intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Rối loạn stress cấp tính sau chấn thương của bệnh nhân nhập viện do tai nạn giao thông tại Bệnh viện Đa khoa Thái Bình năm 2019

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

20
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Rối loạn stress cấp tính sau chấn thương của bệnh nhân nhập viện do tai nạn giao thông tại Bệnh viện Đa khoa Thái Bình năm 2019 trình bày thực trạng rối loạn căng thẳng cấp tính sau chấn thương do tai nạn giao thông; Các yếu tố liên quan lên rối loạn căng thẳng cấp tính sau chấn thương do tai nạn giao thông.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Rối loạn stress cấp tính sau chấn thương của bệnh nhân nhập viện do tai nạn giao thông tại Bệnh viện Đa khoa Thái Bình năm 2019

  1. RỐT LOẠN STRESS CẤP TÍNH SAU CHẤN THƯƠNG CỦA BỆNH NHÂN NHẬP VIỆN DO TAI NẠN GIAO THÔNG TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA THÁI BÌNH NĂM 2019 Hoàng Thuỳ Dung Nguyễn Thuỳ Dương Trần Thị Ngân Nguyễn Thành Long Đỗ Tùng Dương Bùi Thị Hương Quỳnh Phạm Việt Cường Trung tâm nghiên cứu chính sách và phòng chống chấn thương Đại học Y tế công cộng, Hà Nội TÓM TẮT: Rối loạn stress sau chấn thương là một rối loạn tâm lý, tổn thương về mặt tinh thần khi trải qua hoặc chứng kiến một sự kiện đau thương, đe dọa đến tính mạng, đặc biệt là tai nạn giao thông đường bộ. Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành từ tháng 04/2019 đến tháng 07/2019 trên 215 bệnh nhân tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình nhằm đánh giá các biểu hiện rối loạn stress sau chấn thương ở các bệnh nhân. Kết quả cho thấy tỷ lệ đối tượng có nguy cơ rối loạn stress sau chấn thương do TNGT là 31,6%. Những ký ức không mong muốn, tâm trạng tiêu cực, Gặp khó khăn trong việc nhớ lại những phần quan trọng, nhóm triệu chứng Triệu chứng tránh gặp mặt tiếp xúc, khó ngủ, trở nên cảnh giác, quá cảnh giác hoặc dè chừng và cảm thấy dễ bị giật mình là các triệu chứng phổ biến nhất ở các nạn nhân TNGT. Các yếu tố làm tăng tình trạng rối loạn stress sau chấn thương do TNGT bao gồm: nữ giới(OR= 2,3; 95%CI= 1,2-4,1); những người đang có vợ hoặc chồng (OR=4,5; 95%CI= 1,1 - 19,7) và những người đã ly hôn/ ly thân/góa (OR=3,4; 95%CI=: 1,0-11,7). Việc tham gia bồi thường/kiện cáo sau khi xảy ra vụ TNGT và được hỗ trợ từ bạn bè và đối tượng khác là các yếu tố làm giảm tình trạng rối loạn stress sau chấn thương. Vì vậy, cần có chăm sóc đặc biệt với những đối tượng có nguy cơ cao bị rối loạn stress sau chấn thương và theo dõi, đánh giá kịp thời về tình trạng tâm lý của bệnh nhân. Từ khoá: Rối loạn stress sau chấn thương, Tai nạn giao thông, Thái Bình. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Rối loạn căng thẳng sau chấn thương(Post Traumatic Stress Disorder - PTSD) là một rối loạn tâm lý, tổn thương về mặt tinh thần một số người mắc phải khi trải qua hoặc chứng kiến một sự kiện đau thương, đe dọa đến tính mạng như chiến tranh, thiên tai, tai nạn giao thông hoặc bạo hành. Tai nạn giao thông (TNGT) đường bộ là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới, theo báo cáo về tình hình tai nạn giao thông của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2018, TNGT gây tử vong hơn 1,35 triệu người, và là nguyên nhân thứ 6 về gánh nặng bệnh tật và tử vong trên thế giới (1). Nhiều bằng chứng đã chỉ ra nạn nhân 338
