intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Giải pháp nâng cao chất lượng làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ 5- 6 tuổi A4 tại trường Mầm non Xuân Du

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

8
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Giải pháp nâng cao chất lượng làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ 5- 6 tuổi A4 tại trường Mầm non Xuân Du" nhằm phân tích, chỉ ra vai trò của tác phẩm văn học đối với việc giáo dục toàn diện nhân cách trẻ Mầm non. Chỉ ra thực trạng việc cho trẻ 5-6 tuổi làm quen với tác phẩm văn học ở các trường mầm non hiện nay. Tìm ra các biện pháp hiệu quả nhất giúp giáo viên nâng cao chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi làm quen với tác phẩm văn học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Giải pháp nâng cao chất lượng làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ 5- 6 tuổi A4 tại trường Mầm non Xuân Du

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NHƯ THANH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC CHO TRẺ 5-6 TUỔI A4 TẠI TRƯỜNG MẦM NON XUÂN DU Người thực hiện: Hoàng Thị Thúy Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Mầm non Xuân Du Sáng kiến thuộc lĩnh vực: Chuyên môn THANH HOÁ NĂM 2022
  2. Mục lục 1. Mở đầu..............................................................................................................1 1.1. Lí do chọn đề tài.......................................................................................... 1 1.2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................1 1.3. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................2 1.4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................2 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm....................................................................2 2.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................ 2 2.2. Thực trạng ...................................................................................................3 2.2.1. Thuận lợi................................................................................................... 3 2.2.2 Khó khăn....................................................................................................3 2.2.3. Kết quả thực trạng ................................................................................. 4 2.3. Các biện pháp thực hiện............................................................................. 4 2.3.1. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học thông qua kể chuyện sáng tạo..........................................................................................................................4 2.3.2. Gây hứng thú cho trẻ trong giờ hoạt động làm quen tác phẩm văn học.........................................................................................................................7 2.3.3. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học thông qua hoạt động học.....8 2.3.4. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học thông qua hoạt động chơi ở các góc.................................................................................................................10 2.3.5. Cho trẻ làm quen tác phẩm văn học thông qua tổ chức các họat động văn học nghệ thuật............................................................................................ 11 2.3.6. Cho trẻ làm quen tác phẩm văn học thông qua việc sử dụng đồ dùng trực quan ...........................................................................................................13 2.3.7. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học thông qua các hoạt động ngoài giờ học...................................................................................................... 15 2.3.8. Phối kết hợp với cha mẹ trẻ...................................................................15 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.....................................................................16 3. Kết luận, kiến nghị........................................................................................ 18 3.1. Kết luận...................................................................................................... 18 3.2. Kiến nghị.................................................................................................... 19
  3. Tài liệu tham khảo.............................................................................................21 DANH MỤC.......................................................................................................22
  4. 1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài Maria Montessori từng nói:“Thời kỳ quan trọng nhất của cuộc đời không phải là ở tuổi đại học, mà là thời kỳ đầu tiên, giai đoạn từ khi sinh ra cho đến khi 6 tuổi” [1]. Giai đoạn: “Vàng” cho sự phát triển toàn diện của trẻ. Đúng vậy muốn ngày mai có những nhân tài, những con người có đủ tri thức, hiểu biết để cống hiến cho nhân loại thì ngay từ lúc này chúng ta phải chăm sóc trẻ thật tốt. Đất nước ta ngày một phát triển, do vậy con người cần phải năng động sáng tạo để phù hợp với sự phát triển đó. Để được như vậy trẻ Mầm non ngay từ thuở ban đầu cần được tiếp xúc và làm quen với các tác phẩm văn học, đặc biệt là trẻ 5-6 tuổi, nhận thức, tư duy, ngôn ngữ và tình cảm xã hội gần như hoàn thiện, mà trong đó văn học góp phần không nhỏ vào việc phát triển nhân cách trẻ. Như chúng ta đã biết, văn học là chiếc cầu nối để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Từ câu hát ru của mẹ, câu ca dao của bà, chuyện kể của các cô giáo sẻ nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ, là tấm gương mẫu mực về lời ăn tiếng nói cho trẻ học tập. Ngoài ra văn học đem lại những hiểu biết ban đầu về thế giới xung quanh, giúp trẻ làm quen với tiếng nói chau chuốt, làm giàu ngôn ngữ cho trẻ giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và mang lại những bài học đạo đức sâu sắc đầu đời. Việc hướng dẫn cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi “Làm quen với tác phẩm văn học” là cơ hội tốt để sớm hình thành ở trẻ những năng lực hoạt động ngôn ngữ thái độ, phát triển trí tuệ và kỹ năng làm quen với văn học. Qua đó, giáo dục tình cảm và phát triển tư duy mở rộng vốn hiểu biết của trẻ. Chính vì lẽ đó, việc mỗi giáo viên phải lựa chọn những câu chuyện, bài thơ để kể cho trẻ nghe không phải là chuyện dễ, mà nó phải phù hợp với tâm sinh lý trẻ, làm sao đưa những câu chuyện đó vào trẻ một cách nhẹ nhàng, tìm ra những lời hay để thông qua câu chuyện cho trẻ đến với thế giới kỳ diệu có những bà tiên, ông bụt. Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động làm quen với tác phẩm văn học và tình hình thực tế của trường, lớp, tôi đã nghiên cứu, tìm tòi, trao đổi với bạn bè đồng nghiệp để tìm ra một số giải pháp nhằm hướng dẫn trẻ lớp tôi học tốt môn văn học một cách có hiệu quả nhất. Vì những lẽ nêu trên tôi nhận thấy việc giúp trẻ làm quen với tác phẩm văn học là rất quan trọng và cần thiết, tôi trăn trở tìm hiểu và nghiên cứu tìm ra “Giải pháp nâng cao chất lượng làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ 5- 6 tuổi A4 tại trường Mầm non Xuân Du” làm đề tài nghiên cứu của mình. 1.2. Mục đích nghiên cứu Phân tích, chỉ ra vai trò của tác phẩm văn học đối với việc giáo dục toàn diện nhân cách trẻ Mầm non.
