intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ ở trường mầm non

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

24
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của sáng kiến này là giúp trẻ hoà nhập với cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của cộng đồng mà mọi thành viên trong cộng đồng phải thực hiện, mặt khác trẻ cũng có thể dùng ngôn ngữ để bày tỏ những nhu cầu mong muốn của mình với các thành viên trong cộng đồng điều đó giúp trẻ hoà nhập với mọi người.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ ở trường mầm non

  1. 1. PHẦN MỚ ĐẦU 1.1 Lý do chọn đề tài: Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc.  Bảo  vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn xã hội và của   mỗi gia đình. Trong đó, nhà trường đóng một vai trò quan trọng trong việc giáo  dục hình thành và phát triển nhân cách toàn diện của trẻ. Những năm gần đây   bậc học mầm non đang tiến hành đổi mới chương trình giáo dục trẻ mầm non   trong  đó  đặc biệt  coi trọng việc  tổ  chức các hoạt  động  phù hợp  sự phát  triển  của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ hoạt động một cách chủ động tích cực,   hồn  nhiên  vui  tươi,  đồng  thời  tạo  điều  kiện  cho  giáo  viên  phát  huy  khả  năng   sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ  một cách linh hoạt, thực hiện phương châm  “Học băng ch ̀ ơi­chơi mà học” đáp  ứng mục tiêu phát triển của trẻ một cách toàn diện về mọi mặt. Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ  mầm non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai trò rất quan trọng đặc biệt không thể  thiếu  được,  ngôn  ngữ  có  vai  trò  là  một  phương  tiện  hình  thành  và  phát  triển  nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Như Bác Hồ đã dạy:  “Tiếng nói là   thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ   gìn nó, quý trọng nó”. Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về  môi trường xung quanh, thông qua cử chỉ và lời nói của người lớn trẻ làm quen   với các sự vật, hiện tượng có trong môi trường xung quanh, trẻ hiểu   những đặc  điểm, tính chất, công dụng của các sự vật cùng với từ tương  ứng với nó. Nhờ  có ngôn ngữ trẻ nhận biết ngày càng nhiều các sự vật, hiện tượng mà trẻ được   tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra, ngôn ngữ còn là phương tiện phát  triển tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ. Là một giáo viên mầm non trực tiếp dạy trẻ 24 ­ 36 tháng tuổi bản thân   tôi luôn có những suy nghĩ trăn trở làm sao để dạy các con phát âm chuẩn, chính  xác đúng Tiếng việt. Tôi thấy mình cần phải đi sâu tìm hiểu kỹ vấn đề này để  từ đó rút ra nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp với yêu cầu phát triển của lứa tuổi.  1