  2. TNGT đường bộ có nguy cơ cao mắc các rối loạn tâm thần, trong đó có rối loạn căng thẳng sau chấn thương, trầm cảm và lo âu (2). Tỷ lệ hiện mắc PTSD sau chấn thương trong số nạn nhân sau TNGT đường bộ ở các nghiên cứu trên thế giới dao động trong khoảng 6,3% đến 58,3% và tỷ lệ ước tính là 22,25% (3). Tại Việt Nam, TNGT hàng năm gây ra khoảng gần 9.000 trường hợp tử vong và hàng chục ngàn trường hợp bị thương khác, tuy nhiên việc điều trị cho nạn nhân sau TNGT chỉ tập trung vào sức khỏe thể chất, các vấn đề về PTSD hay tinh thần sau tai nạn vẫn chưa được chú ý. Theo nghiên cứu của Đỗ Thị Hạnh Trang (2019) trên đối tượng TNTT và đưa ra tỷ lệ rối loạn căng thẳng sau chấn thương do TNGT vào khoảng 17,8%. Việc đánh giá tỷ lệ rối loạn stress sau chấn thương do TNGT là cần thiết nhằm góp phần cung cấp thêm thông tin về thực trạng này. (4) Nghiên cứu rối loạn stress cấp tính sau chấn thương ở bệnh nhân nhập viện do TNGT được thực hiện tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình nhằm đánh giá tỷ lệ mắc PTSD và các yếu tổ ảnh hưởng đến PTSD. Mỗi năm có hơn 3000 người nhập viện và điều trị do TNGT, đây là nguyên nhân chấn thương hàng đầu tại bệnh viện, hậu quả về mặt tinh thần sau tai nạn giao thông để lại cho bệnh nhân có thể gây ảnh hưởng đến quá trình điều trị và hậu quả có thể kéo dài sau chấn thương. II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân đang điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình thoả mãn: trên 18 tuổi; nhập viện được chẩn đoán do TNGT (Mã ICD: V01-V09); điều trị nội trú trên 5 ngày và chưa xuất viện ở thời điểm nghiên cứu. Ngoài ra, bệnh nhân cần đủ sức khỏe cũng như sự tỉnh táo trong thời gian tiến hành phỏng vấn. 2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 04/2019 đến tháng 07/2019 tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình 2.3. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu áp dụng thiết kế nghiên cứu cắt ngang. 2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu Nghiên cứu sử dụng công thức tính cỡ mẫu một tỉ lệ dựa trên tỷ lệ người bị mắc rối loạn căng thẳng sau chấn thương sau khi gặp phải chấn thương theo kết quả nghiên cứu Đỗ Thị Hạnh Trang và cộng sự năm 2018 về tỷ lệ rối loạn căng thẳng sau chấn thương, dự phòng 10% sai số, tổng cỡ mẫu của nghiên cứu là 215 người. Nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện dựa vào danh sách bệnh nhân nhập viện do TNGT tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2019, số lượng bệnh nhân được phỏng vấn từng tuần được tổng hợp lại, việc thu thập số liệu được tiến hành theo từng tuần cho đến khi đủ cỡ mẫu như tính toán (mỗi tuần phỏng vấn mỗi khoa 7 bệnh nhân và phỏng vấn trong vòng 2 tháng). 339