  5. 2 Chỉ ra thực trạng việc cho trẻ 5-6 tuổi làm quen với tác phẩm văn học ở các trường mầm non hiện nay. Tìm ra các biện pháp hiệu quả nhất giúp giáo viên nâng cao chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi làm quen với tác phẩm văn học. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Các giải pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi A4 làm quen với tác phẩm văn học tại trường Mầm non Xuân Du. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên lý thuyết: Sử dụng trong việc nghiên cứu sách vở, chuyên đề, tài liệu có liên quan đến vai trò của tác phẩm văn học đối với việc giáo dục trẻ và việc nâng cao chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi làm quen với tác phẩm văn học. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Sử dụng trong quá trình quan sát hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động học của trẻ 5-6 tuổi lớp mình và qua các giờ dự của đồng nghiệp. Phương pháp thu thập thông tin: Phương pháp này được sử dụng trong việc tiến hành một vài cuộc phỏng vấn với giáo viên, đồng thời hỏi trẻ một số câu hỏi liên quan đến nâng cao chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi làm quen với tác phẩm văn học. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Từ những thông tin và số liệu thu thập được ở trên, người viết tiến hành thống kê, chọn lọc những thông tin hữu ích và phân loại rồi tính toán đưa ra những kết quả xác thực nhất phục vụ cho việc nghiên cứu. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận Như chúng ta đã biết “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội” [2]. Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân. Các cơ sở giáo dục Mầm non có nhiệm vụ tạo điều kiện tốt nhất để trẻ phát triển hài hoà thể chất và tinh thần, có một số kinh nghiệm, một số kỹ năng, để trẻ phát triển một cách toàn diện, đặt nền tảng đầu tiên cho sự hình thành những phẩm chất con người mới, xã hội mới. Khi trẻ càng lớn, nhu cầu hòa nhập xã hội, tiếp xúc với thế giới bên ngoài càng cao. Vì vậy hoạt động văn học là một trong những hoạt động không thể thiếu và vô cùng quan trọng đối với trẻ Mầm non, thông qua môn học này nhằm phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ giúp trẻ có đủ vốn từ để nói lưu loát, diễn đạt rõ ràng, việc làm quen với tác phẩm văn học giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, khả năng quan sát tư duy sáng tạo.
  6. 3 Thông qua nội dung các tác phẩm giáo dục trẻ biết yêu thiên nhiên, cỏ cây hoa lá, yêu quê hương đất nước, Bác Hồ, biết yêu cái đẹp, cái thiện, lên án phê bình điều ác, biết ơn và kính yêu ông bà, bố mẹ, anh chị, bạn bè, biết nhường nhịn đoàn kết giúp đỡ các em nhỏ và bạn bè. Xuất phát từ những vai trò cụ thể đó cho nên hoạt động dạy trẻ làm quen với văn học là môn học không thể thiếu trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Vì vậy việc nâng cao chất lượng dạy trẻ làm quen với tác phẩm văn học là vấn đề quan trọng trong đổi mới hình thức tổ chức giáo dục Mầm non. Từ cơ sở lý luận trên, tôi đã nhận thấy được phần nào về tình hình thực tế của lớp. Phần đa trẻ vẫn chưa nắm vững được các kiến thức về văn học, cũng như chưa thực hiện tốt được các kỹ năng cơ bản trong quá trình học văn học. Do vậy, tôi đã quyết định nghiên cứu và tìm ra các giải pháp phù hợp, nhằm giúp trẻ học tốt hoạt động văn học một cách có hiệu quả nhất. 2.2. Thực trạng Trong năm học 2021-2022 được sự phân công của nhà trường tôi chịu trách nhiệm chăm sóc và giảng dạy các cháu lớp 5-6 tuổi A4. Với sĩ số cháu là 28 cháu trong đó số trẻ nam là 16 cháu, trẻ nữ là 12 cháu. Lớp có 2 cô/lớp. Nhìn chung giáo viên đều nhiệt tình có tinh thần trách nhiệm, yêu nghề mến trẻ quan tâm chăm sóc và giáo dục trẻ. Trong quá trình giảng dạy bản thân tôi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn như sau. 2.2.1. Thuận lợi Ban giám hiệu trường luôn sát cánh cùng giáo viên, tạo điều kiện cho giáo viên về chuyên môn, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, giúp đỡ chúng tôi vượt qua khó khăn, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Bản thân luôn xem trẻ như con, yêu nghề, mến trẻ. Có nhiều kinh nghiệm trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ. Được nhà trường phân công tham gia đầy đủ các lớp tập huấn chuyên đề do phòng Giáo dục tổ chức, từ đó nắm vững các phương pháp chuyên môn. Trẻ đi học chuyên cần, ăn ở bán trú tại trường, đảm bảo thời gian nghỉ ngơi đúng khoa học nên việc chăm sóc giáo dục trẻ có nhiều thuận lợi. Các bậc cha mẹ trẻ ngày càng quan tâm đến việc học tập của con em mình. 2.2.2 Khó khăn Tranh ảnh và đồ dùng đồ chơi, đồ dùng phục vụ cho các giờ hoạt động mô phỏng lại nội dung câu chuyện phục vụ cho trẻ chưa phong phú. Chưa ứng dụng công nghệ thông tin vào giờ kể chuyện, nên giờ học chưa phong phú hấp dẫn Một số trẻ vẫn còn nhút nhát, tiếp thu chậm. Cô giáo chưa linh hoạt lồng ghép giờ kể chuyện vào các giờ hoạt động khác.