  2. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ 24­36 tháng tuổi   phát triển ngôn ngữ ở trường mầm non” nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc  giáo dục trẻ đối với chương trình giao duc mâm non hi ́ ̣ ̀ ện nay. 1.2 phạm vi áp dụng đề tài: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một nội dung rất cần thiết. Đề tài này có  thể  áp  dụng  đối  với  trẻ  24­36  tháng  tuổi  nói  riêng  và  ở  trường  mầm  non  nói  chung và có thể áp dụng rộng rãi trong các trường mầm non trong toàn Huyện. 1.3. Điểm mới của đề tài: Đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 24­36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ ở   trường  mầm  non” được  nhiều  người  quan  tâm  nên  đã  có  nhiều  đồng  nghiệp  nghiên cứu về lĩnh vực này, song mỗi đề tài đề cập đến những khía cạnh khác   nhau.  Có thể thấy ngôn ngữ chính là phương tiện giao tiếp giữa con người với   con người, là phương tiện cho việc dạy và học. Ngôn ngữ nói,  đọc, viết có  ý  nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nhân cách của trẻ mầm non nói   riêng,  của  con  người  và  xã  hội  nói  chung.  Lứa  tuổi  mầm  non  là  thời  kỳ  phát  triển ngôn ngữ tốt nhất. Là giai đoạn có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho sự  lĩnh hội ngôn  ngữ nói và các kỹ năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của trẻ. Phát  triển  ngôn  ngữ  và  giao  tiếp  có  ảnh  hưởng  đến  tất  cả  các  lĩnh  vực  phát  triển   khác của trẻ. Ngôn ngữ chính là công cụ để tư duy vì thế ngôn ngữ có ý nghĩa   quan trọng đến việc phát triển nhận thức. giải quyết vấn  đề …của trẻ.  Ngôn  ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối với trẻ nhỏ, đó  là  phương  tiện  giúp  trẻ  giao  lưu  cảm  xúc  với  những  người  xung  quanh  hình  thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với cộng   đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của  người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của cộng đồng mà  mọi thành viên trong cộng đồng phải thực hiện, mặt khác trẻ cũng có thể dùng  ngôn  ngữ  để  bày  tỏ  những  nhu  cầu  mong  muốn  của  mình  với  các  thành  viên   trong cộng đồng điều đó giúp trẻ hoà nhập với mọi người. 2.PHẦN NỘI DUNG 2
  3. Ngôn ngữ có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của  trẻ  em.  Ngôn  ngữ  là  phương  tiện  giữ  gìn  bảo  tồn,  truyền  đạt  và  phát  triển  những kinh nghiệm lịch sử và phát triển xã hội của loài người. Trẻ em sinh ra  đầu  tiên  là  những  cơ  thể  sinh  học,  nhờ  có  ngôn  ngữ  là  phương  tiện  giao  lưu  bằng hoạt động tích cực của mình dưới sự giáo dục và dạy học của người lớn  trẻ em dần chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử ­ xã hội của loài người   và  biến  nó  thành  cái  riêng  của  mình.  Trẻ  em  lĩnh  hội  ngôn  ngữ  sẽ  trở  thành  những chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người xây dựng xã hội   ngày càng phát triển hơn. 2.1. Thực trạng: Năm  học  2019  ­  2020  bản  thân  tôi  được  phân  công  dạy  nhóm  trẻ  24­36  tháng tuổi, nhận thấy việc giúp  trẻ 24 ­ 36 tháng tuổi phát triển mở rộng các   loại vốn từ, biết sử dụng nhiều loại câu bằng cách thường xuyên nói chuyện   với  trẻ  về  những  sự  vật,  hiện  tượng,  hình  ảnh…mà  trẻ  nhìn  thấy  trong  sinh  hoạt hàng ngày, nói cho trẻ biết đặc điểm, tính chất, công dụng của chúng từ đó  hình thành và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, bản thân tôi gặp một số thuận lợi và  khó khăn như sau:  a. Thuận lợi: Năm học 2019­2020  tôi được phân công dạy lớp nhà trẻ 24­36 tháng, với  tổng số trẻ trong lớp: 29 cháu/2 cô; cháu trong lớp đều là dân tộc Kinh. Được sự  chỉ đạo sát sau của Ban giám hiệu Nhà trường, địa phương cũng như của UBND  huyện  nhà  hỗ  trợ  mua  sắm  trang  thiết  bị,  đồ  dùng  đồ  chơi  phục  vụ  cho  hoạt   động dạy và học đầy đủ, phòng học có diện tích rộng rãi, thoáng mát, có đủ ánh   sáng.  