intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Chỉ đạo nâng cao chất lượng làm đồ dùng học tập, đồ chơi tự tạo từ nguyên, vật liệu sẵn có ở địa phương

Chia sẻ: Sinh Sinh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:22

47
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đồ dùng học tập, đồ chơi cùng với trò chơi là nhu cầu tự nhiên không thể thiếu được đối với cuộc sống của trẻ. Đồ dùng học tập, đồ chơi là phương tiện để trẻ hoạt động vui chơi mà hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ Mầm non. Ngoài đồ dùng học tập ra, đồ chơi vốn là thứ trẻ yêu thích nhất, không có đồ chơi trẻ không có phương tiện, môi trường để hoạt động và thực hiện các trò chơi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Chỉ đạo nâng cao chất lượng làm đồ dùng học tập, đồ chơi tự tạo từ nguyên, vật liệu sẵn có ở địa phương

  1. MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỈ ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LÀM ĐỒ DÙNG HỌC TẬP, ĐỒ CHƠI TỰ  TẠO TỪ NGUYÊN ,VẬT LIỆU  SẴN CÓ Ở ĐỊA PHƯƠNG. A. ĐẶT VẤN ĐỀ: I. Lời mở đầu:   Đặc biệt là đối với chương trình đổi mới hình thức tổ  chức giáo dục và  chương trình Mầm non mới hiện nay việc sử dụng các nguyên vật liệu sẵn có  ở  địa phương  để  làm đồ  dùng học tập đồ  chơi cho trẻ  chơi là hết sức cần  thiết. Với phương châm :  “ Học bằng chơi, chơi mà học”  đồ  dùng học tập, đồ  chơi giúp trẻ  mở  rộng   và hiểu biết về thế giới xung quanh, đồ dùng học tập, đồ  chơi còn góp phần   giúp trẻ  phát trển toàn diện về  thể  chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm, kỹ  năng xã hội và thẩm mỹ, khả năng giao tiếp, ứng sử trong cuộc sống. Hơn thế  nữa đồ  đồ  dùng học tập, đồ  chơi tự  tạo là nguyên vật liệu dễ  kiếm, rẻ  tiền   và nếu được học thì ai cũng có thể làm được theo ý tưởng riêng của mình một   cách sáng tạo. Chúng ta đều hiểu và biết rằng : Đồ dùng học tập, đồ chơi cùng với  trò chơi  là nhu cầu tự nhiên không thể thiếu được đối  với cuộc sống của trẻ .Đồ dùng   học tập, đồ  chơi là phương tiện để  trẻ  hoạt động vui chơi mà hoạt động vui   chơi là hoạt động chủ  đạo của trẻ  Mầm non. Ngoài đồ  dùng học tập ra, đồ  chơi vốn là thứ  trẻ  yêu thích nhất, không có đồ  chơi trẻ  không có phương   tiện, môi trường để hoạt động  và thực hiện các trò chơi. Cách thức chơi với   đồ  chơi và những thứ  đồ  chơi mà trẻ  yêu thích được thay đổi theo sự  phát  triển và hiểu biết của trẻ thì chính đồ  chơi đó lại trở  thành đồ  dùng học tập  của trẻ  giúp trẻ  có nhiều cơ  hội trải nghiệm và lĩnh hội các kiến thức thông  qua đồ chơi được sử dụng trong các trò chơi, vì vậy càng có nhiều cách để trẻ  1
  2. chơi với một đồ chơi  thì trẻ càng có cơ hội học tập và tích luỹ kiến thức theo   các cách khác nhau.  Từ nhận thức trên, tôi thiết nghĩ việc trang bị các kiến thức và nâng cao  kỹ  năng làm đồ    dùng học tập , đồ  chơi cho giáo viên Mầm non trong nhà  trường  là việc làm hết sức cần thiết và bổ  ích vì  làm đồ   dùng học tập, đồ  chơi tự tạo là một hoạt động mang tính sáng tạo và độc đáo . Sáng tạo và độc  đáo ở chỗ cùng một nguyên vật liệu mỗi người lại có ý tưởng riêng, cách thức riêng để tạo ra sản phẩm theo  phong cách của mình. Chính vì vậy để phát huy năng lực sẵn có của mỗi người tôi quyết định  chọn đề  tài “Một số  kinh nghiệm chỉ  đạo nâng cao chất lượng làm đồ  dùng học tập, đồ chơi  tự  tạo từ nguyên vật liệu sẵn có ở  địa phương”  với mong muốn góp sức nhỏ  bé của mình trong việc nâng cao chất lượng  chăm sóc giáo dục trẻ Mầm non mà ở một góc độ nhất định nào đó được bắt   đầu từ đồ  dùng học tập. đồ chơi. II. Thực trạng. 1.Thuận lợi:  Trường mầm non xã Nga Bạch là địa phương  thuộc khu vực vùng ven   biển . Cũng chính từ  miền này là cơ  sở  tạo điều kiện cho việc tìm kiếm   nguyên vật liệu dễ dàng, thuận lợi và phong phú, có thể nói tìm bất cứ nơi đâu  và bất cứ   chỗ  nào cũng có nguồn nguyên, vật liệu có thể  làm đồ   dùng học   tập, đồ chơi cho trẻ. Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, chịu khó, có tâm huyết với ngành, có năng   lực chuyên môn, có kỹ năng làm  đồ dùng học tập, đồ chơi theo yêu cầu. 2.Khó khăn:   2
