intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp dạy trẻ 4 - 5 tuổi dân tộc Bru-Vân Kiều nói trọn câu

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:14

23
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu đề tài "Một số biện pháp dạy trẻ 4 - 5 tuổi dân tộc Bru-Vân Kiều nói trọn câu" nhằm giải quyết tình trạng hạn chế về kỹ năng phát âm tiếng Việt của trẻ, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp dạy trẻ 4 - 5 tuổi dân tộc Bru-Vân Kiều nói trọn câu

  1. CỘNG  HÒA  XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­  Hạnh Phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY TRẺ 4­5 TUỔI DÂN TỘC BRU­VÂN KIỀU NÓI TRỌN CÂU”                                      1
  2. Quảng Bình, tháng 03 năm 2015 CỘNG  HÒA  XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM                                     Độc lập ­ Tự do ­  Hạnh Phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY TRẺ 4­5 TUỔI DÂN TỘC BRU­VÂN KIỀU NÓI TRỌN CÂU”                                     Họ và tên: Nguyễn Thị Thanh Hồng Chức vụ: Gáo viên Đơn vị công tác: Trường mầm non Kim Thủy 2
  3.                                   Quảng Bình, tháng 03 năm 2015 Phần I PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Bác Hồ kính yêu đã nói: “Trẻ em như búp trên cành                                  Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”. Chúng ta những người giáo viên mầm non cần phải nắm chắc phương  pháp và trang bị cho mình những kiến thức cơ bản trong việc chăm sóc và giáo   dục trẻ, nhằm thực hiện mục tiêu phát triển trẻ về thể chất lẫn trí tuệ một cách  toàn diện. Trẻ em là những thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước, cho nên chúng  ta phải có nhiệm vụ  đặt những “viên gạch hồng” đầu tiên ấy làm sao cho thật   vững chắc để  các em có đủ  kiến thức và hành trang để  mai sau bước vào đời,  làm những con người tốt giúp ích cho nước nhà.    Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục Quốc dân.  Giáo dục mầm non thực hiện nhiệm vụ chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ  em   từ  ba tháng tuổi đến 6 tuổi, nhằm mục tiêu giúp trẻ  phát triển thể  chất, tinh  thần, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn   bị cho trẻ bước vào lớp 1.  Dạy trẻ nói trọn câu là một nội dung góp phần thực hiện tốt mục tiêu và  nhiệm vụ  đó. Dạy trẻ  nói trọn câu có tác dụng tích cực trong việc phát triển  ngôn ngữ cho trẻ; góp phần hình thành những khái niệm đúng đắn về các sự vật   và hiện tượng xung quanh trẻ; giúp trẻ phát triển các giác quan, các quá trình tâm  lý như: tri giác, tư  duy, trí nhớ. Đặc biệt, việc dạy trẻ  nói trọn câu sẽ  giúp trẻ  biết sử  dụng những từ  ngữ, lời nói biểu cảm để  diễn đạt, trình bày vốn hiểu  biết của mình trong giao tiếp, trong học tập, vui chơi, lao động hàng ngày. Trong xã hội hiện đại ngày nay, việc trẻ  có thể  mạnh dạn tự  tin trong   giao tiếp ứng xử là một điều rất cần thiết giúp trẻ em có thể ứng phó trước tình   huống, kiểm soát cảm xúc, giao tiếp ứng xử với mọi người xung quanh, làm thế  nào để  giải quyết mâu thuẫn trong các mối quan hệ, làm thế  nào để  thể  hiện   bản thân một cách tích cực, lành mạnh.  3