  3. Nghiên cứu thu thập thông tin sử dụng bộ công cụ tự điền (self-interview) về Rối loạn căng thẳng cấp tính theo thang điểm 5 (Acute Stress Disorder Scale - 5). Đây là bộ công giúp liệt kê các triệu chứng của căng thẳng ngay sau khi gặp phải chấn thương, từ đó giúp chẩn đoán Rối loạn căng thẳng cấp tính theo khuyến nghị trong Hướng dẫn Chẩn đoán và Thống kê các rối loạn tâm thần lần thứ 5 (DSM - 5) do Hội Tâm thần học Hoa kỳ phát triển và khuyến nghị (5). Đây là bộ công cụ tự điền dành cho những người sống sót sau những vụ tai nạn trong khoảng thời gian từ 3 ngày cho đến 1 tháng sau khi sự kiện xảy ra. 2.5. Đạo đức của nghiên cứu Nghiên cứu tuân thủ quy định về đạo đức trong nghiên cứu, được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trường Đại học Y tế công cộng theo quyết định số 148/2019/YTCC-HD3 ngày 17/04/2019. III. KẾT QUẢ 3.1. Thực trạng rối loạn căng thẳng cấp tính sau chấn thương do TNGT của đối tượng nghiên cứu Bảng 1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu Tổng Đặc điểm n % 215 100,0 Nhóm tuổi Dưới 25 tuổi 29 13,5 Từ 25 đến 44 tuổi 71 33,0 Từ 45 đến 60 tuổi 67 31,2 Trên 60 tuổi 48 22,3 Hiện đang có Bảo hiểm y tế Có 177 82,3 Không 38 17,7 Xử trí sau khi nhập viện Có phẫu thuật 81 37,7 Không phẫu thuật 134 62,3 Mức độ hồi phục chấn thương sau TNGT Khỏi/hồi phục hoàn toàn 7 3,3 Đỡ 189 87,9 Không thay đổi 19 8,8 Sử dụng rượu bia Có 68 31,6 340
  4. Tổng Đặc điểm n % 215 100,0 Không 147 68,4 Tiền sử bệnh tật Đã từng gặp TNGT trước đây 62 28,8 Đã từng điều trị vấn đề/bệnh về tâm thần 5 2,3 Thành viên gia đình đã từng điều trị vấn đề/bệnh về tâm 8 3,7 thần Cảm thấy phiền muộn trong vòng 1 tháng 147 68,4 Có khoảng 1/3 số đối tượng nghiên cứu trong độ tuổi từ 25 - 44 tuổi, tiếp theo là khoảng 31% đối tượng trong độ tuổi từ 45 đến 60. Hầu hết các đối tượng nghiên cứu đều có bảo hiểm (82,3%). Với các TNGT phải nhập viện của các đối tượng, khoảng 38% trong số đó phải tiến hành phẫu thuật. Tính đến thời điểm nghiên cứu, 87,9% bệnh nhân đã hồi phục và có tiến triển, 8,8% chưa tiến triển. Có tới 31,6% các đối tượng nghiên cứu vẫn đang sử dụng rượu bia. Về tiền sử bệnh tật của đối tượng nghiên cứu, có đến gần 30% bệnh nhân đã từng gặp một TNGT khác trước đây. Tỷ lệ rất ít các đối tượng đã từng điều trị hoặc có thành viên trong gia đình của họ điều trị vấn đề/bệnh về tâm thần (lần lượt khoảng 2% và 3,7%). Tỷ lệ đối tượng cảm thấy phiền muộn trong vòng 1 tháng qua chiếm đến gần 70%. Bảng 2. Tình trạng bệnh nhân theo phân loại triệu chứng PTSD Đặc điểm Không có Nhẹ Nặng Triệu chứng dễ bị xâm nhập Những ký ức không mong muốn về sự kiện làm phiền bạn 105 (48,8) 78 (36,3) 32 (14,9) chúng cứ lặp đi lặp lại, làm bạn thấy khó chịu Những giấc mơ khó chịu lặp đi lặp lại về sự kiện đã gặp phải 160 (74,4) 41 (19,1) 14 (6,5) Đột nhiên cảm thấy hoặc hành động cứ như thể sự kiện đã gặp 147 (68,4) 57 (26,5) 11 (5,1) phải đó thực sự lại xảy ra một lần nữa Có phản ứng vật lý mạnh mẽ khi một cái gì đó nhắc nhở về sự 136 (63,3) 59 (27,4) 20 (9,3) kiện Triệu chứng về tâm trạng tiêu cực Gặp khó khăn trong việc cảm nhận những cảm giác tích cực 124 (57,7) 63 (29,3) 28 (13,0) Triệu chứng về việc phân ly Cảm thấy xa cách hoặc cách biệt với những người xung quanh 144 (67,0) 59 (27,4) 12 (5,6) Gặp phải khó khăn trong việc nhớ lại những phần quan trọng 60 (27,9) 68 (31,6) 87 (40,5) của (sự kiện) 341