  3. Vì đặc thù riêng của ngành học, giáo viên phải đứng lớp cả  ngày, thời gian  dành cho việc tìm kiếm và làm đồ  dùng học tập, đồ chơi còn ít, phần lớn chỉ  trong thời gian hè, ngày nghỉ và tranh thủ quĩ thời gian còn lại. Số cán bộ giáo viên hiểu cách làm, biết cách vận dụng và khả năng sáng   tạo còn hạn chế, mới chỉ  tập trung  ở  các giáo viên trẻ, khéo tay và có năng   khiếu làm đồ dùng học tập, đồ chơi. Một số  giáo viên chưa phát huy hết tác dụng của những đồ  dùng học  tập,đồ chơi đã có. 3. Kết quả của thực trạng: Mặc dù đã có nhiều cố  gắng trong việc hướng dẫn, chỉ  đạo và động  viên các giỏo viờn  ở  cỏc nhúm lớp tự  làm đồ  dùng học tập, đồ  chơi  từ  các  nguyên, vật liệu sẵn có nhưng để  đáp ứng được với yêu cầu thì phần nào đó   còn hạn chế, số đồ  dùng học tập, đồ chơi phục vụ cho việc học tập, vui chơi   và các hoạt động khác đã có mặt nhưng chưa phong phú về  hình thức và  chủng loại. Thực tế: Mức độ Tổng  Đạt Chưa đạt TT Nội dung yêu cầu yêu cầu số Số  Số  lượng % lượng % 1 Số  lớp có đủ  đồ  dùng học tập,  10 10 100 0 0 đồ chơi ở mức độ tối thiểu 2 Số  lớp có đủ  đồ  dùng học tập,  10 6 60 4 40 đồ  chơi tự làm đảm bảo yêu cầu  chất lượng, phong phú, hấp dẫn. 3 Số   CBGV   có   ý   thức   sưu   tầm  23 15 65 8 35 nguyên vật liệu để  làm đồ  dùng  học tập, đồ chơi. 3
  4. 4 Số  CBGV biết cách làm và vận  23 13 56.6 10 43.4 dụng sáng tạo. 5 Số  CBGV sử  dụng có hiệu quả  23 15 65 8 35 đồ  dùng học tập, đồ chơi đã làm. Xuất phát từ thực tế trên, làm thế nào để  khơi dậy niềm đam mê hứng  thú với đồ chơi và cách làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ, làm thế nào để  cán bộ, giáo viên nâng cao kiến thức, kỹ năng làm đồ dùng học tập, đồ chơi từ  nguyên vật liệu tận dụng, sẵn có của địa phương để giảm bớt chi phí mua đồ  dùng học tập, đồ  chơi có sẵn, đắt tiền mà nhiều khi không phù hợp với lứa   tuổi, làm thế  nào để  khi có đồ  dùng học tập, đồ  chơi đẹp, hấp dẫn : Sẽ  lôi  cuốn trẻ hứng thú tham gia  học tập ; khi có đồ chơi phong phú  “bắt mắt”: trẻ  sẽ  nghĩ ngay đến trò chơi với đồ  chơi đó. Tôi quyết định lựa chọn các giải  pháp trọng tâm để thực hiện có hiệu quả như sau: B . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: I . CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN. 1.Tổ chức hội thảo về đồ dùng học tập, đồ chơi và nâng cao kỹ năng làm  đồ  dùng học tập, đồ chơi cho cán  bộ giáo viên 2.Phát động phong trào làm đồ  dùng học tập, đồ  chơi cho trẻ  từ  các nguyên,   vật liệu dễ kiếm đồng thời sử dụng có hiệu quả đồ dùng học tập, đồ chơi đã  làm. 3. Tổ  chức hội thi làm đồ  dùng học tập, đồ  chơi tự  tạo từ  nguyên, vật liệu  sẵn có.  4. Khai thác tiềm năng sẵn có từ  các bậc phụ  huynh, các lực lượng xã hội   trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu  ủng hộ nhà trường, đồng thời cùng dành  thời gian và công sức làm  đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ. 4
  5. 5. Định hướng kế  hoạch, thời gian chủ  động làm đồ  dùng học tập, đồ  chơi  cho nhà trường và cho giáo viên. II. CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ TỔ CHỨC THỰC HIỆN. I .Tổ  chức hội thảo về  đồ  dùng học tập, đồ  chơi và nâng cao kỹ  năng  làm đồ dùng học tập đồ chơi cho cán bộ giáo viên. Bồi dưỡng và nâng cao kiến thức, kỹ  năng làm đồ  dùng học tập, đồ  chơi cho cán bộ giáo viên có rất nhiều hình thức, mỗi hình thức đều mang lại   hiệu quả  riêng nhưng theo tôi tổ  chức hội thảo không những mang lại hiệu   quả cao về chuyên môn mà còn là hình thức bồi dưỡng về năng lực giao tiếp,  kỹ năng ứng sử, đặc biệt là năng khiếu cá nhân, bởi qua hội thảo họ được trao   đổi, được bàn bạc, được thảo luận đưa ra ý kiến của riêng mình trên cơ sở đó   học tập kinh nghiệm lẫn nhau. Để  tổ  chức buổi hội thảo được tốt tôi   đã cùng Ban giám hiệu nhà  trường xây dựng kế hoạch hội thảo trình lên PGD & ĐT huyện để thống nhất   nội dung, thời gian và hình thức làm. • Mục đích của hội thảo :  Tận dụng những nguyên, vật liệu dễ kiếm, dễ tìm để làm đồ dùng học   tập, đồ chơi sử dụng trong học tập và trong các trò chơi cho trẻ.   Phát huy óc sáng tạo, kỹ  năng làm, rèn luyện tính kiên trì, khả  năng   khéo léo của đôi bàn tay cho cô và trẻ. • Nội dung của hội thảo : Tôi định hướng chỉ xoay quanh 2 vấn đề cơ bản: ­ Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm đã làm đồ dùng học tập đồ chơi từ các nguyên vật liệu sẵn có của địa phương ở mỗi lớp, mỗi cá nhân giáo viên. ­ Giúp nhau thực hành làm các đồ dùng học tập, đồ chơi theo ý tưởng riêng và   cách làm của mỗi người. 5