  4. Bên cạnh đó, giao tiếp  ứng xử là một yếu tố rất quan trọng và cần thiết  giúp trẻ lĩnh hội trong giáo dục phát triển toàn diện về mọi mặt: Thể chất, tình   cảm, đạo đức, trí tuệ, thẫm mỹ cho trẻ Mầm non.  Người ta thường nói“Thỏ  thẻ  như  trẻ  lên ba”,“trẻ  lên ba cả  nhà học   nói”... là những thành ngữ  muốn nói đến việc dạy trẻ  học nói cũng đồng thời   giúp trẻ  sử  dụng ngôn ngữ  để  giao tiếp từ  những năm đầu tiên của cuộc đời.  Nói và hiểu được, là phương tiện giao tiếp quan trọng giúp cho sự phát triển các  khả năng tư duy, nhận thức và hoà nhập vào xã hội của trẻ.  Đối với cuộc sống mỗi người chúng ta, thế  giới rộng lớn luôn có nhiều  điều mới lạ  chờ  ta khám phá, mới đầu chỉ  là làm quen hoặc thử  cho biết, dần  dần trở thành thói quen và là những điều không thể thiếu mỗi ngày như hơi thở  vậy. Dĩ nhiên, những gì áp dụng thường xuyên sẽ  trở  nên tiến bộ  rất nhiều.  Người lớn là cha mẹ  trẻ  hay những người thân yêu gần gũi xung quanh trẻ, ai   cũng mong muốn những con trẻ  của mình tự  bản thân khám phá và nhận thức  được những điều mới lạ, hấp dẫn đang đổi mới hàng ngày, thậm chí từng giờ  trong cuộc sống. Nhưng không phải đứa trẻ nào cũng đủ khả năng, tự tin lao vào  khám phá, tìm hiểu môi trường xung quanh để  mở  rộng tầm nhìn. Để  giúp trẻ  làm được điều này, cốt lõi của vấn đề là: “Mạnh dạn, tự tin”. Vì có mạnh dạn  tự  tin, mới dễ  dàng tiếp cận mọi người xung quanh để  quen biết và tìm kiếm   thông tin.  Việt Nam là một đất nước có nhiều dân tộc và có nền văn hóa đa dạng.  Một số dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu vùng xa, điều kiện kinh tế khó khăn ít  có cơ hội giao lưu, tiếp xúc, hòa nhập cộng đồng và chỉ  sử dụng ngôn ngữ  của  dân tộc mình. Trong thực tế cho thấy phần lớn trẻ em dân tộc thiểu số trước khi  tới trường lớp mầm non đều sống trong môi trường tiếng mẹ  đẻ, ít có môi   trường giao tiếp tiếng Việt, đến trường trẻ  vẫn thích giao tiếp với nhau bằng   tiếng mẹ  đẻ, thậm trí trong hoạt động vui chơi, học tập hàng ngày, do đó trẻ  dân tộc thiểu số vẫn còn nhút nhát chưa mạnh dạn tự tin trong khi giao tiếp với   bạn bè người Kinh.  Tuy nhiên, ngôn ngữ  chính thức được sử  dụng trong nhà  trường lại là tiếng Việt và chính điều này đã tạo ra rào cản ngôn ngữ cho nhiều  trẻ  em dân tộc thiểu số khi đến trường, làm các cháu không thể  tham gia một  cách tích cực và tự  tin vào chính bản thân mình. Đây cũng là một trong những   nguyên nhân khiến những người làm cô giáo như chúng ta phải suy tư, trăn trở.  Dạy trẻ  nói trọn câu có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao chất lượng  chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo nhỡ nói riêng. Song  thực tế  trẻ  còn nhiều hạn chế  trong việc giao tiếp, chưa mạnh dạn, tự tin khi   trò chuyện với cô giáo, với mọi người xung quanh. Đặc biệt đối với trẻ  đơn vị  tôi đang công tác chủ yếu là dân tộc Vân Kiều, nên về mặt ngôn ngữ tiếng Việt   trẻ  nói chưa thành thạo. Khi trả  lời trẻ thường nói cộc lốc, nói sai trật tự  câu,   nói lặp ý, nói câu không đầy đủ  thành phần ngữ  pháp. Đây thực sự  là một khó  4
  5. khăn lớn đối với trẻ khi chuẩn bị bước vào lớp mẫu giáo lớn và cũng là trở ngại  không nhỏ đối với giáo viên mầm non trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ. Dạy trẻ  Bru Vân Kiều mạnh dạn trong giao tiếp  và diễn đạt mạch lạc,  trọn câu là nhiệm vụ hàng đầu của đội ngũ cán bộ, giáo viên nói chung và giáo  viên mầm non dạy vùng sâu, vùng xa nói riêng. Mục đích là giúp trẻ  giao tiếp,   phát triển tư duy, nhận thức, nâng cao khả năng hòa nhập cộng đồng, cùng sống   trong mái nhà chung Việt Nam. Vậy làm thế  nào để  giúp trẻ  mạnh dạn, tự  tin hơn trong giao tiếp đặc  biệt là trẻ Bru Vân Kiều trong trường mầm non?  