  5. Đặc điểm Không có Nhẹ Nặng Triệu chứng tránh gặp mặt tiếp xúc Tránh nhớ lại, suy nghĩ, hoặc cảm xúc liên quan đến (sự kiện) 84 (39,1) 64 (29,8) 67 (31,2) Tránh nhắc đến những vấn đề khác làm gợi nhớ tới (sự kiện) 83 (38,6) 63 (29,3) 69 (32,1) Triệu chứng về việc bị kích thích Gặp khó khăn trong việc ngủ hoặc rơi vào các giấc ngủ triền 58 (27,0) 83 (38,6) 74 (34,4) miên Có hành vi cáu kỉnh, hay nóng giận bất thường, hoặc thái độ 134 (62,3) 65 (30,2) 16 (7,4) hung hăng Trở nên cảnh giác, quá cảnh giác hoặc dè chừng 100 (46,5) 73 (34,0) 42 (19,5) Gặp khó khăn trong việc tập trung 117 (54,4) 68 (31,6) 30 (14,0) Cảm thấy giật mình hoặc dễ bị giật mình 99 (46,1) 73 (34,0) 43 (20,0) Dựa theo tiêu chuẩn đánh giá rối loạn căng thẳng cấp tính sau chấn thương theo khuyến nghị trong Hướng dẫn Chẩn đoán và Thống kê các rối loạn tâm thần (DSM-5), các phân loại triệu chứng được đánh giá trong bộ công cụ sàng lọc ASD-5 bao gồm: 1) Triệu chứng dễ bị xâm nhập; 2) Tâm trạng tiêu cực; 3) Triệu chứng phân ly; 4) Triệu chứng về việc tránh gặp mặt tiếp xúc; 3) Triệu chứng dễ bị kích thích. Nhìn chung, theo phân loại triệu chứng dễ bị xâm nhập, đặc điểm thường gặp nhất ở các bệnh nhân trong nghiên cứu này là việc những ký ức không mong muốn về sự kiện đã xảy ra cứ lặp đi lặp lại khiến đối tượng cảm thấy khó chịu, chiếm khoảng 15% số đối tượng có biểu hiện ở mức nặng. Đặc điểm ít gặp nhất trong số các bệnh nhân đó là việc đột nhiên cảm thấy hoặc hành động cứ như thể sự kiện đã gặp phải đó thực sự xảy ra một lần nữa, chỉ có khoảng 5,1% số bệnh nhân gặp phải đặc điểm này ở mức nặng. Với các triệu chứng về tâm trạng tiêu cực, khoảng 1/3 số đối tượng nghiên cứu gặp khó khăn trong việc cảm nhận những cảm giác tích cực, tuy nhiên chỉ ở mức nhẹ. Có khoảng 13% số đối tượng gặp phải tình trạng này ở mức nặng. Với các triệu chứng về việc phân ly, có đến 40% số đối tượng được phỏng vấn cho biết họ ở mức nặng gặp phải khó khăn trong việc nhớ lại những phần quan trọng của sự kiện đã xảy ra (trong đó tỷ lệ này ở nhóm nữ là 46% và ở nhóm nam lên đến 38%). Đặc điểm ít gặp nhất ở các đối tượng đó là việc cảm thấy xa cách hoặc cách biệt với những người xung quanh, khoảng 2/3 số đối tượng không gặp tình trạng này. Với các triệu chứng liên quan đến việc tránh gặp mặt, tiếp xúc, tỷ lệ các đối tượng tránh nhớ lại, suy nghĩ hoặc có cảm xúc liên quan đến sự kiện xảy ra, cũng như việc tránh nhắc đến những vấn đề khác gợi nhớ tới sự kiện ở mức nặng khá tương đương nhau (khoảng 31%). Có khoảng 39% số đối tượng không gặp phải các triệu chứng này. Đối với nhóm các đặc điểm liên quan đến các triệu chứng của việc bị kích thích, đặc điểm thường thấy nhất ở các đối tượng đó là việc gặp khó khăn trong việc ngủ hoặc rơi vào các giấc ngủ triền miên, có đến 34,4% số đối tượng gặp phải tình trạng này ở mức nặng. 342
  6. Biểu đồ 1: Phân loại tình trạng PTSD sau chấn thương của ĐTNC theo giới tính Với điểm cắt là 27, nghiên cứu này chỉ ra có khoảng 15,3% số đối tượng phỏng vấn bị PTSD sau chấn thương. Nhóm nam có tỉ lệ mắc PTSD sau chấn thương là 11,8% thấp hơn ở nhóm nữ là 23,8% và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p