  6. • Hình thức của hội thảo: Để  tất cả  mọi giáo viên được tham gia, phát huy hết khả  năng vốn có của   mình chúng tôi thực hiện theo hình thức: Bứơc1:  Chia lớp thành 3 tổ theo 3 khối .( Khối nhà trẻ,Khối lớp mẫu giáo   3 tuổi, và 4 tuổi. Khối lớp mẫu giáo 5 tuổi)     Tổ 1: Kinh nghiệm làm đồ  dùng học tập,đồ  chơi từ  tre, trúc, cói đay, rơm,  rạ…             Kinh nghiệm làm đồ dùng học tập, đồ chơi từ  vải , len, sợi…    Tổ 2: Kinh nghiệm làm đồ dùng học tập, đồ chơi từ bìa, giấy, đất nặn.      Kinh nghiệm làm đồ  dùng học tập, đồ  chơi từ  các đồ  vật thiên nhiên:  Vỏ cây, cành cây, hạt đậu, hạt lạc, hạt vừng, các loại hạt trái cây…    Tổ 3: Kinh nghiệm làm đồ dùng học tập, đồ chơi từ các tạp phẩm hoặc từ  các đồ vật khác nhau.     Kinh nghiệm làm đồ  dùng học tập, đồ  chơi từ  các cách   phun, vẩy,   búng, thổi, vo vê.. Sau đó lại đổi chéo tổ, cá nhân làm các loại đồ dùng học tập, đồ chơi từ  các nguyên vật liệu khác nhau. Mời tổ  trưởng lên trình bày ý kiến, các tổ  khác thảo luận, góp ý, bổ  sung. Bước 2:  Giúp nhau thực hành làm các đồ  chơi, đồ  dùng học tập theo ý   tưởng và cách làm của mỗi tổ, mỗi người. Để  thực hiện tốt bước này chúng tôi đề  nghị  các thành viên mang đến  càng nhiều, càng tốt những nguyên vật liệu  ở địa phương ( Các loại hột hạt,   vỏ sò, hến, vỏ dừa , vải màu, chai nhựa,  giấy, bìa các loại, que, các khối gỗ,  sợi đay, sợi cói rơm rạ  đã chuốt phẳng, sợi len, bàn chải răng cũ,  ống nhựa,   6
  7. sợi bèo tây phơi khô..) với bất kỳ hình dáng và kích thức nào, các dụng cụ để  làm. Trên cơ  sở  thảo luận sôi nổi, nhiệt tình với tinh thần trách nhiệm, tạo   không khí thoải mái, tin cậy lẫn nhau, hướng dẫn nhau về cách làm, qui trình  làm và kỹ thuật làm.  Tổ 1:  Kinh nghiệm làm đồ chơi, đồ dùng học tập  từ tre, trúc, cói đay, rơm,   rạ… Ví dụ: ­   Đưa ra kinh nghiệm làm đồ  dùng học tập, đồ  chơi từ  các loại cói   đay, rơm rạ:    + Đan, tết: thành cái làn, mũ, xoong, nồi, chảo rán, bát thìa, cốc uống nứơc…  phục vụ cho các buổi chơi  và các trò chơi phân vai ; các con vật, các hình khối   … để phục vụ chủ đề thế giới động vật, các hoạt động khám phá khoa học ,  nhận biết phân biệt và các hoạt động khác.  + Bện thành những sợi dây tròn, dây dẹt (Để  học tập : Nhận biết dài­ ngắn;  tròn, dẹt ; Để  chơi:   Chơi kéo co, nhảy dây) các thảm tròn, thảm hình chữ  nhật, thảm vuông, thảm hình tam giác (làm đồ dùng học toán: Nhận biết hình  tròn, vuông, chữ  nhật, tam giác; Để  chơi : ngồi chơi ô ăn quan, chồng nụ  chồng hoa, nu na nu nống…) nhằm ôn lại các trò chơi truyền thống, các trò   chơi dân gian phục vụ một số nội dung trong cuộc vận động “trường học thân  thiện, học sinh tích cực”     ­ Kinh nghiệm làm đồ dùng học tập, đồ chơi từ các loaị tre trúc song mây: +Từ  các  ống, các đoạn tre ngà, trúc vàng có màu vàng óng rất đẹp , với kích   thước dài ngắn, to, nhỏ khác nhau có thể làm bộ lồng ghép, bộ gõ, bộ lăn, xúc  xắc, cán cờ, đũa dài, đũa ngắn, làm tầu hỏa, làm cối giã gạo, làm thùng sách   nước…những đoạn trúc nhỏ hơn có thể làm đồ chơi xâu hạt. 7
