 5 4.670 Tổ chức triển lãm (mỹ thuật, nhiếp ảnh) 6 1.540 Số đầu sách xuất bản 7 4.898 Các công trình nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn 8 4.080
  14. Số đoàn và tác giả đi thâm nhập cuộc sống sáng tác 9 1.216 đoàn/14.660 người Tác giả, nhóm tác giả được hỗ trợ 10 12.860 2. Những kết quả đạt được: 2.1. Chính sách tài trợ, đặt hàng của Đảng và Nhà nước đã kích thích sự sáng tạo của văn nghệ sĩ, neo giữ và quy tụ các văn nghệ sĩ vào mục tiêu sáng tạo chung, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần vào công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước. Chính sách tài trợ, đặt hàng các tác phẩm VHNT đã góp phần bảo tồn những giá trị VHNT của Việt Nam qua các thời kỳ từ đấu tranh giải phóng dân tộc đến giai đoạn hòa bình độc lập và phát triển đất nước …. Những cuốn sách, những bộ phim … được Nhà nước tài trợ, đặt hàng là kho tài sản và tài liệu vô giá của quốc gia để lại cho các thế hệ mai sau, giúp họ hiểu hơn về lịch sử phát triển dân tộc. Đồng thời, chính sách tài trợ, đặt hàng và hỗ trợ sáng tạo các tác phẩm VHNT đã góp phần khuyến khích văn nghệ sĩ tạo ra những tác phẩm VHNT chất lượng cao, quy tụ lực lượng văn nghệ sĩ vào mục tiêu sáng tạo để phục vụ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, từ đó góp phần vào công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước. Việc Nhà nước tài trợ cho hoạt động sáng tạo của các văn nghệ sĩ đã tạo điều kiện cho các Hội VHNT Việt Nam hoạt động đúng hướng, đúng chức năng khuyến khích văn nghệ sĩ trong cả nước có nhiều tác phẩm VHNT phục vụ nhân dân trong cơ chế thị trường, góp phần nâng cao đời sống tinh thần trong nhân dân, góp phần ổn định xã hội và thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
  15. 2.2. Các tác phẩm VHNT do Nhà nước tài trợ, đặt hàng là những tác phẩm đạt chất lượng tư tưởng nghệ thuật tốt, được tạo điều kiện phổ biến tới mọi tầng lớp nhân dân để phát huy vai trò định hướng nhận thức, giáo dục thẩm mỹ, là phương tiện hữu hiệu để tuyên truyền chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, là cầu nối của hợp tác kinh tế và hữu nghị giữa các dân tộc. Các tác phẩm VHNT Nhà nước tài trợ, đặt hàng được đầu tư công phu, có chất lượng tư tưởng nghệ thuật tốt, đã có những ảnh hưởng nhất định trong việc định hướng nhận thức, giáo dục đối với công chúng. Vì vậy, tài trợ, đặt hàng tác phẩm VHNT để phục vụ công tác quản lý xã hội của Nhà nước là cần thiết và đúng đắn. Trong thời gian qua trên lĩnh vực văn học, thông qua chính sách đặt hàng xuất bản phẩm và hỗ trợ sáng tạo các tác phẩm VHNT, nhiều bộ sách có giá trị lớn của nền văn học Việt Nam đã được thực hiện như: Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Tổng tập ngàn năm văn hiến Thăng Long …. Nhiều tác phẩm được Giải thưởng Nhà nước đợt 1 và đợt 2, được nhận giải thưởng hàng năm của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, của Hội Nhà văn Việt Nam. Trong 4 năm trở lại đây, đã có hàng trăm tác phẩm gồm tiểu thuyết, tập truyện ngắn, tập thơ và trường ca, lý luận phê bình được in ấn có chất lượng tạo nên một sinh khí mới cho các hoạt động sáng tạo. Các nhà văn ở các vùng sâu, vùng xa, nhà văn dân tộc thiểu số, các nhà văn gặp hoàn cảnh khó khăn về kinh tế được đầu tư kinh phí để đi thực tế sáng tác và hoàn thành tác phẩm. Trong lĩnh vực điện ảnh, các bộ phim truyện nhựa do Nhà nước đặt hàng trong thời gian gần đây như: bộ phim “Ký ức Điện Biên” (năm 2004 – đạo diễn Đỗ Minh Tuấn), “Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông” (năm 2002 – đạo diễn Khắc Lợi), “Đừng đốt” (năm 2008 – đạo diễn NSND Đặng Nhật Minh) có đề tài chính về giai đoạn chiến tranh, cách mạng. Thông qua những bộ phim này, công chúng được hiểu thêm cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, về cuộc chiến tranh cách mạng hào hùng của dân tộc. Những phim Nhà nước tài trợ hàng năm ở các thể loại