  7. Rối loạn stress cấp tính sau TNGT OR Đặc điểm Có Không (KTC 95%) n % n % Nhóm tuổi Dưới 25 tuổi 3 10,3 26 89,7 Từ 25 đến 44 tuổi 17 23,9 54 76,1 2,7 0,7-10,1 Từ 45 đến 60 tuổi 28 41,8 39 58,2 6,2 1,7-22,6 Trên 60 tuổi 20 41,7 28 58,3 6,2 1,6-23,3 Tình trạng hôn nhân hiện tại Độc thân 7 15,9 37 84,1 Đang có vợ/chồng 54 35,3 99 64,7 2,9 1,2-6,9 Ly hôn/ly thân/góa 7 38,9 11 61,1 3,4 1,0-11,7 Trình độ học vấn cao nhất Dưới Trung cấp 31 18,1 140 81,9 0,2 0,05 - 0,9 Trung cấp/Cao đẳng/Đại học 2 4,6 42 95,4 Đánh giá chung về mức độ hỗ trợ bạn bè Hỗ trợ mức thấp 53 40,2 79 59,8 Hỗ trợ mức trung bình 12 20,3 47 79,7 0,6 0,1-2,0 Hỗ trợ mức cao 3 12,5 21 87,5 0,2 0,06-0,8 Đánh giá chung về mức độ hỗ trợ từ đối tượng khác Hỗ trợ mức thấp 17 50,0 17 50,0 Hỗ trợ mức trung bình 38 33,9 74 66,1 0,5 0,2-1,1 Hỗ trợ mức cao 13 18,8 56 81,2 0,2 0,1-0,6 Tham gia bồi thường/kiện cáo sau TNGT Không 34 26,6 94 73,4 1,8 1,0-3,2 Có 34 39,1 53 60,9 Trong nhóm đặc điểm cá nhân của đối tượng nghiên cứu, các yếu tố về giới tính, tình trạng hôn nhân và trình độ học vấn được tìm thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với việc bị PTSD sau TNGT của các đối tượng nghiên cứu. Cụ thể những bệnh nhân là nữ có tỉ lệ PTSD sau TNGT cao gấp 2,2 lần (95%CI=1,2-4,1) so với những bệnh nhân nam. Bên cạnh đó, những người đang có vợ/chồng có tỉ lệ PTSD sau TNGT cao gấp 2,9 lần (95%CI= 1,2-6,9) so với những người hiện đang độc thân. Thậm chí ở nhóm những người ly hôn/ ly thân/góa có tỉ lệ này cao hơn 3,4 lần (95%CI=: 1,0-11,7) so với những người độc thân. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra trình độ học vấn cao có thể làm giảm PTSD sau TNGT ở bệnh nhân, cụ thể những người có trình độ học vấn từ trung cấp/cao đẳng/Đại học trở lên 344
  8. có nguy cơ mắc phải rối loạn chỉ bằng 20% (KTC 95%: 5 - 90%) so với những người có trình độ học vấn dưới Trung cấp. Đối với các yếu tố hỗ trợ từ gia đình, bạn bè, những người xung quanh, những bệnh nhân có hỗ trợ từ những đối tượng khác ở mức cao có tỉ lệ PTSD sau TNGT chỉ bằng 0,2 lần (KTC 95%: 0,1 - 0,6) so với những người có hỗ trợ này ở mức thấp. Một yếu tố được tìm ra cũng có mối liên quan ở đây là việc không tham gia bồi thường/kiện cáo sau TNGT, cụ thể những người có tham gia vào việc bồi thường/kiện cáo sau TNGT có tỉ lệ PTSD do TNGT cao gấp 1,8 lần (KTC 95%: 1,0 - 3,2) so với những người không tham gia vào những sự việc kể trên. IV. BÀN LUẬN Sử dụng bộ công cụ ASD-5 với điểm cắt 27 theo khuyến nghị, nghiên cứu này tìm ra tỷ lệ đối tượng có nguy cơ rối loạn căng thẳng cấp tính sau chấn thương do TNGT là 15,4% (KTC 95%: 10,8 - 20,9%). Kết quả tìm được tương đương với kết quả từ tổng quan hệ thống của tác giả Wenjie về tỷ lệ ước tính rối loạn căng thẳng cấp tính sau chấn thương do TNGT ở người trưởng thành là 15,81% (KTC 95%: 8,27 - 25,14%) (6). Mặc dù kết quả chúng tôi tìm được có phần thấp hơn so với một tổng quan tài liệu khác của tác giả Wanli (7) năm 2017 với tỷ lệ phát hiện rối loạn căng thẳng sau chấn thương do TNGT ở người trưởng thành là 22,3% (KTC 95%: 16,7 - 28,3). Tuy nhiên, nếu xét theo khoảng tin cậy 95% thu được, sự khác biệt giữa kết quả của nghiên cứu này so với tổng quan của Wanli là không có ý nghĩa thống kê. Mặt