  8.  ­   Kinh nghiệm làm từ  bìa, giấy, đất nặn : Họ  cho biết có thể  dùng đất sét  của địa phương nhào cho mềm rồi nặn các sản phẩm theo ý muốn, mang phơi   khô, khi sử dụng sạch sẽ, vệ sinh không kém đất mua sẵn. Để  nặn nhanh, chính xác và trong thời gian ngắn tạo được nhiều sản   phẩm chúng tôi hướng dẫn giáo viên bằng nhiều cách : Ví dụ: Đối với qui  trình nặn các con vật : biết cách qui về  nhóm động vật 4 chân, 2 chân và về  các hình khối   cơ bản  như hình khối trứng, hình khối trụ, hình lá…   Cụ  thể: Muốn nặn con hươu sao đứng : Đầu, mình (khối trứng); Cổ,  chân (khối trụ); Tai (hình lá)…Từ các hình khối đó chỉnh sửa ghép lại .Sau đó   lấy hạt bưởi, hoặc hạt vừng, hay hạt cam thảo gắn lên là được con hươu sao  rất đẹp. Nếu muốn tạo dáng hình con hươu sao nằm: chỉ cần uốn gấp chân xếp  dưới bụng, gắn cổ theo hướng lên là được. Muốn hươu đang chạy thì thân hơi đổ  về  phía trước, hai chân trước  cũng nao về phía trước, hai chân sau dượt theo. Tương tự muốn nặn con thỏ, con mèo, con sóc, con trâu …chúng tôi đều dựa   trên các hình khối cơ bản đó và chỉ cần thêm chi tiết phụ mang đặc điểm riêng  của từng con là xong, vừa nhanh, vừa giống thật,  đẹp   mà trông rất  ngộ  nghĩnh. Tổ 2: Kinh nghiệm làm đồ chơi từ các đồ vật thiên nhiên: Vỏ cây, cành cây, ,   vỏ ngao,vỏ sò, vỏ hến ,hạt đậu, hạt lạc, hạt vừng, các loại hạt trái cây… Ví dụ : ­ làm cây phượng: Thân bằng vỏ  cây khô, hoa bằng giấy đỏ  cắt nhỏ,  cành bằng đất nâu bồi, nền dưới gốc bằng đất vàng nhạt. 8
  9. ­ Vỏ  sò trắng chắp thành hình con thiên nga; vỏ  sò các màu chắp thành  hình  con công đặc biệt là đuôi công rất đẹp và hấp dẫn từ các màu sắc tự nhiên. Kinh nghiệm làm đồ chơi từ các tạp phẩm hoặc đồ vật khác nhau. ­ Ví dụ: Lõi chỉ  bằng gỗ  thì làm bánh xe lăn, bằng giấy thì cắt thành khoanh   nhỏ nhuộm màu làm đồ chơi  xâu hạt. ­ Bao diêm cũ bọc giấy màu làm đồ  chơi xếp hình, làm xúc xắc cho trẻ  nhà   trẻ. ­ Những  ống nhựa, dây nhựạ  truyền huyết thanh bỏ  đi có thể  rửa sạch làm  ống nghe cho trò chơi bác sĩ… ­ Những miếng xốp chèn hàng cũng có thể tạo ra nhiều đồ chơi lý thú như cắt  bộ ghế, bộ ấm chén, tủ quần áo, con cá, con chim bồ câu. ­ Những dây buộc hàng bằng ni lông các màu đan thành những  bộ  lồng rất   đẹp không kém lồng nhựa. ­ Đồ chơi bằng rơm, cói, đay : Tết thành con tôm, con cá, con cua (các con vật  sống dưới nước) phục vụ cho chủ đề thế giới động vật;  cái đĩa, cái bát , cái   cốc… (đồ dùng ăn uống) phục vụ cho khám phá khoa học, nhận biết tập nói,  cho các trò chơi phân vai…. Tổ  3: Kinh nghiệm làm đồ  chơi từ  các cách  phun, vẩy, búng, thổi, vo vê..    Ví dụ: Từ  màu nước đã được pha sẵn, kết hợp giữa kỹ  năng : phun, thổi ,  vẩy búng theo ý tưởng cá nhân để  tạo thành các mảng màu đậm nhạt theo ý  muốn, hoặc dùng bàn chải đánh răng cũ thấm vào mầu nước khác nhau rồi   vẩy, bật  bung trên nền bìa thành các mảng lấm chấm với  màu sắc khác nhau để  tạo  thành bức tranh con vật hay bức tranh cây cảnh, bông hoa rất đẹp .  9
  10. Ngoài ra lớp còn được học tập, củng cố  và nâng cao các kỹ  năng khác  như Vo, vê, xé dán, cắt dán, dập giấy, miết đất, đắp, bồi, khâu vá…để tạo ra  nhiều sản phẩm khác nhau mọi người được thực hành nhiều lần và bằng khả  năng sáng tạo của mình cho ra đời được nhiều sản phẩm phong phú, đẹp mắt,   có giá trị sử dụng như cây cối , đồ vật, con vật, tranh ảnh, người, các đồ dùng  gần gũi phục vụ  trong sinh hoạt hàng ngày …có thể  nói sản phẩm làm ra  muôn màu muôn vẻ được trưng bày như là một  “thư viện” đồ chơi tạo thành  bức tranh sinh động, đẹp mắt và vô cùng hấp dẫn. Kết quả:  Về  nhận thức  : Tất cả  mọi người đều phấn khởi và khẳng định sau  hội thảo họ  học tập được nhiều điều bổ  ích như  cách làm, kỹ  năng làm và  nhất là kỹ thuật làm nhanh hơn, chính xác hơn và có những  đồ dùng học tập,   đồ  chơi mà theo họ  cách làm của bạn dễ  hơn nhưng tạo sản phẩm lại đẹp  hơn. Về số lượng: Nhiều hơn, đủ cho các hoạt động học và chơi của trẻ. Về  chất lượng sản phẩm: Chất lượng đảm bảo, bền, đẹp, có giá trị  sử dụng, hình thức phong phú và nhiều thể loại khác nhau. 2. Phát động phong trào làm đồ  dùng học tập đồ  chơi cho trẻ  từ  các  nguyên, vật liệu dễ kiếm ­ đồng thời sử  dụng có hiệu quả đồ  dùng học   tập, đồ chơi đã làm.  Sau hội thảo bước tiếp theo tôi chỉ  đạo các lớp phát động phong trào   làm đồ  dùng học tập,   đồ  chơi tự  tạo theo từng đợt để  lấy thành tích chào  mừng các ngày lễ  trong năm. Một phần giúp cho cán bộ  giáo viên củng cố  cách làm, qui trình làm, mặt khác quan trọng hơn cả là họ  tạo ra được nhiều  sản phẩm cho các cháu học tập, vui chơi. Sau mỗi đợt các trường tổng hợp số  10