  7. 4 Một số cha mẹ trẻ chưa hiểu hết tầm quan trọng của việc giáo dục ngôn ngữ cho trẻ qua làm quen với tác phẩm văn học, còn nuông chiều con, chưa thực sự gương mẫu trong việc giao tiếp hàng ngày để cho trẻ bắt chước và học tập. 2.2.3. Kết quả thực trạng Xuất phát từ những đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 5-6 tuổi, căn cứ vào tầm quan trọng của hoạt động làm quen với tác phẩm văn học. Vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát tình hình thực trạng lớp tôi trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm kết quả cụ thể như sau: Bảng kết quả khảo sát thực trạng Tổng Đạt Chưa đạt STT Nội dung khảo sát số Số Tỷ lệ Số Số Tỷ lệ trẻ lượng % lượng % Khả năng nghe hiểu nội dung 1 12 43 16 57 các tác phẩm. Đọc, kể diễn cảm kèm theo cử 2 12 43 16 57 chỉ điệu bộ. Trẻ mạnh dạn trả lời câu hỏi 28 3 13 46,4 15 53,6 của cô và trả lời đầy đủ câu. Tham gia và thể hiện tác 4 11 39 17 61 phẩm qua các vai. Trẻ tự tin trong giao tiếp với 5 12 43 16 57 mọi người xung quanh. Từ những kết quả khảo sát trên cho chúng ta thấy kết quả chưa cao, chưa đồng đều, mà yêu cầu để tồn tại và phát triển trong thực tiễn hiện nay đòi hỏi rất cao để thích ứng cùng với những thay đổi của xã hội. Chính vì vậy một đứa trẻ muốn phát triển toàn diện về nhân cách, nhanh nhẹn, thông minh, bản lĩnh, biết đương đầu với khó khăn. Thì việc rèn luyện cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là hết sức cần thiết ở những năm đầu đời. Chính vì vậy tôi luôn suy nghĩ phải làm gì và làm thế nào để nâng cao hiệu quả khi tổ chức hoạt động. Qua tìm tòi và nghiên cứu, bản thân tìm ra một số giải pháp nâng cao chất lượng làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ 5- 6 tuổi A4 ở trường Mầm non Xuân Du”. 2.3. Các biện pháp thực hiện 2.3.1. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học thông qua kể chuyện sáng tạo Dạy trẻ kể lại chuyện là một nội dung của chương trình làm quen văn học ở trường Mầm non. Đây là hoạt động cơ bản giúp trẻ rèn luyện, thực hành, trải
  8. 5 nghiệm nghệ thuật nó có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển nhân cách, chuẩn bị hành trang vững chắc cho trẻ bước vào tương lai. * Kể chuyện sáng tạo theo tranh Trước khi cho trẻ kể lại chuyện theo tranh tôi cho trẻ làm quen với câu chuyện qua chơi, hoạt động góc, chơi, hoạt động chiều. Tôi kể cho trẻ nghe chuyện bằng những quyển truyện tranh to với những hình ảnh của các nhân vật rõ ràng, sống động, đẹp mắt, nội dung câu chuyện rõ ràng, ngắn gọn. Ngoài ra, tôi còn cho trẻ xem băng đĩa truyện trước giờ trả trẻ với mục đích giúp trẻ ghi nhớ nội dung truyện, nhớ nhân vật truyện và lời thoại của các nhân vật trong truyện. Ví dụ: Câu chuyện “Truyện của dê con”. - Hình thức tổ chức chơi, hoạt động góc - Chuẩn bị: Bàn nhỏ, tranh truyện chữ to, thước chỉ. - Tiến hành: Tôi tổ chức cho trẻ ngồi hình chữ u, trước khi tổ chức cho trẻ kể lại câu chuyện “Truyện của dê con” tôi kể cho trẻ nghe và cho trẻ xem bưng đĩa ở hoạt động chiều trước khi trả trẻ. Mục đích để trẻ nhớ nội dung và các nhân vật trong truyện. trước khi tiến hành cho trẻ kể lại chuyện, tôi đàm thoại với trẻ về các nhân vật và tính cách của các nhân vật trong truyện. Cô cùng trẻ đàm thoại về các nhân vật trong câu chuyện Ví dụ: + Các con thấy chú Dê con trong câu chuyện như thế nào? + Dê mẹ bị làm sao? + Dê mẹ dặn Dê con điều gì? + Khi Dê con vào rừng, Dê con đã gặp ai? + Dê con tưởng Hươu là con vật gì? + Hươu tả chó Sói như thế nào? + Dê con thấy ai trên cành cây cao? + Dê con tưởng Sóc là ai? + Sóc tả chó Sói như thế nào? + Cuối cùng thì Dê con đã gặp ai? + Ai đã cứu Dê con? + Thỏ đã nhanh chóng trốn vào đâu? + Từ đó Dê con có nghe lời mọi người không? Sau khi đàm thoại xong, trẻ đã nhớ lại nội dung truyện, tôi tổ chức cho trẻ lên kể lại theo các hình ảnh có trong truyện tranh, dạy trẻ khi kể đến nhân vật nào thì dùng que chỉ vào từng hình ảnh trong truyện sao cho phù hợp với nội dung truyện. Khi trẻ kể xong chuyện, tôi cho các bạn trong nhóm nhận xét bạn kể. Kể chuyện theo tranh tổ chức ở hoạt động góc thì trẻ được thay nhau kể, trẻ được thoải mái thể hiện giọng kể của mình, sử dụng ngôn ngữ sáng tạo trong khi kể không bị gò bó như ở trong tiết học. Qua hoạt động ở góc văn học, trẻ được đàm thoại, tranh luận trực tiếp với nhau để từ đó ngôn ngữ của trẻ được sử dụng linh hoạt hơn trong cuộc sống. * Kể chuyện theo rối tay
  9. 6 Việc sử dụng rối trong tiết học gây được sự chú ý, tò mò của trẻ, tạo điều kiện cho trẻ tiếp cận với nghệ thuật múa rối. Ngoài ra, việc sử dụng rối tay khi cho trẻ kể lại chuyện không chỉ phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua việc kể chuyện mà còn giúp trẻ biết thể hiện các cử chỉ, điệu bộ trong giao tiếp để tăng tính linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả trong giao tiếp. Ví dụ: Với câu chuyện “Chú Thỏ thông minh”, tôi sử dụng mô hình sân khấu là một đầm lầy nhỏ, có hoa, cỏ, cây... Nhân vật trong truyện được cách điệu đầu chú Thỏ là một quả bóng nhỏ, tôi dùng len móc thành chiếc váy cho chú Thỏ thêm ngộ nghĩnh. Khi dạy trẻ kể chuyện bằng rối, trước tiên tôi cũng cung cấp nội dung câu chuyện cho trẻ nghe vào hoạt động chiều, hoạt động góc. Bên cạnh việc cung cấp nội dung truyện cho trẻ, tôi còn hướng dẫn trẻ cách sử dụng rối tay, tôi dạy trẻ dùng cánh tay lồng vào con rối, điều khiển con rối bằng 3 ngón tay (ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa) sao cho những cử chỉ phù hợp với lời thoại trong truyện. Thời gian đầu khi mới làm quen với rối tay, trẻ rất lóng ngóng, khó thực hiện được các động tác theo ý muốn. Để khắc phục được điều này, tôi đã làm thật nhiều những con rối tay đặt ở góc văn học, sắp xếp sao cho trẻ thấy dễ dàng. Khi hoạt động ở góc văn học, trẻ thoải mái sử dụng rối tay. Ban đầu, trẻ sử dụng rối tay theo ý thích của mình, có khi là dùng rối tay để nói chuyện với bạn, từ đó việc sử dụng rối tay với trẻ trở nên dễ dàng hơn, dần dần, tôi yêu cầu trẻ sử dụng rối tay vào từng câu chuyện. Nhờ việc sử dụng rối tay trong tiết học mà số trẻ có khả năng cảm thụ văn học đạt cao, đa số trẻ nhớ nội dung truyện, lời thoại của các nhân vật và qua đó, trẻ biết dùng ngôn ngữ của mình để nhận xét đánh giá tính cách của nhân vật trong truyện như: Ai là người xấu, ai là người tốt. * Hướng dẫn trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể sáng tạo Khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo tôi chuẩn bị cho trẻ những tập truyện tranh sưu tầm bằng cách đọc kể cho trẻ nghe ở các giờ đón, giờ trả trẻ và giờ chơi hàng ngày, đây là hình thức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, là cơ hội cho trẻ có kiến thức vững vàng khi thực hiện kể chuyện sáng tạo, qua cách làm quen như vậy trẻ biết đánh giá, nhân xét về đặc điểm tính cách của các nhân vật thông qua ngôn ngữ nói của mình. Ví dụ: Gà con đáng yêu, sói giả gian ác, bà tiên, ông bụt thì tốt bụng còn phù thuỷ thì độc ác. Tôi dạy trẻ kể chuyện theo từng nhóm, theo thời gian thực hiện một tuần hoặc hai tuần, kết hợp lồng ghép các môn học khác, các trò chơi để củng cố khắc sâu kiến thức, mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh cho trẻ. Sau đây là một cách dạy trẻ sự dụng đồ dùng trực quan. Dạy trẻ sử dụng rối tay: Là dạy trẻ sử dụng từng con một, kết hợp với lời nói, ngôn ngữ biểu cảm cùng với cánh diễn rối qua cử động các con rối đi lại. Dạy trẻ ghép tranh kể chuyện: Chọn những bức tranh mà trẻ thích ghép hình một vài câu chuyện sau đó kể từng tranh kết hợp với lời nói chỉ dẫn thông qua các nhân cật trong tranh.
  10. 7 Dạy trẻ ghép các nhân vật kể chuyện: Cho những nhân vật mà trẻ thích sau đó ghép các nhân vật với nhau tạo thành một câu chuyện có ý tưởng của trẻ. Qua cách dạy tôi đã tiến hành tổ chức một giờ hoạt động học kể chuyện sáng tạo, chủ đề: “Thế giới động vật” như sau: Bước 1: Hát bài “Vì sao con mèo rửa mặt” và hỏi trẻ: Bài hát nói về con vật gì? Bước 2: Nghe cô kể mẫu chuyện sáng tạo, cô sử dụng rối kể 1 lần, rồi đàm thoại với trẻ về câu chuyện của cô (tên nhân đặc điểm nhân vật, đặt tên cho câu chuyện). Bước 3: Trẻ đi chọn đồ dùng trực quan mà trẻ thích cô kể gợi mở cho trẻ ngắn gọn vài câu để trẻ biết cách kể chuyện sáng tạo. Bước 4: Trẻ kể chuyện sáng tạo theo nhóm, cá nhân. Cô cho trẻ đánh giá nhận xét câu chuyện của bạn kể. Theo dõi cách sử dụng đồ dùng trực quan của trẻ để cô góp ý nhận xét. Hình ảnh: Trẻ kể chuyện sáng tạo. Qua cách làm này, bước đầu tôi đã thành công trong việc thực hiện dạy trẻ kể chuyện sáng tạo, giúp trẻ linh hoạt sự dụng đồ dùng trực quan kết hợp với ngôn ngữ nói rõ ràng, mạch lạc. 2.3.2. Gây hứng thú cho trẻ trong giờ hoạt động làm quen tác phẩm văn học Như chúng ta đã biết, để dạy trẻ có kết quả cao nhất chúng ta phải lấy trẻ làm trung tâm của mọi hoạt động. Muốn đạt được mục tiêu đó trước tiên tôi phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Trẻ ở đây sự tập trung chú ý chưa bền vững trẻ thích những cái đẹp, mới lạ, có hấp dẫn cao, nên việc gây hứng thú cho trẻ ở môn học này lại càng quan trọng hơn, bởi tính chất cứng nhắc và khô khan. Nếu như cô giáo cứ ép buộc trẻ ngồi học một cách gò bó, tuân thủ như một học sinh Tiểu học hoặc một tiết dạy không có sáng tạo, rập khuôn chưa có hình thức đổi mới còn theo phương pháp cũ, dẫn đến trẻ uể oải trong tiết học, phân tán tư
  11. 8 tưởng, nhàm chán, tiếp thu bài hạn chế thì tiết học sẽ không đạt kết quả như mong muốn. Và tôi đã tìm ra một số giải pháp gây sự hứng thú cho trẻ đó là: Dùng thủ thuật tạo tâm lí thoải mái: Cô cho trẻ nghe một đoạn câu chuyện sáng tạo hoặc một bài hát gắn liền với chủ đề tạo không khí thoải mái, thân thiện, kích thích sự hưng phấn cho trẻ vào bài một cách tự nhiên, không gò bó. Tranh ảnh, các con giống, con rối: Khi vào tiết dạy tôi chuẩn bị đồ dùng trực quan cho trẻ vì đồ dùng rất cần thiết, trẻ mẫu giáo suy nghĩ bằng hình thức tư duy hình tượng, tư duy gắn liền với tình cảm. Trẻ ghi nhớ những gì gây ấn tượng mạnh, một câu chuyện hấp dẫn hay một bức tranh đẹp mới lạ ... Chính vì thế khi dạy một tiết học tôi cho rằng đồ dùng trực quan là yếu tố đầu tiên gây hứng thú và lôi cuốn trẻ vào tiết học. 2.3.3. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học thông qua hoạt động học Hoạt động học là hình thức tổ chức hoạt động học tập được tiến hành trong một thời lượng nhất định vào khung thời gian buổi sáng. Trong đó, tất cả trẻ cùng tham gia, cùng tiến hành hoạt động nhận thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Mỗi hoạt động chung có tâm điểm là một loại giờ học. Có thể nói, đây là hoạt động học quan trọng nhất của trẻ ở trường mầm non. Thông qua hình thức hoạt động này, nhiệm vụ trọng tâm của môn học được giải quyết một cách đầy đủ nhất. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học được tổ chức trong giờ hoạt động làm quen văn học, cũng có thể tích hợp trong một số giờ hoạt động chung khác như khám phá khoa học, tạo hình, toán… Hoạt động làm quen với văn học: Là hình thức cơ bản để hướng dẫn trẻ làm quen với tác phẩm văn học, trong đó, trẻ được làm quen với các tác phẩm theo một chủ đề nhất định. Ví dụ: Trẻ làm quen với bài thơ: “Em yêu nhà em” chủ đề: “Gia đình”, tôi sẽ cho trẻ khám phá mô hình đầy kỳ diệu, gợi cho trẻ hiểu và ghi nhớ nhanh hơn trước khi đọc bài thơ.