Điều  đặc  biệt  hơn  nữa,  nhà  trường  được  Tỉnh  công  nhận  trường  đạt  chuẩn  quốc  gia  giai  đoạn  1và  được    phòng  khảo  thỉ  Sở  Giáo  dục  và  đào  tạo  công nhận kiểm định chất lượng giáo dục đạt cấp độ 3; đó chính là niềm động   viên, phấn khởi, khích lệ đội ngũ hăng say vào công việc; líp häc cã ®ñ diÖn tÝch réng, tho¸ng m¸t, c¬ së vËt chÊt ®Çy ®ñ. Bªn c¹nh ®ã ®îc sù quan t©m chØ ®¹o s¸t sao vÒ chuyªn m«n cña ban gi¸m hiÖu nhµ trêng t¹o 3
  4. ®iÒu kiÖn mua s¾m trang thiÕt bÞ vÒ bé m«n ©m nh¹c như: M¸y vi tÝnh, ti vi... Lớp được phân chia theo đúng độ tuổi quy định. Đa số trẻ đi học rất đều,  trẻ  thông  minh,  có  khả  năng  tiếp  thu    khá  nhanh.  Giáo  viên  nhiệt  tình  làm  đồ  dùng đồ chơi sáng tạo phục vụ cho việc cung cấp và phát triển ngôn ngữ cho  trẻ. Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ phong phú  về màu sắc và hình ảnh, hấp dẫn thu hút trẻ. Giáo viên nắm vững phương pháp  dạy  của  bộ  môn,  được  bồi  dưỡng  thường  xuyên  và  tham  gia  học  tập  các  lớp   chuyên đề do nha tr ̀ ương t ̀ ổ chức. Giáo viên trong lớp có sự phối hợp nhau trong   công tác giảng dạy đặc biệt là chú ý phát triển vốn từ cho trẻ. Luôn được sự  ủng hộ của phụ huynh.   b. Khó khăn Nhóm trẻ tôi phụ trách có sè lưîng trÎ lµ 29 ch¸u nhưng đa số cháu là  con em công nhân cạo mũ cao su nên phụ huynh không có thời gian chăm sóc trẻ  ít quan tâm và cho con em tiếp xúc với  nên phát triển ngôn ngữ còn hạn chế.  Việc  phối  hợp  chăm  sóc,  giáo  dục  trẻ  giữa  giáo  viên  và  phụ  huynh  còn  gặp   không ít khó khăn. Các cháu tuy cùng độ tuổi nhưng khả năng cảm thụ âm nhạc   không đồng đều cßn rôt rÌ, nhót nh¸t, phát âm chưa chuẩn. Nhóm trẻ 24 ­ 36  tháng do tôi phụ trách là độ tuổi còn non nớt, có nhiều trẻ nhút nhát rụt rè, một  số  cháu  phát  âm  chưa  chuẩn.  Các  cháu  bắt  đầu  đi  học  còn  khóc  nhiều,  chưa  quen  với  cô  và  các  bạn,  chưa  thích  nghi  với  điều  kiện  sinh  hoạt  và  các  hoạt  động  ở lớp.  Các cháu không cùng tháng tuổi, mỗi cháu đều có sở thích và tính  cách khác nhau.          Trí nhớ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ chưa nhớ hết trật tự của các âm khi   sắp xếp thành câu vì thế trẻ thường xuyên bỏ bớt từ, bớt âm khi nói. Nhiều trẻ  phát âm chưa chính xác  còn nói lắp, nói ngọng, nói chưa rõ lời rõ tiếng… c. Điều tra thực tiễn:  Với những thuận lợi khó khăn đã nêu ngay đầu năm học   vào đầu tháng 9. Tôi tiến hành khảo sát thực tế nhằm nắm bắt được thực tế  để  từ đó có kế hoạch dạy trẻ phát triển ngôn ngũ mạch lạc rõ ràng hơn. 4