  11. lượng làm, chất lượng đồ  dùng học tập, đồ  chơi, báo cáo kết quả  về  Ban   giám hiệu nhà trường. Để  động viên và khuyến khích tinh thần làm chúng tôi  gắn kết quả làm đồ  chơi tự  tạo vào tiêu chí thi đua hàng năm để  các  lớp và   giáo viên phấn đấu. Cũng từ đó các lớp xuất hiện rất nhiều đồ  dùng học tập, đồ  chơi đẹp,  hẫp dẫn, có giá trị sử dụng. Nhiều đồ chơi còn sáng tạo hơn ban đầu như các   cô giáo Cô Lê Thị Vân Hà, cô Lê Dương, cô Nguyễn Trang ( Khối lớp 5 tuổi);   Cô Bùi Thuỷ, Cô Nguyễn Hương( Khối lớp 4 tuổi) cô Hoàng Thuỷ, cô Hoàng  Hạnh( Khối lớp 3 tuổi), cô Đồng Giang, cô Phạm Cúc( Khối nhà trẻ) Các đồ  dùng học tập, đồ  chơi còn được bố  trí, sắp xếp phù hợp trong   các góc chơi, đặc biệt là các đồ  dùng học tập  đồ  chơi đó được phát huy tác  dụng trong mỗi buổi chơi, mỗi trò chơi và với nhiều cách chơi khác nhau. Ví dụ  : Một bộ  vỏ  hến có thể  phân loại to nhỏ, nhiều ít, xếp cao thấp; Xếp   hình các loại   quả, các chữ  số, chữ  cái, bông hoa, các con vật ; Hoặc xếp thành   nhiều hình dáng khác nhau : Từ con cá đang nằm chỉ cần xếp lại cái đuôi theo   hình cong từ dưới lên một chút thành cá đang quẫy đuôi bơi rất đẹp . Trẻ  có   thể chơi cá nhân hoặc theo nhóm, và cùng nhau thảo luận cách chơi. Một yếu tố  để  phát huy tối đa hiệu quả  đồ  dùng học tập, đồ  chơi đã  làm tôi đã cùng ban giám hiệu chỉ  đạo các lớp xây dựng môi trường lớp học   khoa học, sắp xếp hợp lý giúp trẻ dễ thấy, dễ lấy, dễ sử dụng, dễ cất nhằm   tạo điều kiện cho trẻ  được chơi với đồ  chơi thường xuyên theo ý thích cá  nhân của mình. Để có nhiều đồ dùng học tập,đồ chơi cho trẻ chơi và cũng là một trong  các hình thức sử dụng có hiệu quả   đồ  dùng học tập,đồ  chơi đã làm , tôi chỉ  11
  12. đạo các lớp, giáo viên hướng dẫn trẻ cùng tham gia hoạt động làm một số đồ  dùng học tập,đồ  chơi đơn giản cùng với cô, bằng hình thức này trẻ  tham gia   rất hứng thú, chủ  động tìm tòi, khám phá, trải nghiệm để  lĩnh hội kiến thức   một cách tốt nhất phù hợp với việc thực hiện các loại chương trình và cũng là  thực hiện tốt một số nội dung của trường học thân thiện, học sinh tích cực mà  ngành đang chỉ đạo. Kết quả:  Theo thống kê của các lớp số  lượng đồ  chơi được xếp loại cấp  trường (tính theo bộ): Đồ dùng đồ chơi học tập:                       45 bộ. Đồ dùng đồ chơi phản ánh sinh hoạt:    10 bộ. Đồ dùng đồ chơi sân khấu và âm nhạc:  10 bộ Đồ dùng đồ chơi trang trí:                       20 bộ Đồ dùng đồ chơi lắp ghép, xây dựng:     20 bộ. 3. Tổ  chức hội thi làm đồ  dùng học tập, đồ  chơi tự  tạo từ  nguyên vật   liệu sẵn có ở địa phương: Tôi xác định đây là một giải pháp quan trọng để thực hiện tốt nhiệm vụ  năm học và đáp  ứng được yêu cầu đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ. Trên cơ  sở phát động làm đồ dùng học tập, đồ chơi dưới các lớp chúng tôi tổ chức hội  thi theo cấp trường. Tổ chức thi vào tháng 3 năm 2011. Mục đích phát huy cao  độ khả năng tìm kiếm nguyên vật liệu sẵn có và mức độ tham gia của các lớp  đồng thời coi đây là cơ hội để giáo viên bộc lộ hết khả năng của mình. Trước khi chấm chúng tôi yêu cầu các lớp tổng hợp số  lượng dự  thi,   phân được từng loại đồ dùng học tập, đồ  chơi, làm bằng chất liệu gì, thuyết   minh cách làm, cách sử  dụng, phục vụ  cho trò chơi gì, môn học gì để  mọi  12