khác, nghiên cứu này phát hiện được tỷ lệ nguy cơ rối loạn căng thẳng cấp tính sau chấn thương do TNGT như vậy có thể do các lý do sau. Thứ nhất, bộ công cụ tự điền ASD được khuyến nghị nên là bộ công cụ sử dụng để sàng lọc các triệu chứng của rối loạn căng thẳng sau chấn thương (8, 9), khi đó tỷ lệ tìm thấy những đối tượng có nguy cơ sẽ cao hơn so với những nghiên cứu sử dụng bộ công cụ CAPS (đánh giá của chuyên gia) vốn là “chuẩn vàng” cho việc xác định rối loạn căng thẳng này. Thứ hai, thời gian phỏng vấn đối tượng trong nghiên cứu này chỉ trong vòng 1 tháng sau khi họ gặp phải TNGT, đây vẫn là thời gian điều trị tại bệnh viện của họ, do vậy có thể những tác động về mặt tâm lý của vụ TNGT vẫn còn rõ nét hơn nếu so với các nghiên cứu tiến hành thu thập số liệu trên đối tượng trong những khoảng thời gian sau 1 tháng, 3 tháng - 6 tháng hoặc theo dõi đối tượng lâu hơn nữa (1 năm trở lên) sau khi gặp phải TNGT (10-12). Khi so sánh với một nghiên cứu có khoảng thời gian thu thập số liệu tương tự (trong vòng 1 tháng) (13), nghiên cứu của chúng tôi cũng có kết quả tương tự. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng những đối tượng từ 45 tuổi trở lên thì có nguy cơ rối loạn stress sau chấn thương do TNGT cao hơn so với những người dưới 25 tuổi, kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Ryb (14). Điều này có thể giải thích với đặc điểm văn hóa của Việt Nam khi những người từ 45 tuổi trở lên hầu hết đã có gia đình, có con. Khi họ gặp phải TNGT, rất có thể sẽ gây ra những xáo trộn trong cuộc sống thường ngày của gia đình, ví dụ như: con cái phải bỏ việc để chăm sóc, chi phí điều trị nằm ngoài khả năng chi trả của gia đình, v.v... 345
  9. V. KẾT LUẬN Nghiên cứu tiến hành trên 215 bệnh nhân nhập viện do các chấn thương liên quan đến TNGT tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2019, Kết quả cho thấy tỷ lệ đối tượng có nguy cơ rối loạn stress sau chấn thương do TNGT trong nghiên cứu này là 31,6% (KTC 95%: 25,4 - 37,8), trong đó nữ có tỷ lệ rối loạn căng thẳng cao hơn nam. Các yếu tố liên quan đến việc xuất hiện tình trạng rối loạn căng thẳng sau chấn thương do TNGT của các đối tượng bao gồm: là nữ giới (OR=2,3; KTC 95%:1,1 - 5,0), việc có vợ/chồng (OR=4,5; KTC 95%:1,1 - 19,7), trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống (OR=5,0; KTC 95%:1,1 - 20,0), sử dụng xe đạp (OR=3,0; KTC 95%:1,1 - 8,1), tham gia bồi thường/kiện cáo sau khi xảy ra vụ TNGT (OR=2,6; KTC 95%:1,2 - 5,6) và việc có được hỗ trợ xã hội từ gia đình ở mức cao (OR=0,06; KTC 95%:0,01 - 0,1) và những người đặc biệt trong cuộc sống (OR=0,03; KTC 95%:0,01 - 0,2). VI. KHUYẾN NGHỊ Các bác sĩ điều trị (bao gồm cả điều trị tâm lý), cần lưu tâm và có những chăm sóc về mặt tinh thần đặc biệt cho những đối tượng là nữ, sử dụng phương tiện thô sơ hoặc có trình độ học vấn không cao do có bằng chứng rằng những người này thường có nguy cơ bị rối loạn căng thẳng cấp tính do chấn thương sau TNGT cao hơn so với những người còn lại. Bên cạnh đó cần phối hợp với gia đình, người thân làm chỗ dựa về mặt tinh thần cho người bệnh, giúp họ có khả năng hồi phục tốt hơn trong quá trình điều trị khi những yếu tố này được