  5. TT  Nội dung Số trẻ  Tỷ lệ  Số trẻ  Tỷ lệ  đạt % chưa  % đạt Khả  năng  nghe  hiểu  ngôn  ngữ  và  10 34,5% 19 65,5% phát âm Vốn từ của trẻ 12 41,4% 17 58,6% Khả năng nói đúng ngữ pháp 12 41,4% 17 58,6% Khả năng giao tiếp 12 41,4% 17 58,6% c/ Nguyên nhân: Đa số phụ huynh chưa nhận thức  đúng về tầm quan trọng của ngôn ngữ.   Một số phụ huynh do bận rộn công việc kiếm sống nên chưa thực sự quan tâm  đến việc phát triển ngôn ngữ vốn từ cho trẻ mà giao phó hoàn toàn cho cô giáo ở  trường. 2.2 Các biện pháp . Qua quá trình tiếp xúc với trẻ bản thân tôi thấy rất lo lắng về vấn đề này  và tôi nghĩ rằng mình phải tìm tòi suy nghĩ và nghiên cứu tài liệu để tìm ra biện  pháp phát triển ngôn  ngữ cho trẻ một cách có hiệu quả nhất để có thể giúp trẻ  tự tin hơn khi giao tiếp với mọi người. Từ thực trạng trên, tôi cùng với giáo viên   trong lớp đã mạnh dạn tìm ra biện pháp để khắc phục.  2.2.1Biện pháp thứ nhất: Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi * Thông qua giờ đón trẻ Giờ đón trẻ là lúc cần tạo không khí vui vẻ, lôi cuốn trẻ tới trường, tới lớp  cô  phải thật gần gũi, tích cực trò chuyện với trẻ.Vì trò chuyện với trẻ là hình thức  đơn giản nhất để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc  5
  6. biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mớii có thể cung   cấp, mở rộng vốn từ cho trẻ. Vi du: ́ ̣  Cô trò chuyện với trẻ về bản thân, và gia đình của trẻ: + Con tên là gì? (...) + Gia đình con có những ai?(...) + Buổi sáng ai đưa con đến lớp?(...) + Mẹ con đưa đi bằng phương tiện gì?(...) Như vậy khi trò chuyện với cô trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ  của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn. Ngoài ra trong giờ đón trẻ,   trả trẻ tôi luôn nhắc trẻ biết chào ông, bà, bố, mẹ  như vậy kích thích trẻ trả lời  câu trọn vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói quen lễ phép, biết vâng lời. * Giáo dục ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời Hàng ngày đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường xuyên đặt câu hỏi để  trẻ  được  gọi  tên  các  đồ  chơi  quanh  sân  trường  như:  xích  đu,  cầu  trượt,  bập   bênh…. Ngoài ra tôi còn  giới thiệu cho trẻ biết cây xanh, cây hoa, mọi vật   ở  vườn trường và hỏi trẻ:  + Con thấy bông hoa này có màu gì? (Trẻ trả lời màu đỏ) + Thân cây này có to không? (Có ạ) + Thế  lá cây màu gì? (Màu xanh ạ) + Các con có nhìn thấy con gì đang bay đến không? (Có ạ) + Con gì vậy? (Con chim)  * Giáo dục: Các con  ạ! Cây xanh rất tốt cho sức khoẻ của con người các con   không được hái  hoa, bẻ cành mà phải tưới cây để cây mau lớn nhé! (Vâng ạ) Qua những câu hỏi  mà cô đặt racho trẻ sẽ giúp trẻ tích luỹ được những  vốn  từ  mới  ngoài  ra  còn  giúp  trẻ  phát  triển  ngôn  ngữ  chính  xác,  mạch  lạc,  rõ  ràng hơn.  Ở lứa tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói   6
  7. những câu không có nghĩa, nói tắt. Vì vậy bản thân tôi luôn chú ý lắng nghe và   nhắc nhở trẻ, nói mẫu cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại lời cô nói. * Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc Trong  một  giờ  hoạt  động  chung  trẻ  không  thể  phát  triển  ngôn  ngữ  một  cách  toàn  diện  được  mà  phải  thông  qua  các  hoạt  động  khác  trong  đó  có  hoạt   động góc. Đây có thể coi là một hình thức quan trọng nhất, bởi giờ chơi có tác   dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ,  đặc biệt là tích cực hoá vốn từ cho  trẻ.  Thời  gian  chơi  của  trẻ  chiếm  nhiều  nhất  trong  thời  gian  trẻ  ở  nhà  trẻ,  là  thời  gian  trẻ  được  chơi  thoải  mái  nhất.  