  13. người cùng biết và vận dụng. Mặt khác chúng tôi yêu cầu đồ  dùng học tập,   đồ chơi dự  thi phải đảm bảo nguyên tắc: ­ Phải đáp ứng được nguyên tắc giáo dục. ­ Phải thỏa  mãn được nhu cầu và ý muốn hoạt động tích cực trong khi  học tập và vui chơi của trẻ. ­ Phải có hình dáng giống như thật. ­ Phải kết hợp hài hòa giữa đường nét, màu sắc, hình khối. ­ Phải đạt tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn, bền chắc, có giá trị sử dụng. Chấm xong chúng tôi trưng   bày sản phẩm tại trường Văn phòng nhà   trường mời lãnh đạo địa phương, hội phụ  huynh, các ban ngành về  dự, tham  quan. Bằng hình thức này chúng tôi đón nhận được sự     ủng hộ  nhiệt tình,  những lời động viên, khen ngợi , ghi nhận công sức của chị em giáo viên trong  nhà trường. Cũng thông qua hội thi họ hiểu được tầm quan trọng của đồ dùng  học tập,đồ chơi đối với sự phát triển của trẻ, đặc biệt là đồ dùng học tập, đồ  chơi này lại được làm chính ngay từ  những nguyên vật liệu có xung   quanh   mình. Chúng tôi nghĩ đây là một hình thức tuyên truyền nhanh nhất, dễ  hiểu  nhất, hiệu quả nhất. Kết quả hội thi : Tính theo đơn vị lớp :                              Giải nhất : 2 lớp  Giải nhì : 3  lớp                                Giải ba: 3 lớp      Giải khuyến khích  1lớp.                                    Giải cho những bộ đồ chơi tiêu biểu, độc đáo: 4 bộ. Để  có kinh nghiệm làm đồ  dùng học tập, đồ  chơi cho những năm tiếp  theo, trên cơ  sở  bản thuyết minh của các lớp   chúng tôi soạn thảo và đóng  13
  14. thành cuốn sách có tên gọi: “Kinh nghiệm làm dùng học tập, đồ chơi từ các   nguyên vật liệu sẵn có của địa phương” phát cho mỗi lớp một cuốn để học  tập  theo nhu cầu.  4.Khai thác tiềm năng sẵn có từ các bậc phụ huynh, các lực lượng xã hội   trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu ủng hộ nhà trường, đồng thời cùng  dành thời gian và công sức làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ. Theo tôi đây là giải pháp quan trọng không thể  thiếu được trong việc  tìm kiếm, nâng cao chất lượng làm đồ  chơi cho trẻ bởi đây là một lực lượng   lớn, nếu các trường biết tận dụng và khai thác bằng nhiều hình thức thì sẽ thu  về nguồn đồ chơi vô tận. Ý thức được điều này tôi cùng Ban giám hiệu tập trung cho 2 vấn đề: * Tuyên truyền cho các bậc phụ huynh và các lực lượng xã hội hiểu được   tầm quan trọng và nguồn lực đồ chơi sẵn có ở địa phương để  họ biết và   thu gom giúp nhà trường.   * Khai thác khả  năng làm đồ  chơi của các bậc phụ  huynh và các lực   lượng xã hội: • Đối với công tác tuyên truyền:   Tùy từng đối tượng và thời gian cho phép chúng tôi đưa ra các nội dung   tuyên truyền phù hợp, dề  hiểu, có tính thuyết phục như  đồ  dùng học tập đồ  chơi giúp trẻ củng cố chương trình học, mở  rộng sự  hiểu biết về  cuộc sống   xung quanh, hoàn thiện và rèn luyện các giác quan, năng lực ghi nhớ, chú ý, óc   quan sát tư  duy và phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  … nếu không có đồ  dùng học  tập, đồ  chơi cho trẻ  học tập, vui chơi thì những nội dung trên sẽ  không đạt   hiệu quả cao, để có nguồn nguyên vật liệu làm đồ dùng học tập , đồ chơi cho  trẻ  thì các bậc phụ  huynh hãy giúp nhà trường có được các nguyên liệu mà  14
  15. hàng ngày chúng ta thường gặp   như  cây cói, sợi đay, sợi rơm đến các hộp   chè, sợi thép, các loại bìa, vải, len, sợi, các loại hột hạt, hạt vừng, hạt đỗ…  mà nhà nông chúng ta sản xuất được đều có thể  sử  dụng làm đồ  dùng học  tập, đồ chơi cho trẻ được và đề nghị họ mang ủng hộ nhà trường . Chúng tôi còn tổ chức tuyên truyền trong các cuộc họp phụ huynh, Hội   khuyến học, Đoàn thanh niên, Phụ  nữ  …và qua các hoạt động khác như  các   hội thi : “Bé thông minh, nhanh trí ” ; hội “thi đồ  dùng học tập, đồ  chơi” cho   tất cả các đối tượng. Ngoài ra chúng tôi còn tuyên truyền bằng hình thức mời phụ  huynh về  dự  hoạt động chơi tại các nhóm, lớp do cô tổ  chức để  họ  được chứng kiến  con em mình học tập vui chơi với đồ  chơi một cách say sưa và hứng thú,   chúng tôi nghĩ :  Chỉ  có trẻ  và đồ  chơi, trẻ  chơi không biết chán, quên cả   giờ  mẹ  đón, đó là những hình  ảnh rất sinh động để  vận động, tuyên truyền  phụ  huynh, từ  đó phụ  huynh rất phấn khởi và có ý thức sẵn sàng đóng góp  nguyên vật liệu cho nhà trường. Hơn thế nữa chúng tôi còn thông báo về chủ đề sắp tới để  khuyến khích cha   mẹ trẻ tham gia đóng góp nguyên vật liệu làm đồ dùng học tập đồ  chơi phục  vụ cho chủ điểm, chủ đề đạt hiệu quả cao. • Đối với  việc khai thác khả năng làm đồ dùng học tập, đồ chơi của các   bậc phụ huynh và các lực lượng xã hội:  Chúng tôi làm bằng cách thông qua tìm hiểu lý lịch của trẻ  về  nghề  nghiệp,   năng khiếu của từng phụ huynh trong lớp. Từ chỗ khai thác đúng nghề, đúng nghiệp cùng với khả năng tham mưu   khéo léo, chúng tôi đã có một lực lượng hết sức “ đông đảo”; nhiều phụ huynh  15