Với lòng yêu nghề, mến trẻ và niềm đam mê công việc, tôi luôn trăn trở,  suy nghĩ để  tìm ra những phương pháp giúp trẻ  tự  tin về  ngôn ngữ  trong giao   tiếp. Sau một thời gian tìm tòi, nghiên cứu và thử  nghiệm, tôi xin chia sẽ  với   đồng nghiệp của mình đề tài: "Một số biện pháp dạy trẻ 4 ­ 5 tuổi dân tộc Bru ­  Vân Kiều nói trọn câu." 2. Điểm mới của đề tài: Thực hiện đề tài này tôi đã thực hiện một số biện pháp:            Xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch.            Tham gia bồi dưỡng chuyên môn.  Dự giờ học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp. Tổ chức dạy Tiếng Việt cho trẻ dưới mọi hình thức và mọi lúc mọi nơi.            Đề tài nhằm giải quyết tình trạng hạn chế về kỹ năng phát âm tiếng Việt  của trẻ, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.  3. Phạm vi áp dụng đề tài sáng kiến: Đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 4­ 5 tuổi Bru ­ Vân Kiều nói trọn câu”  có thể  áp dụng cho giáo viên đang công tác tại các trường  mầm non vùng đặc  biệt khó khăn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa và có thể  áp dụng cho các đơn vị  trong địa bàn toàn huyện và tỉnh.  Đây  là  đề  tài thuộc lĩnh vực phát triển  ngôn  ngữ, tình cảm kĩ năng xã hội cho trẻ mẫu giáo 4­5 tuổi .      * Đề tài này được kết cấu theo những nội dung chính sau đây:         Phần I. Phần mở đầu.         Phần II. Nội dung.         Phần III. Kết luận. Tuy nhiên, đề  tài này cũng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất  mong quý đọc giả, bạn bè, đồng nghiệp và các đồng chí cán bộ  quản lý, lãnh   đạo ngành góp ý, giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện hơn. Phần II 5
  6. NỘI DUNG 2.1. Thực trạng của vấn đề  mà đề  tài, sáng kiến, giải pháp cần giải  quyết: Năm học 2014 ­ 2015, được sự phân công của Ban giám hiệu Nhà trường,  tôi phụ  trách lớp ghép  ở  hai độ  tuổi  ddos là trẻ  4 tuổi và 3 tuồi (trẻ  sinh năm  2011, 2012), với tổng số 27 cháu, trong đó có 16 trẻ độ tuổi mẫu giáo nhở và 11   trẻ độ tuổi mẫu giáo bé. Qua một thời gian giảng dạy, bản thân tôi gặp một số  thuận lợi và khó khăn sau: a. Thuận lợi Bản thân có nhiều năm  trực tiếp  công tác  dạy học  ở  trường mầm non,  tích cực tham gia các lớp đào tạo nên trình độ  chuyên môn đạt trên chuẩn (Đại  học sư  phạm mầm non), năng lực sư  phạm vững vàng, có nhiều kinh nghiệm  trong giảng dạy. Phụ  huynh đã thực sự  quan tâm đến việc học hành của trẻ  nên đã đưa ­  đón trẻ đến lớp chuyên cần, đều đặn. Nhà trường đã tạo mọi điều kiện tốt về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy   học như:  Máy chiếu, ti vi, đầu đĩa, bàn ghế, đồ  chơi ngoài trời phù hợp với   trẻ…  Năm học 2014 ­ 2015 tôi được phân công dạy lớp ghép  ở  hai độ  tuổi (3  tuổi và 4 tuổi), với tổng số cháu là 27 cháu, trong đó có 16 trẻ độ tuổi mẫu giáo   nhở và 11 trẻ độ tuổi mẫu giáo bé. Có 8 trẻ dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ: 42%; 11   trẻ dân tộc Vân Kiều chiếm tỷ lệ 57,89%. Đây là điều kiện thuận lợi để trẻ dân  tộc Vân Kiều có điều kiện học hỏi, giao tiếp với trẻ người Kinh từ đó giúp trẻ  hiểu và biết sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp. b. Khó khăn:          Cháu ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ khả năng nhận thức cũng như ngôn ngữ của   trẻ phát triển không đồng đều, có nhiều cháu còn nói ngọng, nói chớt, đa số trẻ  chưa mạnh dạn, tự tin; khi trả lời câu còn cộc lốc. Đa số  phụ  huynh  ở  đây đều thuộc đồng bào dân tộc Vân Kiều nên việc   nhận thức, nuôi dạy trẻ một cách khoa học còn nhiều hạn chế, đặc biệt là việc  dạy trẻ nói trọn câu. Thậm chí một số phụ huynh đang còn  mắc lỗi nói cộc lốc  và không đúng ngữ pháp như vậy dễ làm người khác nghe sẽ hiểu sai nghĩa. Qua  đây, chứng tỏ trẻ cũng bị ảnh hưởng bởi cách phát âm về cấu trúc ngữ  câu của  cha, mẹ và người lớn. Có  một số  bà mẹ  người Kinh thường hay nói chớt theo giọng nũng nịu  của con mình.  Vào đầu năm, tôi đã tiến hành khảo sát các cháu để  nắm tình hình và có   kế hoạch giáo dục. Kết quả như sau: (cần lập bảng điều tra thực tiễn). 6