  12. 9 (Hình ảnh: Cô cho trẻ khám phá mô hình và đọc thơ) Hoặc tôi có thể cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học “Bác gấu đen và hai chú thỏ” trong chủ đề “Những con vật sống trong rừng”. Thông thường, một hoạt động chung Làm quen với văn học có cấu trúc gồm các hoạt động sau: - Hoạt động mở đầu: Tôi sẽ gây hứng thú bằng mọi thủ thuật bằng cách như: tham quan mô hình, hát những bản nhạc có nội dung trọng tâm thu hút trẻ say sưa vào hoạt động chính. - Hoạt động chính: Hướng dẫn trẻ làm quen với tác phẩm văn học tôi sẽ trò chuyện để trẻ hứng thú háo hức muốn được đắm mình trong giờ đó. + Đối với truyện: Cô giáo giúp trẻ truyền tải hiểu nội dung, tính cách, lời nói, hành động của nhân vật, đánh giá được nhân vật và nhận định ra cái xấu, cái tốt yêu cái đẹp... + Đối với thơ: Trước tiên tôi sẽ giúp trẻ hiểu nội dung, cảm nhận được hình ảnh đẹp, nhịp điệu thơ và tình cảm thẩm mỹ mà tác giả gửi gắm. - Các hoạt động tích hợp: Tôi sẽ ôn luyện kiến thức hỏi trẻ về các nhân vật dẫn dắc những điều kỳ diệu đã học và đếm số lượng các nhân vật chẳng hạn cuối cùng cô sẽ cho trẻ hát và vận động theo bài hát của chủ đề về tác phẩm đồng thời cô sẽ cho trẻ chuyển hoạt động mà không gây cho trẻ hụt hẫng đồng thời trẻ sẽ nhớ lâu hơn về tác phẩm vừa học xong. Ngoài ra, tôi sẽ đưa tác phẩm văn học đến với trẻ khi tiến hành các giờ học, môn học khác như: Làm quen với văn học, làm quen chữ cái, hát nhạc, toán, tạo hình... Trong các giờ học đó, cô có thể sử dụng câu đố, đọc thơ, kể chuyện vắn tắt có nội dung liên quan đến giờ học này để làm phương tiện minh hoạ và làm cho giờ học tăng thêm phần sinh động, không nhàm chán.
  13. 10 (Hình ảnh: Trẻ xé dán hoa và tự đoc thơ bài:“Dán hoa tặng mẹ”) Ví dụ 1: Giờ làm quen với khám phá khoa học đề tài: “Làm quen một số loài hoa” cô có thể đọc bài thơ: “Hoa kết trái” cho trẻ nghe. Ví dụ 2: Giờ hoạt động tạo hình: “Xé dán vườn hoa” cô cho trẻ đọc bài thơ: “Dán hoa tặng mẹ”. Ví dụ 3: Giờ hát nhạc: Sau khi dạy trẻ hát bài: “Màu hoa”, cuối tiết học cô có thể đọc cho trẻ nghe bài thơ: “Hoa kết trái”. Tuy nhiên, đối với tác phẩm văn học được sử dụng trong các tiết học này chỉ được coi là một phương tiện hỗ trợ, làm sáng tỏ hơn cho nội dung tiết học, không dành thời gian quá nhiều cho phần này nếu không sẽ làm mất đi mục đích yêu cầu chính của tiết học đó. 2.3.4. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học thông qua hoạt động chơi ở các góc Hoạt động góc hình thức hoạt động tự chọn theo nhu cầu và hứng thú của trẻ, được tiến hành vào thời gian ngoài giờ học. Ở các trường mầm non, tùy vào điều kiện cảnh quan, cơ sở vật chất mà có thể bố trí nhiều góc hoạt động khác nhau. Thông thường có 5 góc hoạt động chính. + Góc học tập; + Góc sách - thư viện; + Góc nghệ thuật; + Góc phân vai (phân vai xã hội); + Góc thiên nhiên (ở ngoài hành lang). Trong đó, có ba góc hoạt động liên quan đến việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. * Góc sách - thư viện
  14. 11 Góc này được bố trí sẵn truyện và thơ. Giáo viên sẽ sưu tầm những bài thơ, câu chuyện theo chủ đề rồi đọc cho trẻ nghe nhiều lần dẫn đến trẻ sẽ nhanh thuộc câu chuyện, bài thơ. Từ đó tôi có thể khuyến khích trẻ tự xem tranh và đọc thơ cho nhau nghe. (Hình ảnh: Trẻ đang xem tranh ảnh và đọc thơ) * Góc nghệ thuật: Ở góc này, giáo viên có thể cho trẻ tập cho trẻ đóng theo tác phẩm văn học, hoặc cho trẻ vẽ, xé dán, tô màu hình ảnh mà trẻ yêu thích liên quan đến tác phẩm. Đây là hình thức cơ bản cho trẻ làm quen với văn học. * Góc học