Trong  qua ́ trình  trẻ  chơi  sử  dụng  các  loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung khác nhau. Vi du: ́ ̣   Trò chơi trong góc “đóng vai” trẻ được chơi với em búp bê và khi   trẻ chơi sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày. + Con đã cho em búp bê ăn chưa? (Chưa ạ) + Khi cho búp bê ăn con nhớ đeo yếm vào để cháo không dây ra áo của búp bê  nhé! (Vâng ạ)        + Trẻ đóng vai mẹ cho em búp bê ăn: Ngoan nào mẹ cho búp bê ăn nhé! !   (Trẻ  âu yếm em búp bê). Thông qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống  mà còn dạy trẻ nghe, hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm   yêu thương, gắn bó của con người. Vi du: ́ ̣  Ở góc “Bé khéo tay” cũng  ở chủ đề “bé và các bạn” tôi chuẩn bị  giấy, bút sáp cho trẻ tô màu bàn tay. Tôi thấy trẻ rất khéo léo, chăm chú khi làm.  Khi trẻ làm tôi ân cần đến bên trẻ trò chuyện cùng trẻ: + Con đang làm gì vậy? (Con tô màu ạ) + Con đang tô  gì? (quả cam) + Con chọn màu gì  để tô ? ( màu vàng ạ) Như vậy bằng hoạt động tô màu không những rèn cho trẻ sự khéo léo của   đôi bàn tay mà còn góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 7
  8. 2.2.2.Biện pháp thứ 2: Giáo dục ngôn ngữ thông qua các giờ học khác.  * Thông qua giờ nhận biết tập nói: Đây là hoạt động quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung  cấp vốn từ vựng cho trẻ. Trẻ  ở lứa tuổi 24 ­ 36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ  máy phát âm chưa hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói không đủ từ, nói ngọng, nói  lắp. Cho nên trong tiết dạy cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để  gây  hứng thú  cho trẻ. Bên  cạnh  đó  cô phải chuẩn  bị một hệ thống câu  hỏi rõ  ràng ngắn gọn trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu không   nói cộc lốc. Vi du ́ ̣: Bài nhận biết “Đôi dép” Khi vào bài tôi đặt câu đố:  Ai muốn chân sạch                                                    Thì dùng đến tôi Nhưng phải một đôi                                                    Đôi gì thế nhỉ?                                                                         (đôi dép) Trẻ trả lời đó là đôi dép  tôi đưa đôi dép cho trẻ xem và hỏi: + Cô có cái gì đây? (đôi dép ạ) + Đôi dép có màu gì? (Màu vàng ạ) + Đôi dép dùng để làm gì? (Dùng để mang vào chân ạ) Cứ như vậy tôi đặt hệ thống câu hỏi từ tổng thể đến chi tiết để trẻ trả  lời nhằm kích thích trẻ phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ, qua đó lồng liên  hệ thực tế giáo dục trẻ về giữ gìn vệ sinh.   * Thông qua giờ thơ, truyện Trong  tiết  học  khi  cho  trẻ  làm  quen  với  tác  phẩm  văn  học  là  phát  triển   ngôn ngữ nói cho trẻ và còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc mà   8