  7. ­ 25% trẻ hứng thú trả lời câu hỏi của cô và trả lời trọn câu. ­ 35% trẻ chưa mạnh dạn, tự tin khi trả lời, trả lời chưa trọn câu. ­ 40% trẻ còn nói chớt, nói ngoọng và có một số  trẻ chưa chịu nói mà chỉ  dùng cử  chỉ, hành động để  thể  hiện cái mà trẻ  mong muốn  như  gật đầu hoặc  khóc. Mặc dù còn nhiều khó khăn song với lòng yêu nghề, mến trẻ, tôi đã tìm ra   một số biện pháp để dạy trẻ nói trọn câu. 2.2. Một số biện pháp giúp trẻ 4­ 5 tuổi Bru ­ Vân Kiều nói trọn câu a. Biện pháp 1: Xây dựng mẫu câu: Để dạy trẻ nói trọn câu, nói đúng ngữ pháp và diễn đạt mạch lạc, cô giáo  cần thường xuyên trò chuyện với trẻ để  việc phát triển ngôn ngữ  của trẻ  phát   triển hơn. Việc học câu không giống như học từ, học từ yêu cầu các cháu phải   nhớ từ để khi cần mang ra sử dụng, còn học câu thì không thể. Để  trẻ nói trọn   câu, đúng ngữ  pháp, cô giáo phải giúp trẻ  rút ra được các mô hình câu khi giao  tiếp với người lớn. Ví dụ: Khi cô giáo hỏi: "Sáng nay con ăn gì?" Trẻ trả lời: "Sáng  nay con  ăn    cháo."     TN       CN  VN   BN Như vậy, mô hình câu khái quát là: trạng ngữ ­ chủ ngữ ­ vị ngữ ­ bổ ngữ.  Theo cách này, dần dần cho trẻ làm quen với các mô hình câu khác nhau từ  dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Trong quá trình cho trẻ  làm quen với tác phẩm văn học, chúng ta có thể  dạy trẻ nói trọn câu thông qua mô hình các câu hỏi và câu văn trong truyện: Ví dụ: Cô hỏi trẻ: "bạn Thỏ và Gà Trống tốt bụng còn Cáo thì sao?" Trẻ trả lời: "Bạn Thỏ  và Gà Trống  tốt bụng, Cáo  gian ác."   CN            VN  CN    VN Như vậy, trong quá trình giao tiếp hàng ngày với trẻ, với những câu hỏi vì   sao, để làm gì, cô giáo đã dạy cho trẻ nói trọn câu, nói đúng ngữ pháp và mạch   lạc. b. Biện pháp 2: Sửa lỗi về ngôn ngữ cho trẻ: * Về từ loại: Trẻ  thường sử  dụng sai các tính từ  chỉ  màu sắc. Với kiểu sai này, giáo   viên cần cung cấp các khái niệm đúng và yêu cầu trẻ nhắc lại nhiều lần. * Lỗi về câu: + Câu rút gọn: 7
  8. Trẻ  thường mắc lỗi nói câu rút gọn, đây là hiện tượng phổ  biến trong  ngôn ngữ của trẻ ở tất cả các lứa tuổi. Câu rút gọn của trẻ có thể là rút gọn một   thành phần hoặc rút gọn nhiều thành phần như: Vị ngữ, chủ ngữ, bổ ngữ. Ví dụ: Cô hỏi: "Vịt Xám đi chơi bị làm sao?"  Trẻ trả lời: " Bị lạc đường." (Rút gọn chủ ngữ) Câu rút gọn không có khả  năng truyền đạt thông tin rộng rãi, nhất là đối   với trẻ đang trong quá trình học nói trọn câu, hạn chế câu rút gọn sẽ làm cho trẻ  nắm được cơ cấu, nội dung của câu nhanh hơn. + Câu sai trật tự từ: Ví dụ: Hai trẻ có xích mích với nhau dẫn đến một bạn khóc và chạy đến  thưa cô: "Cô ơi! đập Khánh cháu" Trong tiếng Việt, trật tự từ có ý nghĩa ngữ  pháp rất lớn, nó quy định các  thành phần câu. Song trong một số trường hợp do chưa nắm được ngữ pháp nên   trẻ  nói sai trật tự  câu, những gì trẻ  muốn nhấn mạnh thì trẻ  nói trước, trong   những trường hợp như  vậy, cô giáo cần nói lại câu cho đúng và yêu cầu trẻ  nhắc lại. Bạn Khánh đánh cháu. + Câu lặp ý, không mạch lạc: Những câu nói không mạch lạc thể  hiện  điều trẻ  nhận thức  được và  muốn nói những trẻ chưa biết sắp xếp, lựa chọn từ thích hợp, do đó câu nói của  trẻ bị lộn xộn, không rõ ràng. Từ các câu nói chưa đúng của trẻ, chúng ta thấy rõ những khó khăn mà trẻ  gặp phải trong giai đoạn này khi trẻ  tiếp thu và sử  dụng từ  cũng như  các loại   câu. Vì vậy, chúng ta cần giúp trẻ biết cách diễn đạt ý mình rõ ràng, mạch lạc,  biết diễn đạt thông tin rõ ràng, sử dụng đúng từ, đúng cấu trúc ngữ pháp. c. Biện pháp 3: Dạy trẻ nói trọn câu trên các tiết học: Ở trên tiết học là điều kiện thuận lợi để trả lời các câu hỏi về kiến thức  mà cô giáo cung cấp cho trẻ một cách lưu loát, mạch lạc và trọn câu. Bởi vậy,  cô giáo cần nghiên cứu để xây dựng hệ thống các câu hỏi cho các bài học một  cách đơn giản, dể hiểu và phù hợp với đặc điểm ngôn ngữ lứa tuổi. Khi hỏi, cô  giáo phải tạo ra không khí thật sự nhẹ nhàng, thoải mái và tự nhiên, phù hợp với   khả năng của trẻ. Nếu trẻ trả lời chưa đúng, cô giúp trẻ bằng cách cô gọi những  trẻ giỏi trả lời giúp bạn, sau đó cho trẻ đó nhắc lại nhiều lần. Ví dụ: Khi dạy bài thơ: "Đi bừa", cô hỏi: " Mẹ dắt trâu đen đi đâu?". Trẻ  trả lời: "đi bừa" thì cô nhắc trẻ trả lời lại trọn câu: "Mẹ dắt trâu đen đi bừa". Sau các tiết học, tôi ghi vào nhật ký những trẻ nói còn hạn chế để  có kế  hoạch bồi dưỡng trẻ ở mọi lúc, mọi nơi. d. Biện pháp 4: Dạy trẻ nói trọn câu ở mọi lúc, mọi nơi:  8
  9. Trẻ lứa tuổi mãu giáo nhỡ  trí nhớ của trẻ dễ nhớ nhưng cũng dễ quên, vì  vậy cô giáo cần phải thường xuyên ôn luyện cho trẻ  vào các thời điểm thích  hợp trong ngày, ở mọi lúc, mọi nơi để rèn luyện cho trẻ có thói quen nói và trả  lời trọn câu. * Lúc đón và trả  trẻ: Tôi thường xuyên cùng trò chuyện với trẻ, đặt ra   một vài câu hỏi để  trẻ  trả  lời. Tuy nhiên, khi trò chuyện với trẻ, tôi đã tạo   không khí thoải mái như vừa buộc tóc, vuốt ve, cắt móng tay hoặc khen ngợi trẻ  có áo quần mới… để  trẻ  tự  nhiên nói chuyện, mạnh dạn, tự  tin thể hiện cảm   xúc, suy nghĩ của mình. Bên cạnh đó, tôi cũng thường xuyên trò chuyện với trẻ  về  chủ  đề, chủ  điểm đang học để  trẻ  dễ  dàng nhớ  lại bài cũ và tiếp thu kiến   thức mới giúp trẻ phát triển ngôn ngữ hơn. Ví dụ: Trong chủ  điểm Thế  giới thực vật tôi đặt ra những câu hỏi: “Ở  nhà con trồng những cây gì?”;  “ Những cây đó có ích lợi gì?” Ngoài ra, tôi thường kể  chuyện, đọc thơ, ca dao, đồng dao, tục ngữ  cho   trẻ  nghe. Qua giọng đọc, giọng kể  của cô giáo, trẻ  có thể  cảm nhận và nhận  biết được ngữ điệu, giọng điệu, âm điệu, vần điệu của ngôn ngữ nghệ thuật, từ  đó trẻ  dần dần học được cách sử  dụng từ  ngữ  sao cho thật mạch lạc để  nói  trọn câu và nói đúng cấu trúc ngữ  pháp. Hay nói cách khác trẻ vừa học vừa bắt   chước theo cô. Ví dụ: Tôi hỏi: "Hôm qua cô đã dạy cho các con bài thơ gì?" Trẻ trả lời: "Cây bàng" Như vậy, tôi phải hỏi lại: "Ai được học bài thơ cây bàng?" để trẻ trả lời   trọn câu: "Hôm qua, con học bài thơ cây bàng". Sau đó, tôi có thể đọc diễn cảm   lại bài thơ cho trẻ nghe. Tôi cũng có thể hướng dẫn trẻ đọc thơ bằng các hình thức: Đọc theo các tác phẩm văn học nhằm cho trẻ làm quen và bắt chước cách  diễn đạt mạch lạc, biểu cảm của ngôn ngữ nghệ thuật. Đọc theo tranh và theo đồ vật, đồ  chơi: Trên cơ  sở  những tranh vẽ và đồ  vật, đồ chơi. Trước khi đọc mẫu, tôi cho trẻ quan sát đặc điểm của đồ  vật, đồ  chơi… Khi đọc mẫu cho trẻ nghe phải rõ ràng, chính xác theo trình tự lôgíc để trẻ  nắm được nội dung và cách đọc. Ví dụ: Tôi cho trẻ xem các tranh vẽ về các nhân vật: "Mẹ, bé, cánh đồng”   trong bài thơ “Đi bừa”.  * Khi dạo chơi, tham quan trường mầm non, tôi cho trẻ quan sát lớp mẫu  giáo lớn, cho trẻ biết sau kỳ nghỉ hè thì trẻ sẽ  được học lớp mẫu giáo lớn. Tôi   sẽ  giới thiệu cho trẻ biết  ở trường mầm non trẻ sẽ gặp cô giáo mới, có nhiều   bạn mới, được học nhiều câu chuyện dài hơn… 9