  16. phim truyện, phim tài liệu và khoa học, phim hoạt hình đều là những tác phẩm có chất lượng nghệ thuật tốt, là lực lượng chính tham gia các giải thưởng điện ảnh trong nước và quốc tế với những đề tài chủ yếu về công cuộc đổi mới xây dựng đất nước, dân tộc các vùng miền và thiếu nhi. Thông qua chính sách hỗ trợ sáng tạo các tác phẩm VHNT theo Quyết định số 926/QĐ-TTg, nhiều tác phẩm VHNT đã ra đời phản ánh sinh động cuộc sống con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Các tác phẩm VHNT cũng phát huy vai trò là cầu nối hữu nghị giữa Việt Nam và các nước trên thế giới thông qua các cuộc triển lãm quốc tế, các hoạt động giao lưu văn hóa quốc tế …. Trong điều kiện Việt Nam mở rộng quan hệ hợp tác song phương và gia nhập các tổ chức khu vực và quốc tế như ASEAN, ASEM, APEC, WTO …, việc sử dụng các tác phẩm VHNT mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các mối quan hệ quốc tế. 2.3. Chế độ chính sách đối với VHNT đã xây dựng được một đội ngũ văn nghệ sĩ giữ gìn được bản sắc truyền thống và đội ngũ văn nghệ sĩ dân tộc ít người Việc Nhà nước đầu tư kinh phí cho hoạt động sáng tạo, nghiên cứu, sưu tầm tác phẩm, công trình VHNT trên các lĩnh vực, đặc biệt chú trọng tới VHNT truyền thống, dân tộc ít người trong thời gian qua đã thực sự tạo ra luồng sinh khí mới cho giới VHNT cả nước. Nhiều tác giả trên lĩnh vực VHNT truyền thống, dân tộc ít người được đầu tư đã thực hiện được những tác phẩm theo hoài bão và sở trường của mình. Về nội dung, các tác phẩm được đầu tư đã đi vào các đề tài cách mạng, kháng chiến, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới. Sáng tác cho thiếu nhi đã có nhiều khởi sắc. Về thể loại, nhờ có kinh phí đầu tư đã giúp được một phần các loại hình đang gặp khó khăn như tiểu thuyết, phim hoạt hình cho thiếu nhi, các bộ môn sân khấu cổ truyền, nhạc giao hưởng … Sáng tác về đề tài dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa đã có quy mô rộng lớn hơn, nhiều tác giả có thể chuyên tâm sáng tác về đề tài này. Một điều rất đáng lưu tâm trong giai đoạn đầu tư của Chính
  17. phủ thời gian qua là đã bắt đầu hình thành một đội ngũ tác giả người dân tộc, giả m khoảng cách nghề nghiệp giữa trung ương và các tỉnh, thành phố, các vùng miền, tạo sự đoàn kết, nhất trí trong giới, gắn kết sáng tạo với định hướng của Đảng, Chính phủ. 3. Những hạn chế: - Chính sách chưa thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước khuyến khích tài trợ, đặt hàng các tác phẩm VHNT thuộc tất cả các lĩnh vực. - Việc đầu tư sáng tác những tác phẩm có khả năng đạt chất lượng nghệ thuật cao còn hạn chế, chưa mạnh dạn đầu tư cho những tác giả, tác phẩm tốt - Chính sách hỗ trợ sáng tạo theo Quyết định số 926/QĐ-TTg chưa đạt hiệu quả cao - Hoạt động của các báo tạp chí, nhà xuất bản của các Hội VHNT chuyên ngành trung ương rất khó khăn. 4. Nguyên nhân: 4.1. Hiện nay, chính sách tài trợ, đặt hàng các tác phẩm VHNT mới chỉ được ban hành trong lĩnh vực xuất bản, điện ảnh, thông qua chính sách hỗ trợ sáng tạo các tác phẩm VHNT đối với các Hội VHNT và các văn bản về sản xuất và cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích. Chưa có một văn bản chính thức của Nhà nước quy định về tài trợ, đặt hàng chung cho các lĩnh vực VHNT. Do việc tài trợ, đặt hàng mới chỉ được quy định đối với một số chuyên ngành VHNT cụ thể, nhiều chuyên ngành chưa có quy định về tài trợ, đặt hàng tác phẩm VHNT như: mỹ thuật, nghệ thuật biểu diễn, nhiếp ảnh … nên chưa thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước khuyến khích tài trợ, đặt hàng các tác phẩm VHNT thuộc tất cả các lĩnh vực.