tìm ra có mối liên quan tới việc xuất hiện rối loạn căng thẳng cấp tính sau chấn thương. Trong điều kiện cho phép, các nghiên cứu cũng cần sử dụng các bộ công cụ giúp chẩn đoán khẳng định tình trạng rối loạn căng thẳng sau chấn thương của người bệnh, từ đó đưa ra các can thiệp kịp thời và phù hợp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. World Health Organization. Global status report on road safety 2018, truy cập ngày 18 tháng 11, tại trang web https://www.who.int/publications/i/item/9789241565684. 2018. 2. Bệnh viện tâm thần Huế. Rối loạn stress sau sang chấn - Posttraumatic Stress Disorder (PTSD). 2015. 3. R. A. Bryant. The Current Evidence for Acute Stress Disorder. Current psychiatry reports. 2018;20(12):111. 4. Trang Thi Hanh Do, Ignacio Correa-Velez, Michael P. Dunne. Trauma Exposure and Mental Health Problems Among Adults in Central Vietnam: A Randomized Cross- Sectional Survey. Front Psychiatry. 2019;10:31-. 5. American Psychiatric Association. Diagnostic and statistical manual of mental disorders (5th ed.). Washington, DC: Author 2013. 6. Wenjie Dai, Aizhong Liu, Atipatsa C. Kaminga, Jing Deng, Zhiwei Lai, Jianzhou Yang, et al. Prevalence of acute stress disorder among road traffic accident survivors: a meta-analysis. BMC Psychiatry. 2018;18(1):188-. 346
  10. 7. W. Lin, L. Gong, M. Xia, W. Dai. Prevalence of posttraumatic stress disorder among road traffic accident survivors: A PRISMA-compliant meta-analysis. Medicine. 2018;97(3):e9693. 8. D. Forbes, M. Creamer, D. Biddle. The validity of the PTSD checklist as a measure of symptomatic change in combat-related PTSD. Behaviour research and therapy. 2001;39(8):977-86. 9. Hawkar Ibrahim, Verena Ertl, Claudia Catani, Azad Ali Ismail, Frank Neuner. The validity of Posttraumatic Stress Disorder Checklist for DSM-5 (PCL-5) as screening instrument with Kurdish and Arab displaced populations living in the Kurdistan region of Iraq. BMC Psychiatry. 2018;18(1):259-. 10. R. Naim, I. Wald, A. Lior, D. S. Pine, N. A. Fox, G. Sheppes, et al. Perturbed threat monitoring following a traumatic event predicts risk for post-traumatic stress disorder. Psychological medicine. 2014;44(10):2077-84. 11. Laetitia Chossegros, Martine Hours, Pierrette Charnay, Marlène Bernard, Emmanuel Fort, Dominique Boisson, et al. Predictive factors of chronic post-traumatic stress disorder 6 months after a road traffic accident. Accident Analysis & Prevention. 2011;43(1):471-7. 12. J. Kenardy, M. Heron-Delaney, J. Hendrikz, J. Warren, S. L. Edmed, E. Brown. Recovery trajectories for long-term health-related quality of life following a road traffic crash injury: Results from the UQ SuPPORT study. Journal of affective disorders. 2017;214:8-14. 13. Francisca Ongecha-Owuor, Dammas Kathuku, Caleb Othieno, David Ndetei. Post traumatic stress disorder among motor vehicle accident survivors attending the orthopaedic and trauma clinic at Kenyatta National Hospital, Nairobi2004. 362-6 p. 14. G. E. Ryb, P. C. Dischinger, K. M. Read, J. A. Kufera. PTSD after severe vehicular crashes. Ann Adv Automot Med. 2009;53:177-93. 347
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0