  10.   * Trong các giờ  chơi tập: Tôi hướng cho trẻ  xem sách, tranh  ảnh về  trường mầm non và đặt ra những câu hỏi đơn giản để trẻ trả lời. * Trong khi đợi đến giờ ăn cơm, tôi đặt ra một vài câu hỏi như: "Hôm nay,   cô cấp dưỡng nấu món gì cho các con ăn?"; "Trước khi ăn các con phải làm gì?"  để giúp trẻ nói trọn câu, nói lưu loát. d. Biện pháp 5: Tìm hiểu về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ:  Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ  phụ  thuộc vào rất nhiều yếu tố  khác nhau  và nhìn chung tâm sinh lý của trẻ  rất đa dạng. Ở cùng một độ  tuổi, có trẻ  phát   triển tốt song cũng có trẻ phát triển chậm; có trẻ thì mạnh dạn, tự tin trò chuyện  cùng cô ở mọi lúc, mọi nơi, tích cực và thích thú trả lời các câu hỏi của cô và trả  lời trọn vẹn, lưu loát; có trẻ thì ngược lại: rụt rè, nhút nhát, trả lời cộc lốc, câu  nói sai trật tự ngữ pháp. Vì vậy, cô giáo cần phải tìm hiểu và nắm rõ đặc điểm  tâm sinh lý của trẻ, phân nhóm trẻ theo trình độ nhận thức để có kế hoạch giáo  dục thích hợp. * Đối với trẻ Khá ­ Tốt: Tôi dành những câu hỏi khó hơn, đòi hỏi trẻ phải tư duy, suy luận khi trả  lời  và phải  biết  diễn  đạt  thật mạch lạc, biểu cảm suy  nghĩ  của  mình. Tôi  thường dùng câu hỏi: Vì sao?, Tại sao? Hoặc câu hỏi giúp trẻ  tự  suy nghĩ, liên   hệ bản thân để trả lời. Ví  dụ:  Khi dạy chuyện: "Thỏ  con không vâng lời", tôi hỏi: "Thỏ  con   không vâng lời mẹ nên bị lạc đường về nhà, thế còn các con thì sao?". * Đối với trẻ Trung bình ­ Yếu: Tôi hỏi trẻ  những câu hỏi ngắn gọn, dễ  hiểu và đặc biệt cần có những   câu hỏi gợi mở để giúp trẻ trả lời trọn vẹn, lưu loát. Ví   dụ:   Dạy  chuyện:   "Thỏ   con   không  vâng   lời",   tôi  hỏi  trẻ:  "Qua   câu  chuyện,   các   con   thấy   bạn   Thỏ   có   ngoan   không?";   "Vì   sao   bạn   Thỏ   không  ngoan?"; "Các con có nên học tập tấm gương của bạn Thỏ không?" Từ đó hướng trẻ rút ra bài học giáo dục. h. Biện pháp 6: Kịp thời khen ngợi, động viên trẻ: Trẻ ở lứa tuổi này thích được khen ngợi, động viên, khuyến khích của cô   giáo, người lớn nên tôi rất chú trọng đến việc khen ngợi trẻ kịp thời để  trẻ nói  trọn câu. Nếu trẻ  trả  lời chưa đúng, tôi động viên trẻ: "Con trả  lời gần đúng  rồi!", tuyệt đối không nên chê bai trẻ. Đối với những trẻ trả lời đúng, mạch lạc, trọn câu, tôi kịp thời khen ngợi,  khích lệ trẻ. 10
  11. Ngoài ra, tôi còn tổ  chức cho trẻ  cắm hoa bé ngoan sau các tiết học, các   giờ  hoạt động. Nhờ  vậy mà trong các giờ  học, trẻ  tích cực hứng thú tham gia   hoạt động và trả lời trọn câu các câu hỏi của cô. Biện pháp 7: Phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh: Phụ huynh là cầu nối giữa gia đình và Nhà trường để hoàn thành tốt mục  tiêu giáo dục mầm non. Để  thực hiện tốt sự phối hợp đó, ngay từ đầu năm, tôi  đã mạnh dạn chia sẽ suy nghĩ với phụ huynh về tầm quan trọng của việc chăm   sóc, giáo dục trẻ mầm non, trong đó có nội dung dạy trẻ nói trọn câu. Để từ đó,  phụ huynh có nhận thức đúng đắn và xác định vai trò của mình trong việc chăm   sóc, giáo dục trẻ, đặc biệt là phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trong những giờ  đón và trả  trẻ, tôi trực tiếp trao đổi với phụ  huynh và   đưa ra một vài ví dụ  cho phụ  huynh tham khảo để  dạy trẻ  nói trọn câu  ở  nhà   cho thật hiệu quả. Động viên phụ  huynh đặt nhiều câu hỏi cho trẻ  trả  lời và  khuyến khích trẻ trả lời trọn câu. Tuyệt đối không nhại theo những từ mà trẻ đã  phát âm sai, hoặc âu yếm vỗ về trẻ bằng cách nói nậng với