  16. tích cực phát huy “tay nghề” sẵn có của mình cùng tham gia làm đồ dùng học  tập, đồ chơi cho trẻ. Ví dụ: ­ Phụ huynh làm nghề thợ may thì tận dụng vải thừa từ nhiều màu sắc   để may các con giống, rối tay, trang trí “sân khấu” cho các câu chuyện kể, cho   hoạt động âm nhạc… ­ Phụ  huynh làm nghề  cơ  khí thì uốn thép , khoan sắt : làm các đồ  dùng đồ  chơi kéo đẩy như   : xe  “chở  cói”; các vật dụng như  : thùng xách nứơc, roa  tưới cây ; “ chiếc nón kỳ diệu” để phục vụ học tập và vui chơi cho trẻ ­ Phụ huynh làm nghề  mộc thì làm đồ  chơi từ  gỗ: tạo ra  các khối chữ  nhật,   tròn, vuông, cuốc, xẻng, liềm cắt cói, liềm cắt lúa, cày, bừa, go dệt chiếu, xe  đay…phục vụ  cho chủ  điểm ngành nghề   nói chung và một số  nghề  của địa   phương Nga Bạch nói riêng  đồng thời cũng phục vụ  cho một số trò chơi dân   gian là một trong các nội dung của trường học thân thiện, học sinh tích cực. ­ Phụ huynh làm nghề thủ công đan lát thì đan làn, cốc chén, đĩa, mũ, dép…từ  cây cói, sợi đay để tặng nhà trường phục vụ cho chủ điểm gia đình…  Những tấm gương tiêu biểu như phụ huynh của các cháu ở các lớp 5 tuổi A1,   5 tuổi A2, 5 tuổi A3, 4 tuôi B3, Nhóm trẻ 25­ 36 tháng… Ngoài ra còn có các  người thân của cán bộ giáo viên như Ông nội của cháu Đào Thanh Bình (lớp 5   tuổi A2); bố đẻ của cô giáo PhạmThị Cúc( Nhóm trẻ 25­ 36 tháng) chồng của  cô  Lê Thị Dương (Lớp 5 tuổi A2),… Đặc biệt là các thành viên của Hội phụ huynh nhà trường, của Hội phụ  nữ  , của Ban văn hóa xã ,. Nhất là qua  hội thi “Bé với an toàn giao thông và  bảo vệ  môi trường” trong năm học này đã tạo lên được không khí hào hứng,   sôi nổi nhiệt tình từ các các lực  lượng xã hội phục vụ cho hội thi : ngoài các  chùm thơ, bài vè, các bài ca dao …có nội dung thiết thực, 2 hội thi còn được   16
  17. đón nhận quà, tiền mặt, đồ dùng đồ chơi, các loại tranh ảnh  của các “họa sĩ ”   không chuyên như  phụ huynh, các anh chị Đoàn Thanh niên , các họa sĩ chuyên   ngành như  Ban Văn hóa xã, vẽ tặng và ủng hộ  và phong phú thêm nguồn đồ  dùng học tập, đồ chơi cho trường  được khai thác ngay từ chính trong hội thi. Kết quả : Qua chọn lọc :  Từ vải : 30 rối tay; 20 con giống các loại; 3 phông trang trí “Sân khấu”;  Từ thép, nhôm : 3 xe kéo đẩy, 3 đôi thùng xách nước, 4 roa tưới cây;  Từ  gỗ: 150 khối chữ  nhật; 123 khối vuông; 115 khối tam giác ; 156  khối tròn;  43 cuốc, xẻng, liềm cắt cói, cắt lúa;  3 cày bừa, go dệt chiếu xe   đay;  Từ  cói : 28 bộ  cốc chén. 18 đĩa ,28 làn “ đi chợ”, 17 mũ,  15 đôi guốc  dép các cỡ; 21 con vật ...v.v  Từ bìa, giấy bạt: 4 bộ tranh truyện kể, 4 bộ tranh thơ.  35 b ức tranh v ẽ  tặng hội thi “Bé với an toàn giao thông và bảo vệ môi trường ” của nhà trường  trong năm… và còn nhiều đồ  dùng học tập đồ chơi có giá trị khác. Có thể  nói thành công của giải pháp này là chúng tôi đã dấy lên được  phong trào làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ từ các lực lượng xã hội. Tạo   được sự  gắn bó giữa Gia đình ­ Nhà trường ­ Xã hội . Nhất là tạo được sự  thay đổi hành vi của các bậc phụ huynh, của cộng đồng về  làm đồ  dùng học  tập, đồ  chơi và cách làm đồ  dùng học tập đồ  chơi cho trẻ, kết lại thành sức  mạnh tổng hợp góp tiếng nói chung nâng cao chất lượng Giáo dục Mầm non,  tạo điều kiện tốt nhất cho nhà trường hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ  được   giao trong năm học này và những năm học tiếp theo. 5. Định hướng kế  hoạch, thời gian làm đồ  dùng học tập, đồ  chơi cho  trường và giáo viên: 17