  9. muốn làm được như vậy trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ  cũng  được  học  thêm  được  các  từ  mới  qua  giờ  học  thơ,  truyện.  Để  giờ    hoạt   động thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành ngôn ngữ cho trẻ thì đồ  dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo: + Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn và vệ sinh cho trẻ. + Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu chuyện, phía dưới phải có chữ to  giúp cho việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi. + Bản thân giáo viên phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong sáng, giọng  đọc, kể phải diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của các nhân vật. Vi du 1 ́ ̣ : Trẻ nghe câu chuyện “Đôi bạn nhỏ”. Tôi cung cấp vốn từ cho trẻ  đó là từ “Bới đất”. Cô có thể cho trẻ xem tranh mô hình một chú gà đang lấy   chân  để  bới  đất  tìm  giun  và  giải  thích  cho  trẻ  hiểu  từ  “Bới  đất”.  (Các  con  ạ,  những chú gà là mỗi khi đi kiếm ăn các chú phải lấy chân để bới đất, đào đất   lên  để  tìm  thức  ăn  cho  mình,  khi  kiếm  được  thức  ăn  chú  gà  sẽ  lấy  mỏ  để  ăn  đấy).  Sau  khi  giải  thích  tôi  cũng  chuẩn  bị  một  hệ  thống  câu  hỏi  giúp  trẻ  nhớ  được nội dung truyện và từ vừa học: + Hai bạn Gà và Vịt trong truyện cô kể rủ  nhau đi đâu? (Đi kiếm ăn ạ)         + Vịt kiếm ăn ở đâu? (Dưới ao)         + Thế còn bạn Gà kiếm ăn ở đâu? (Trên bãi cỏ)         + Bạn Gà kiếm ăn như thế nào? (Bới đất tìm giun)         + Khi hai bạn đang kiếm ăn thì con gì xuất hiện đuổi bắt Gà con? (Con   Cáo)         + Vịt con đã cứu Gà con như thế nào? (Gà nhảy lên lưng Vịt, Vịt bơi ra xa).         + Qua câu chuyện con thấy tình bạn của hai bạn Gà và Vịt ra sao? (Thương   yêu nhau)         + Nếu như bạn gặp khó khăn thì các con phải làm gì? (Giúp đỡ bạn ạ). 9
  10. ­ Cô kể 1­2 lần cho trẻ nghe giúp trẻ hiểu thêm về tác phẩm và qua đó lấy nhân  vật  để  giáo  dục  trẻ   phải  biết  yêu  thương  và  giúp  đỡ  bạn  trong  lúc  gặp  khó  khăn. Vi du: ́ ̣  Trong câu truyện “Cháu chào ông  ạ” ngoài việc giúp trẻ thể hiện  ngữ điệu, sắc thái tình cảm của các nhân vật trong truyện tôi còn sửa sai những   từ  trẻ  hay  nói  ngọng  để  giúp  trẻ  phát  âm  chuẩn  và  động  viên  những  trẻ  nhút  nhát  mạnh dạn hơn khi trả lời.  Mỗi khi trẻ nói sai tôi dừng lại sửa sai luôn cho   trẻ bằng cách: tôi nói mẫu cho trẻ nghe 1­2 lần sau đó yêu cầu trẻ nói theo. Hay khi dạy chuyện “Thỏ ngoan” thể hiện sắc thái, ngữ điệu nhân vật sẽ  cuốn hút rất nhiều trẻ tham gia đặc biệt những trẻ nhút nhát qua đó cũng mạnh  dạn hơn. Đối với những trẻ đó tôi động viên, khích lệ trẻ kịp thời. ­ Tôi cho trẻ thể hiện ngữ điệu của các nhân vật trong truyện “Thỏ ngoan” + Giọng Bác Gấu bị mưa rét thì ồm ồm và run, nét mặt buồn. + Giọng con Cáo thì gắt gỏng, nét mặt kênh kiệu. + Giọng Thỏ thì ân cần, niềm nở. ­ Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của trẻ mà  còn  phát  triển  ngôn  ngữ  cho  trẻ  một  cách  toàn  diện.  Trẻ  nhớ  nội  dung  câu   truyện và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện để tiếp thu kiến thức. *Thông qua giờ âm nhạc: Đối  với  tiết  học  âm  nhạc  trẻ  được  tiếp  xúc  nhiều  đồ  vật  (Trống,  lắc,  phách tre, xúc xắc, xắc xô… và nhiều chất liệu khác) trẻ được học những giai  điệu vui tươi kết hợp với các loại vận động theo bài hát một cách nhịp nhàng.  Để làm được như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức vốn từ, kỹ năng nhất là  sự  giao  tiếp  bằng  ngôn  ngữ  của  trẻ  được  tích  luỹ  và  lĩnh  hội,  phát  triển  tính  nghệ thuật, giúp trẻ yêu âm nhạc. Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc,   trẻ đã biết sử dụng ngôn ngữ có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác cơ  bản để miêu tả những hình ảnh đẹp của bài hát. 10