trẻ. Đồng thời tôi đã   viết những bài thơ, mẫu chuyện hoặc cắt các hình tam giác, hình vuông, hình  tròn, hình chữ  nhật đưa cho phụ  huynh rồi hướng dẫn phụ  huynh về  nhà kèm  cho trẻ đọc thuộc ở nhà. Qua đó tích hợp được nhiều vốn từ cho trẻ, giúp trẻ trả  lời trọn câu. Đối với những trẻ  còn nhút nhát, nói chớt, nói ngoọng, tôi có kế  hoạch  gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh nhiều hơn để  giúp trẻ  tiến bộ, đồng thời cũng  thường xuyên trò chuyện với trẻ trong các giờ đón và trả trẻ, các HĐNT, HĐC... 2.3. Kết quả đạt được:  Nhờ  biết chọn lọc và sử  dụng các biện pháp trên một cách linh hoạt và   sáng tạo nên chỉ  mới thực hiện trong một học kỳ, lớp tôi đã đạt được kết quả  như sau: 100% trẻ tích cực, hứng thú tham gia vào các hoạt động học tập, vui chơi,  đặc biệt thích trả lời các câu hỏi mà tôi đưa ra. 93% trẻ mạnh dạn, tự tin, gần gủi trò chuyện với cô giáo và người lớn. 90% trẻ biết trả lời trọn câu, trả lời các câu hỏi một cách trôi chảy, mạch   lạc. Bản thân tôi có thêm một số kinh nghiệm chăm sóc, giáo dục trẻ. Xác định  được kiến thức, kỹ năng của các bài học để truyền thụ cho trẻ phù hợp. Phụ huynh học sinh đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc nói trọn câu  đối với sự  phát triển ngôn ngữ  của trẻ  và đã biết cách dạy trẻ  nói trọn câu  ở  nhà. Phần III KẾT LUẬN 11
  12.   Giáo   viên   là   lượng   nồng   cốt   quyết   định   chất   lượng   chăm   sóc,   nuôi  dưỡng, giáo dục trẻ. Các cháu mầm non được chăm sóc, giáo dục chu đáo là cơ  sở  để  hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ; làm tiền đề, nền móng vững  chắc cho trẻ học phổ thông.         Đảng, Nhà nước giao cho chúng ta trọng trách vinh quang, rất đổi tự  hào  và trách nhiệm lớn lao, đó là nhiệm vụ “Trồng người”.         Bác Hồ nói: “ Vì lợi ích mười năm ta phải trồng cây,                            Vì lợi ích trăm năm ta phải trồng người”        Sự nghiệp “Trồng người” đối với trẻ em vùng thuận lợi đã rất khó khăn,   vất vả  song đối với trẻ  em người dân tộc thiểu số  lại càng khó khăn vất vả  hơn. Làm sao cho trẻ phát triển đúng yêu cầu của nền giáo dục nước nhà đó là  mục tiêu, trách nhiệm cao cả của mỗi một người giáo viên.         Thấm nhuần lời dạy của Người, giáo viên mầm non phải ra sức thi đua  dạy tốt, học tốt, đem hết sức lực, tâm huyết, trí tuệ của mình cống hiến cho sự  nghiệp “Trồng người” của đất nước. “Tăng cường dạy Tiếng Việt” cho trẻ  là  góp phần thực hiện “lời dạy của Người”.          Dạy Tiếng Việt cho trẻ bao gồm các nội dung: Dạy cho trẻ  nghe Tiếng   Việt một cách đầy đủ, chính xác, hiểu Tiếng Việt là hiểu được ý nghĩa câu nói,  câu hỏi, câu trả  lời; nói Tiếng Việt một cách thành thạo là nói đúng từ, đúng   câu, đúng âm điệu, ngữ  điệu, nhịp điệu, thanh điệu và làm quen với việc đọc,  viết Tiếng Việt... Các nội dung trên có mối quan hệ đặc biệt với nhau nếu nghe  đúng thì nói đúng và hiểu đúng ý nghĩa câu nói, ngược lại nếu nghe sai thì không  hiểu được ý nghĩa câu nói và nói không đúng. Để thực hiện tốt các nội dung trên  thì phải thực hiện đồng thời, thường xuyên và liên tục, kết hợp hài hòa giữa  Nhà trường­ Gia đình ­ Xã hội.        Việc dạy trẻ sử dụng thành thạo Tiếng Việt có ý nghĩa nhân văn sâu sắc   nhằm hình thành và phát triển toàn diện về  thể  chất, nhận thức, tình cảm và  quan hệ xã hội. Đồng thời góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa  dân tộc, tinh hoa nhân loại; đóng góp vào công cuộc đổi mới đất nước, thực  hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà Đảng ta  đã và đang khởi xướng.          