  18. Để có đồ dùng học tập, đồ chơi phục vụ trẻ không phải bất cứ  lúc nào  cũng  có thời gian để làm, hơn nữa các giáo viên ít có cơ hội học tập lẫn nhau   nâng cao kiến thức kỹ  năng làm đồ  chơi. Câu hỏi đặt ra là : Làm thế  nào để  mình hoàn toàn chủ động có nhiều đồ dùng học tập, đồ chơi  tự tạo trong suốt  năm học. Tôi đề nghị và thống nhất với các trường: Căn cứ  vào  qui định nhà trẻ hoạt động trong cả thời gian hè, mẫu giáo   được nghỉ 2 tháng (tháng 6,7) tháng 8 dành cho chuyên đề, điều tra cháu trong   độ tuổi và một số công tác khác chuẩn bị cho năm học mới: Thứ nhất: Trong thời gian hè tiếp tục phát động phong trào tìm kiếm nguyên vật liệu và động viên chị em tập trung về trường theo tinh thần chung   1­2 tuần làm đồ dùng học tập đồ chơi cho trẻ. Thứ  hai  : Trong thời gian hè và trong cả  năm học các trường và giáo  viên có kế  hoạch bổ  sung  đồ  dùng học tập, đồ  chơi tự  làm theo tháng, theo  chủ  đề  . Chúng tôi đề  nghị  giáo viên căn cứ  vào chương trình của từng độ  tuổi, từng chủ đề xem độ tuổi đó, chủ đề đó có những  trò chơi gì, bài học gì ,   cần những đồ  dùng học tập đồ  chơi nào, cái gì đã có và có thể  vận dụng  được, còn cái gì chưa có  để chủ động làm. Ví dụ  :  Đối với trẻ  mẫu giáo 5 tuổi đang thực hiện chủ  đề  “Trường mầm  non”, chủ đề tiếp theo là chủ đề  “Bản thân” thì ngoài những đồ dùng học tập,  đồ chơi đã có, có thể vận dụng được thì cần phải chủ động bổ sung thêm đồ  dùng học tập, đồ chơi mới đầy đủ  và  phù hợp cho đề  “Bản thân”. Thứ  ba: Phát huy và sử  dụng có hiệu quả  những đồ  dùng đã làm một  cách tốt nhất theo quan điểm làm đồ  dùng học tập là để  cho trẻ  học, làm đồ  chơi là để  cho trẻ  chơi chứ  không phải để  trung bày hay trang trí. Luôn luôn  thay đổi mẫu làm, hình thức, kiểu dáng trên cùng một loại đồ dùng đồ chơi để  18
  19. tạo sự  hấp dẫn kích thích ham muốn được học tập, được vui chơi của  trẻ  đến mức : Khi nhìn thấy đồ chơi trẻ nghĩ ngay đến  trò chơi và cách chơi   với đồ chơi đó. C. KẾT LUẬN : Đồ  dùng học tập, đồ  chơi tự  tạo từ  các nguyên vật liệu sẵn có  ở  địa   phương có ý nghĩa vô cùng to lớn trong giáo dục phát triển toàn diện cho trẻ :   Phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, phát triển tình  cảm xã hội và phát triển thẩm mỹ…chính vì vậy nâng cao kiến thức kỹ năng  làm đồ dùng học tập, đồ chơi để để có thật nhiều và đầy đủ  cho trẻ  học  và  chơi là một việc làm cần thiết, bổ  ích, là trách nhiệm của mỗi cán bộ  giáo   viên vì đồ  dùng học tập, đồ  chơi là người bạn thân thiết, là “sách giáo khoa”  giúp trẻ học làm người. Hơn thế nữa đồ dùng học tập và đồ chơi còn có mối  quan hệ chặt chẽ và bổ trợ cho nhau : Đồ chơi trong một hoàn cảnh nhất định  nào đó lại được sử dụng làm đồ dùng học tập cho trẻ và giáo cụ trực quan cho  giáo viên khi có nhu cầu và ngược lại một số đồ dùng học tập có thể trở thành   đồ  chơi cho trẻ  nếu thấy phù hợp. Bằng sự  nỗ  lực của giáo viên, những cố  gắng của đội ngũ cán bộ giáo viên chúng tôi đã đạt được kết quả như sau: 1. Kết quả nghiên cứu : Mức độ Đạt Chưa đạt Tổng TT Nội dung yêu cầu yêu cầu số Số Số % % lượng lượng 19
  20. 1 Số  trường có đủ  đồ  dùng học tập,  10 10 100 0 0 đồ chơi ở mức độ tối thiểu 2 Số  trường có đủ  đồ  dùng học tập,  10 9 90 1 10 đồ   chơi   tự   làm   đảm   bảo   yêu   cầu  chất lượng, phong phú, hấp dẫn. 3 Số CBGV có ý thức sưu tầm nguyên  23 21 91 2 9 vật liệu để làm đồ dùng học tập, đồ  chơi. 4 Số   CBGV   biết   cách   làm   và   vận  23 20 87 3 13 dụng sáng tạo. 5 Số  CBGV sử  dụng có hiệu quả  đồ  23 21 91 2 9 dùng học tập, đồ chơi đã làm. 2. Bài học kinh nghiệm:  Để chủ động đáp ứng được đồ dùng học tập đồ chơi cho trẻ ngày càng  nhiều, phong phú, hấp dẫn và có chất lượng. Tôi nghĩ chúng ta cần: 2.1 Có kế hoạch chỉ đạo chủ động làm đồ dùng học tập, đồ chơi ngay từ đầu  năm học . ­ Thường xuyên tổ chức được hội thảo đồ dùng học tập, đồ chơi và cách làm  đồ  dùng học tập, đồ  chơi tự  tạo  để  nâng cao kiến thức, kỹ  năng và kinh  nghiệm cho đội ngũ cán bộ giáo viên. ­ Xây dựng được ý thức tìm kiếm, nhặt nhạnh nguyên, vật liệu sẵn có từ đội ngũ cán bộ  giáo viên, các lực lượng xã hội bằng nhiều hình thức làm phong  phú  thêm “ kho nguyên, vật liệu ” sẵn có để  làm đồ  dùng học tập, đồ  chơi  cho trẻ vào bất cứ lúc nào khi có thời gian và nhu cầu. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2