tập: Đối với văn học, ở góc này, tôi sẽ giúp trẻ bổ sung những hiểu biết còn thiếu trong giờ hoạt động chung làm quen với văn học: Ví dụ: Sau hoạt động chung làm quen với văn học: + Trẻ chưa hiểu rõ nội dung tác phẩm thì cô sẽ giảng thêm + Trẻ chưa thuộc tác phẩm thì cô sẽ dạy trẻ học thuộc Trước hoạt động chung làm quen với văn học: Tôi sẽ có thể giới thiệu tác phẩm bằng cách đọc kể cho trẻ nghe trước để trẻ thuộc tác phẩm. Giáo viên cũng có thể giảng nội dung, từ khó, từ mới trước để trẻ được làm quen với tác phẩm. 2.3.5. Cho trẻ làm quen tác phẩm văn học thông qua tổ chức các họat động văn học nghệ thuật Thông qua phương pháp tổ chức các hoạt động văn học nghệ thuật thực chất là việc giáo viên tổ chức cho trẻ thực hành luyện tập bằng trò chơi có tính mô phỏng, sáng tạo nhằm củng cố lại kiến thức và vận dụng những điều đã tiếp thu được vào giải quyết nhiệm vụ thực tiễn, hình thành và hoàn thiện kĩ năng nhất định nào đó cho trẻ. Những hoạt động nghệ thuật của trẻ ở trường mầm non bao gồm: Hát, múa, kể chuyện, đọc thơ, đóng kịch, tạo hình theo tác phẩm văn học... Trong đó,
  15. 12 các hoạt động: Kể chuyện, đọc thơ, đóng kịch được xem là các hoạt động nghệ thuật liên quan đến việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Trong số các hoạt động văn học nghệ thuật kể trên thì trò chơi đóng kịch theo tác phẩm văn học là hoạt động gây hứng thú nhất đối với trẻ. Trẻ 5-6 tuổi hoàn toàn có khả năng đóng kịch theo các nhân vật trong tác phẩm văn học. Đây là một kiểu học mang tính chất trò chơi vô cùng đặc biệt. Chính vì vậy mà cô phải lựa chọn tác phẩm văn học để chuyển thể thành trò chơi đóng kịch cho trẻ (cần chọn truyện có nội dung hấp dẫn, có kịch tính, các nhân vật rõ ràng, ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, phù hợp với trẻ). Ví dụ: Trong câu chuyện: “Chú Gấu con ngoan”. Ngoài ra, tôi đã và đang thường xuyên tiến hành dạy lồng ghép làm quen văn học vào các môn học khác cho trẻ để gây hứng thú và kết thúc bài, như tiết âm nhạc, tạo hình, thể dục, môi trường xung quanh, toán…. + Trong tiết học âm nhạc Ví dụ: Dạy vận động hàt bài: "Tôm, cá, cua thi tài". Cô có thể lồng vào cho trẻ kể chuyện: "Cuộc thi bơi của tôm, cua, cá" nhằm giáo dục trẻ yêu quý động vật. + Trong tiết học: “Khám khá khoa học” Ví dụ: Tìm hiểu về "Một số loại quả" tôi lồng vào cho trẻ đọc bài thơ: "Bác bầu, bác bí"; "giàn mướp". Tìm hiểu về một số con vật sống trong gia đình có bốn chân, lồng vào trẻ đọc bài thơ: "Mèo đi câu cá". Tìm hiểu về Bác Hồ, cô lồng vào bài thơ: "Bác Hồ của em". Ví dụ: Từ câu chuyện: “Tích chu”, tôi chuyển thể tác phẩm văn học sang kịch bản, suy nghĩ nội dung để hướng dẫn trẻ hoá trang nhân vật, trình tự hành động của các nhân vật, phần minh hoạ thêm bằng hát, múa để cho vở kịch thêm sinh động, vui nhộn... Cho trẻ tiếp xúc với kịch bản: Đọc kể diễn cảm nhiều lần tác phẩm cho trẻ nghe (chú ý thể hiện các sắc thái khác nhau của giọng các nhân vật, biểu lộ tính cách nhân vật) và cô cũng có thể cho trẻ xem tranh minh hoạ giải thích thêm về tính cách nhân vật, cũng là để trẻ hình dung ngôn ngữ, dáng điệu của nhân vật. Giáo viên phân vai: Lựa chọn trẻ đóng vai nhân vật phù hợp. Hướng dẫn trẻ tập kịch: Cô hướng dẫn trẻ nhập vai nhân vật thời điểm ra vào sân khấu; dáng điệu cử chỉ, lời nói. Lúc này cô cần nhìn ra và đánh giá cao những sáng tạo độc đáo của trẻ trong sự thể hiện. + Bố trí sân khấu: Nên đơn giản, chỉ cần phông, một số cây, mô hình nhà... phù hợp với các hoạt cảnh, hoá trang nhân vật: Mũ, quần áo.... + Biểu diễn.