  18. Đặc biệt, một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn như sân khấu truyền thống có nguy cơ thất truyền vì không có người tham gia. 4.2. Đối với các lĩnh vực đã có quy định về tài trợ, đặt hàng như điện ảnh, xuất bản: kinh phí tài trợ, đặt hàng thực hiện các tác phẩm hàng năm được bố trí chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực tế, việc đầu tư sáng tác những tác phẩm có khả năng đạt chất lượng nghệ thuật cao còn hạn chế, chưa mạnh dạn đầu tư cho những tác giả, tác phẩm tốt. Do kinh phí tài trợ, đặt hàng có hạn, việc phân bổ kinh phí vẫn còn mang tính chất bình quân. 4.3. Đối với chính sách hỗ trợ sáng tạo theo Quyết định số 926/QĐ-TTg, về nhận thức nhiều Hội và cá nhân quan niệm số kinh phí này là của chung, phân chia mỗi người hưởng một ít, do đó việc đầu tư sáng tác còn dàn trải, phong trào rộng nhưng không sâu. Bên cạnh đó, mặc dù đã qua nhiều năm thực hiện công tác hỗ trợ sáng tạo VHNT cho các Hội VHNT, song đối với các Hội VHNT ở trung ương thì điều kiện tiếp nhận có thuận lợi hơn, nhưng đối với các Hội VHNT địa phương còn nhiều bất cập. Tại nhiều tỉnh, các Hội VHNT không được tiếp nhận đầy đủ toàn bộ kinh phí theo kế hoạch phân bổ của Bộ Tài chính. Sau khi đã có ý kiến từ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (trước kia là Bộ Văn hóa và Thông tin) và Ủy ban toàn quốc Liên hiệp với các Hội VHNT Việt Nam, ngân sách cấp cho các Hội mới được giải quyết. Thực tế từ việc xem xét đánh giá kết quả thực hiện nguồn kinh phí hỗ trợ sáng tạo VHNT hiện nay còn có những vấn đề sau: Một số tỉnh, thành do quán triệt và hiểu chưa đúng chủ trương của Đảng, quyết định của Thủ tướng Chính phủ nên việc chấp hành và thực hiện chưa thực sự nghiêm túc. Một số Hội VHNT (chủ yếu là các Hội VHNT địa phương) tiếp nhận kinh phí theo kế hoạch phân bổ của Trung ương dành cho các Hội VHNT địa phương, phân
  19. bổ có tính chất cào bằng hoặc cá biệt lấy kinh phí này phục vụ cho việc tổ chức sinh hoạt Hội. 4.4. Báo tạp chí, nhà xuất bản là cơ quan ngôn luận của giới VHNT, thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội, nghề nghiệp do Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý. Trong những năm qua, kinh phí hoạt động của các báo tạp chí, nhà xuất bản của các Hội VHNT chuyên ngành trung ương rất khó khăn, một số báo, tạp chí được hỗ trợ một phần nhỏ từ ngân sách nhà nước. Ví dụ Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam được hỗ trợ 50 triệu đồng/năm trong khi kinh phí cần thiết để duy trì tạp chí này là 400 triệu đồng/năm. Do kinh phí hoạt động hiện nay hết sức khó khăn, nhiều báo tạp chí, nhà xuất bản của một số Hội VHNT chuyên ngành trung ương và các Hội VHNT địa phương đang đứng trước nguy cơ phải ngừng hoạt động. 4.5. Các tác phẩm VHNT chưa có kinh phí để giới thiệu quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng, thiếu cạnh tranh thông tin trong cơ chế thị trường. III. CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ KHUYẾN KHÍCH SÁNG TÁC TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG VHNT: Chính sách đầu tư khuyến khích sáng tác trong các hoạt động VHNT của Nhà nước được thể hiện ở các chính sách cụ thể sau: 1. Chính sách tiền lương và phụ cấp Từ năm 2004, thực hiện chính sách cải cách tiền lương, Nhà nước đã ban hành một số văn bản quy định tiền lương đối với các nghệ sĩ hoạt động trong lĩnh vực VHNT, gồm: 1) Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, đã quy định:
  20. * Thang, ngạch lương của nghệ sĩ: - Biên tập, biên kịch, biên dịch (ngạch cao cấp, ngạch chính, ngạch viên); - Đạo diễn (ngạch cao cấp, ngạch chính, ngạch viên); - Họa sĩ (ngạch cao cấp, ngạch chính, ngạch viên); - Diễn viên (hạng I, hạng II, hạng III); - Quay phim (ngạch cao cấp, ngạch chính, ngạch viên); * Các chế độ phụ cấp: a) Quyết định số 180/2006/QĐ-TTg ngày 09 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề và bồi dưỡng đối với lao động biểu diễn nghệ thuật ngành văn hóa – thông tin. - Chế độ phụ cấp ưu đãi nghề (diễn viên), có 2 mức: 20% và 30% so với bậc lương và phụ cấp tiền lương. - Bồi dưỡng tập luyện, có 3 mức: 20.000 đồng/ngày đối với diễn viên đóng vai chính; mức 15.000 đồng/ngày đối với diễn viên đóng vai chính thứ; mức 10.000 đồng/ngày đối với diễn viên đóng vai phụ và phục vụ. - Bồi dưỡng biểu diễn, có 3 mức: mức 50.000 đồng/buổi diễn đối với diễn viên đóng vai chính, chỉ đạo nghệ thuật; mức 40.000 đồng/buổi diễn đối với diễn viên đóng vai chính thứ; mức 20.000 đồng/buổi diễn đối với diễn viên đóng vai phụ, phục vụ và các nhân viên khác (kể cả trưởng, phó đoàn, cấp dưỡng). b) Thông tư số 26/2006/TT-BVHTT ngày 21 tháng 2 năm 2006 của Bộ Văn hóa- Thông tin (trước đây) hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp độc hại, nguy hiểm và
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2