Dạy trẻ sử  dụng thành thạo Tiếng Việt thông qua biện pháp dạy trẻ  nói  Tiếng Việt đúng quy định, nghe và hiểu được nội dung lời nói, làm quen với  việc đọc, viết và sử dụng chúng trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày làm tiền đề  nền tảng cho việc phát triển tư  duy, nhận thức và hoàn thiện nhân cách con   người giúp cho các cháu trẻ em người dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Vân   Kiều nói riêng vươn lêm làm chủ đất nước, làm chủ cuộc đời.         Sử dụng đúng Tiếng Việt ngay từ tuổi mầm non là cơ sở để  giúp trẻ sau  này lớn lên có điều kiện mở rộng môi trường giao tiếp, giao lưu với các bạn bè  12
  13. các vùng miền trên quê hương, đất nước, trong cộng đồng dân cư, trong mái nhà  chung Việt Nam.        Để  dạy Tiếng Việt cho trẻ có kết quả, giáo viên mầm non cần vận dụng   linh hoạt sáng tạo kiến thức khoa học nuôi dạy trẻ  với kỹ  năng và thực tiễn   công việc. Phối hợp hài hòa giữa giáo dục Nhà trường­Gia đình­Xã hội. Ngôn ngữ  có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân  cách cho trẻ nên việc dạy trẻ nói trọn câu là một nhiệm vụ quan trọng của giáo   dục học mầm non. Dạy trẻ nói trọn câu giúp trẻ có khả năng diễn đạt suy nghĩ,  thể hiện cảm xúc của mình một cách trôi chảy, mạch lạc, biểu cảm. Giáo viên mầm non là người đóng vai trò quan trọng trong việc dạy trẻ  nói trọn câu. Do đó, bản thân tôi không ngừng học tập, tham gia các buổi sinh   hoạt chuyên môn liên trường đầy đủ nhằm tích lũy kinh nghiệm cho bản thân.  Ngoài ra, tôi luôn nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của mỗi trẻ, luôn tạo  sự say mê, hứng thú ở trẻ để trẻ tích cực tham gia học tập, vui chơi, tạo ra hiệu   quả tốt trong việc dạy trẻ nói trọn câu, nói mạch lạc, đúng ngữ pháp.  Do đặc thù trẻ ở đơn vị tôi đang công tác phần đông là trẻ dân tộc Vân Kiều   khả năng sử dụng Tiếng Việt của trẻ rất hạn chế, nên tôi luôn tìm hiểu về phong   tục, tập quán của người dân nơi đây để  có biện pháp tăng cường dạy tiếng Việt   cho trẻ.  Bản thân tôi là giáo viên mầm non nên phải luôn gương mẫu trong tác  phong, lời ăn, tiếng nói, cách ứng xữ, giao tiếp với đồng nghiệp, phụ  huynh và  trẻ. 2. Những kiến nghị, đề xuất:        Đề  nghị  lãnh đạo ngành và cán bộ  quản lý giáo dục mầm non tạo điều  kiện để bản thân tôi được học tập thêm chị  em đồng nghiệp, được giao lưu và   đúc rút được nhiều kinh nghiệm góp phần nâng cao năng lực sư  phạm và nâng  cao hơn nữa chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Trên đây là một số  kinh nghiệm của bản thân tôi trong việc dạy trẻ  nói   trọn câu mà tôi đã áp dụng khá thành công.  Bên cạnh kết quả   đã đặt được song sáng kiến kinh nghiệm này cũng  không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót kính mong sự  đóng góp ý kiến giúp  đỡ của đồng nghiệp, Hội đồng khoa học của Nhà trường và Hội đồng khoa học  của ngành để  cho bản Sáng kiến kinh nghiệm này được hoàn thiện hơn và có   thể áp dụng rộng rãi không những trong trường, trong huyện mà  còn được áp  dụng trong các đơn vị  mầm non của tỉnh nhà.  Tôi xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA HĐKH NHÀ TRƯỜNG        NGƯỜI VIẾT 13
  14. (Chú ý: Phần thực trạng bổ sung thêm bảng điều tra thực tiễn); Phần kết quả: Lấy từ bảng điều tra thực tiễn sau đó có số  lượng và   tỷ lệ % cụ thể, không ghi chung chung như vậy. Dò lại lỗi chính tả cho đầy đủ, không được viết tắt, thể thức văn bản,   in, mai đem lên trường ký, đóng dấu để nộp tại PGD.                           14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2