  16. 13 (Hình ảnh: Trẻ đang đóng kịch chuyện: “Tích chu”) + Kết thúc: Cô nhận xét kết quả ở mỗi vai của trẻ: Cử chỉ, lời nói, hành động, nét mặt... Có thể nói, đây là quá trình biến chủ thể tiếp nhận thành chủ thể văn học (trẻ được nhập thân vào các nhân vật, tình huống trong tác phẩm), giúp trẻ hiểu tác phẩm sâu sắc hơn qua cách thức “học mà chơi, chơi mà học” từ đó nhân cách của trẻ sẽ giàu có và phát triển hơn. 2.3.6. Cho trẻ làm quen tác phẩm văn học thông qua việc sử dụng đồ dùng trực quan Như chúng ta đã biết thông qua tác phẩm văn học để sử dụng đồ dùng trực quan cho trẻ mầm non nói chung và trẻ 5-6 tuổi nói riêng có lối tư duy trực quan hành động, trẻ chỉ tập trung chú ý và ghi nhớ những gì mà trẻ cảm thấy thích thú thích thú. Mặt khác, trẻ thường thích lạ, mau chán, chóng nhớ, dễ quên chính vì thế nên tôi đã chuẩn bị đồ dùng dạy học luôn gần gủi xung quanh trẻ các loại tranh ảnh mô hình, vật thật đầy đủ đa dạng, phong và phú, sinh động phù hợp với nội dung của từng bài dạy nhằm để thu hút những hứng thú của trẻ vào giờ làm quen văn học. Ví dụ: Tôi sẽ đưa đồ dùng trực quan đã chuẩn bị sẵn để đưa ra chọn những nhân vật phù hợp đưa vào tiết dạy. Đồ dùng trực quan sử dụng trong giờ làm quen với các tác phẩm văn học rất phong phú, có thể là vật thật, rối, tranh ảnh mô hình, sa bàn, các phương tiện nghe nhìn hiện đại. Trong đó phổ biến nhất là tranh ảnh và các băng đĩa hình,
  17. 14 video. Việc sử dụng trực quan không chỉ khơi dậy hứng thú ở trẻ, phát triển óc thẩm mĩ mà còn góp phần quan trọng trong việc giúp trẻ hiểu một số hình ảnh. Chi tiết cụ thể trong tác phẩm. Sử dụng phương pháp này có thể phù hợp với nhiều mục đích khác nhau như: Gây hứng thú, hỗ trợ giáo viên đọc kêt tác phẩm, giảng nội dung, từ khó, hoặc hỗ trợ cho trẻ đọc kể tác phẩm. Các tác phẩm văn học cho trẻ làm quen trong hoạt động này thường nằm trong trương trình, có nội dung phù hợp với chủ đề đang thực hiện. Thời gian hoạt động này thường không nhiều. Vì vậy trong giờ hoạt động học tôi sử dụng rất nhiều hình thức khác nhau để gây hứng thú, giúp trẻ nhanh chóng hiểu nội dung câu chuyện, nhớ chuyện, thuộc thơ và đọc kể diễn cảm. Hình thức sử dụng đồ dùng trực quan rất có hiệu quả. Đồ dùng trực quan có thể là tranh ảnh, mô hình, các con vật, rối, bóng, trang phục, sân khấu… Ví dụ: Tôi tận dụng vải vụn, bông để may con cá, con tôm, con cua để phục vụ cho câu chuyện: “Tôm, cá, cua thi tài” và tận dụng các loại phế thải như: chai, lọ để làm các con vật, hay các loại hoa, quả để phục vụ cho các mô hình thơ, chuyện. (Hình ảnh: Cô làm đồ dùng đồ chơi phục cho hoạt động văn học) Tận dụng những họa báo có hình ảnh đẹp để làm các bức tranh thơ, tranh truyện. Đối với các giờ dạy thơ hay kể chuyện tôi thấy cần phải có những đồ dùng trực quan thật sinh động, hấp dẫn gây ấn tượng như các con vật, đồ vật thật. Tuy nhiên tùy theo từng bài thơ, câu chuyện mà sử dụng cho phù hợp. Ngoài ra, làm mô hình sân khấu thì việc hóa trang cho trẻ đóng kịch cũng rất cần thiết. Với nhân vật “Chú dê đen” tôi cho trẻ đeo mặt nạ hình con dê đen, dê trắng, hình chó sói, quần áo phù hợp với tính cách của từng nhân vật. Hay khi dạy bài thơ: Chú bộ đội hành quân trong mưa. Tôi có thể ứng dụng công nghệ thông tin cho trẻ xem hình ảnh chú bộ đội đang hành quân khi trời mưa trên máy chiếu, từng hình ảnh mang nội dung của từng khổ thơ. Không những vậy tôi còn làm nên bức tranh có hình ảnh các chú bộ đội đang hành quân ở góc bé yêu văn học. Những bài thơ câu truyện tôi dùng mô hình, sa bàn. Các nhân vật là các con vật như thỏ, gấu, gà, vịt, mèo...tôi làm bằng lõi giấy quả bóng bàn, bóng nhỏ, vỏ trứng và bìa....Việc sử dụng trình chiếu, đồ dùng trực
  18. 15 quan rất quan trọng trong việc giảng dạy bộ môn văn học, sử dụng đúng lúc đúng chỗ sẽ đạt được hiệu quả cao. Bên cạnh đó tôi đã tận dụng thời gian đón trẻ, trả trẻ, hoạt động ngoài giờ, hoạt động vui chơi hay trong hoạt động chuyển tiếp để giới thiệu hay ôn luyện các bài thơ, bài đồng dao, câu chuyện. 2.3.7. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học thông qua các hoạt động ngoài giờ học Vậy việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học có thể tiến hành mọi lúc mọi nơi khi đi dạo, khi tham quan … * Vào những giờ hoạt động ngoài trời. Ở chủ đề: “Mùa hè”, khi cho trẻ quan sát bầu trời. Cô có thể vào cho trẻ đọc bài thơ: “Ông mặt trời"; "Nắng bốn mùa". Qua đó cho trẻ biết về nắng nóng của mùa hè, giáo dục trẻ đi học đội mũ nón. Ví dụ: Vào giờ vệ sinh rửa tay, lau mặt của trẻ. Trước giờ vào vệ sinh tôi lồng vào đọc bài thơ: “Rửa tay sạch sẽ” giúp trẻ chú ý hơn trong việc thực hiện vệ sinh, rủa tay lau mặt có hiệu quả. Ví dụ: Giờ hoạt động vui chơi cô cho một số trẻ vào góc xem truyện tranh, tập kể chuyện sáng tạo, cho trẻ đọc thơ kết hợp với từ và hình ảnh... * Trong giờ trưa, trước giờ đi ngủ cô cho trẻ đọc bài thơ: "Ngủ" hoặc bài thơ: "Giờ đi ngủ" qua bài thơ trẻ hiểu và ý thức được giờ ngủ trưa. Ví dụ: Trong lúc ngồi vào bàn ăn cô có thể cho trẻ đọc bài thơ: “Giờ ăn” qua bài thơ giáo dục trẻ có nề nếp trong khi ăn. Ví dụ: Ngoài ra tôi còn sưu tập các loại sách báo, tranh ảnh, truyện thơ… phù hợp với trẻ mầm non để xây dựng góc thư viện. Như vậy bằng cách tổ chức các hoạt động một cách linh hoạt khéo léo cô đã giúp cho trẻ được sống trong môi trường văn học. 2.3.8. Phối kết hợp với cha mẹ trẻ Có câu nói: "Cha mẹ là những người thầy đầu tiên của con cái" [3]. Từ lúc sinh ra, người đầu tiên con được tiếp xúc chính là cha mẹ. Người hướng dẫn con những tiếng bi bô đầu tiên là cha mẹ. Người dạy con những bước chập chững đầu tiên cũng là cha mẹ. Có thể nói cha mẹ chính là những người thầy, người cô đầu tiên của con. Nhưng với việc giáo dục mới từ một phía gia đình thôi thì không thể giúp trẻ phát triển một cách toàn diện được, mà phải có sự kết hợp hài hòa giữa gia đình và nhà trường. Vậy làm thế nào để tuyên truyền với cha mẹ trẻ một cách thuyết phục, một cách đạt hiệu quả đó là một công việc không đơn giản, trong công tác phối hợp với cha mẹ trẻ tôi đã thực hiện các bước sau: Ghi các bài thơ câu chuyện ở góc tuyên truyền, nhắc nhở cha mẹ trẻ theo dõi và về nhà kiểm tra trẻ qua các nội dung trẻ đã học, động viên cha mẹ trẻ mua thêm sách truyện và tranh ảnh cho trẻ. Đối với trẻ mầm non trẻ thường dễ nhớ lại dễ quên, nếu không được luyện tập thường xuyên thì sau ngày nghỉ sẽ quên lời cô dạy. Vì thế tôi thường xuyên trao đổi với cha mẹ trẻ vào giờ đón trả trẻ để hiểu được tính cách trẻ và để cha mẹ trẻ luyện thêm cho trẻ.
  19. 16 Ví dụ: Cháu Thùy Dung, cháu Tuấn Mai rất thích đọc thơ cho bố mẹ nghe. Cháu Bảo Châu, cháu Khoa, rất hay hỏi về những câu chuyện cổ tích Động viên các cháu không chỉ biết bảo vệ môi trường xung quanh mà còn giữ gìn, giúp đỡ cha mẹ những công việc vệ sinh nhỏ. Trao đổi với cha mẹ trẻ mua cho trẻ những quyển tranh truyện cổ tích phù hợp với lứa tuổi. Trẻ được làm quen với hình ảnh, với chữ viết. Việc kết hợp giữa gia đình và cô giáo là không thể thiếu được, giúp trẻ luỵên tập nhiều hơn, từ đó trẻ có được vốn kiến thức về thiên nhiên, về xã hội phong phú và đa dạng hơn. Cha mẹ trẻ và nhà trường có mối quan hệ mật thiết trong việc chăm sóc, nuôi dạy trẻ. Hàng ngày tranh thủ giờ đón trẻ, trả trẻ và bảng những điều phụ huynh cần biết, tôi trao đổi với cha mẹ trẻ về tình hình sức khoẻ, học tập của trẻ ở lớp cũng như ở nhà. Qua đó cha mẹ trẻ phối hợp với cô tạo điều kiện cho trẻ củng cố kiến thức trẻ học ở trường (hát, đọc thơ, kể truyện, trả lời các câu hỏi của cha mẹ về mọi vật xung quanh. Tuyên truyền để cha mẹ trẻ đóng góp các nguyên vật liệu không độc hại để cô và trẻ làm đồ dùng đồ chơi trên lớp. (Hình ảnh: Cha mẹ trẻ đóng góp các nguyên vật liệu giúp cô làm đồ chơi). Thực tế cho thấy, sau khi nhận thức rõ tầm quan trọng đó cha mẹ trẻ đã nhiệt tình ủng hộ, đồng thời tạo môi trường văn học cho con tại gia đình như: Mua sách, báo truyện thanh phù hợp từng độ tuổi, kể chuyện cho con nghe, dạy con đọc những bào thơ, bài ca dao đồng dao, thậm chí còn hát cho con nghe, dạy con hát… Chính vì vậy, khi đến lớp trẻ đã có nhiều tiến bộ rõ rệt và hứng thú hơn khi nghe cô giáo kể chuyện, đọc thơ. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản thân, đồng nghiệp và nhà trường * Đối với giáo viên Bản thân có những biện pháp tích cực hướng dẫn truyền đạt phù hợp với lứa tuổi trẻ đạt kết quả cao, thông qua các hình thức trên tiết học và mọi lúc mọi nơi.
  20. 17 Nắm được các đặc điểm tâm sinh lí của trẻ lớp mình và nắm vững phương pháp tổ chức cho trẻ qua các phương pháp trên tôi áp dụng đã thu được: Trẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động ngôn ngữ của trẻ trở nên mạch lạc hơn so với khi chưa áp dụng các biện pháp, tạo cơ hội cho trẻ hoạt động vui chơi tìm tòi khám phá. Trẻ hoạt động không bị áp đặt để phát huy năng lực bản thân, được trao đổi, được nhận xét nên trẻ trở nên năng động hơn. Qua quá trình rèn luyện giáo dục trẻ trau dồi kiến thức và tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm cho bản thân. Thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ cũng như nhà trường, tôi thường xuyên trao đổi những kinh nghiệm mà bản thân tôi đã tích lũy được với đồng nghiệp để góp phần nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học ở trường. Công tác tuyên truyền cha mẹ trẻ đạt kết quả cao, các bậc cha mẹ trẻ đã hiểu được tầm quan trọng của việc rèn cho trẻ tính mạnh dạn, tự tin thông qua giáo dục lễ giáo từ ngay những bước phát triển đầu đời của trẻ. * Đối với trẻ Qua thời gian áp dụng biện pháp trẻ đã có những chuyển biến rõ nét: tích cực khi tham gia vào các hoạt động, không còn nhút nhát, mạnh dạn hơn và sẵn sàng hợp tác cùng các bạn trong mọi hoạt động của lớp. Trẻ sẵn sàng bày tỏ những suy nghĩ của mình, bộc lộ cảm xúc bản thân. Trẻ thích đi học, thích tham gia các hoạt động, có tinh thần thi đua, giúp đỡ nhau trong các hoạt động. * Đối với cha mẹ trẻ Đối với các bậc cha mẹ đã tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, họ đã thấy được trách nhiệm của mình đối với con cái, đã xây dựng mối quan hệ “Gia đình - Nhà trường” gắn bó hơn, cha mẹ trẻ thống nhất với nhà trường nhằm giúp trẻ phát triển toàn diện. Bảng kết quả khảo sát thực trạng cuối năm Tổng Đạt Chưa đạt TT Nội dung khảo sát số Số Tỷ lệ Số Số Tỷ lệ trẻ lượng % lượng % Khả năng nghe hiểu nội dung 28 1 28 100 0 0 các tác phẩm Đọc, kể diễn cảm kèm theo cử 2 28 100 0 0 chỉ điệu bộ Trẻ mạnh dạn trả lời câu hỏi 3 28 100 0 0 của cô và trả lời đầy đủ câu 4 Tham gia và thể hiện tác 28 100 0 0
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2