  11. Vi du ́ ̣:  Hát và vận động bài “Đôi dép” Đôi dép xinh                     Đôi dép xinh xinh.                                Cháu giữ cho                                 Hai chân trắng tinh Đôi dép xinh                                Đôi dép xinh xinh.                                Chân cháu trắng tinh                                     Đôi dép xinh xinh.                            (Trẻ nhún đong dưa theo nhịp) * Phát triển ngôn ngữ thông qua một số trò chơi phát triển ngôn ngữ  cho trẻ. Đối với trẻ nhà trẻ, được phát triển ngôn ngữ thông qua trò chơi là một   biện  pháp  tốt  nhất.  Trò  chơi  đã  trở  thành  phương  tiện  để  cung  cấp,  tích  luỹ  được nhiều vốn từ và trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó trẻ  biết sử dụng “số vốn từ” đó một cách thành thạo. Qua trò chơi trẻ sẽ được giao tiếp mạnh dạn hơn, ngôn ngữ cũng lưu loát   hơn, vốn từ của trẻ cũng được tăng lên. Và tôi nhận thấy rằng khi trẻ chơi trò   chơi xong sẽ gây sự hứng thú lôi cuốn trẻ vào bài học. Như vậy trẻ sẽ tiếp thu   bài một cách nhẹ nhàng và thoải mái.   Bản  thân  tôi  đã  tìm  tòi,  tham  khảo,  đọc  những  tài  liệu  sách  và  tôi  thấy   rằng trò chơi này thực sự có hiệu quả làm tăng thêm vốn từ cho trẻ, từ đó ngôn  ngữ của trẻ ngày càng phong phú. * Trò chơi: “Cái gì? Dùng để làm gì?” 11
  12.   Mục  đích  của  trò  chơi  này  là  tôi  muốn  trẻ  nhận  biết  được  một  số  đồ  dùng  quen  thuộc  và  biết  tác  dụng  của  những  đồ  chơi  từ  đó  ngôn  ngữ  của  trẻ  cũng được phát triển: * Chuẩn bị: + Đồ dùng để ăn uống (Bát, thìa, cốc, ca…) + Đồ dùng để mặc (Quần, áo, khăn, mũ…) + Mỗi trẻ một tranh lô tô đồ dùng khác nhau.  * Tiến hành: Tôi cho trẻ ngồi xúm xít xung quanh cô. Cô nhắc tên đồ dùng nào thì trẻ  phải nói nhanh đồ dùng đó dùng để làm gì? Cô nói: + Cái bát dùng để làm gì? (Cái bát đựng cơm) + Cái cốc dùng để làm gì? (Dùng để uống nước) + Cái mũ để làm gì? (Cái mũ để đội) + Cái áo để làm gì? (Cái áo để mặc)  Sau khi hỏi trẻ xong tôi vận dụng trò chơi này để rèn sự nhanh nhẹn và   tư duy của trẻ. Tôi phát cho mỗi trẻ một lô tô đồ dùng khác nhau. Tôi yêu cầu  trẻ gọi tên đồ dùng và xác định nơi cất đồ dùng đó trong lớp. Sau đó tôi hô: 1,2,3   yêu cầu trẻ chạy nhanh về đúng nơi đồ dùng.  * Thông qua giờ vận động:   Trong góc vận động của lớp tôi đã sử dụng những thùng bìa để làm thành  tàu hoả cho trẻ chơi. Mỗi thùng làm thành một toa tàu. Trong khi chơi trẻ có thể  vừa chơi vừa kết hợp âm nhạc hát: “Đoàn tàu tí hon”, “Tàu vào ga”...vận dụng  vào phát triển ngôn ngữ cho trẻ.  Tôi còn phân loại màu xanh, đỏ, vàng của những chiếc vòng để khi trẻ  phân biệt màu không bị nhầm lẫn. Khi trẻ chơi với vòng tôi có thể hỏi trẻ giúp   ngôn ngữ của trẻ thêm mạch lạc, rõ ràng hơn: 12
  13. + Cái vòng này có màu gì hả con? (Màu đỏ ạ) + Thế còn  cái vòng này có màu gì đây? (Màu vàng ạ) + Cái vòng dùng để làm gì con có biết không? (để học, để chơi trò chơi ạ) + Con sẽ chơi gì với vòng? (Con lái  ô tô ạ) 2.2.3Biện pháp thứ 3: Trang trí lớp học, các góc chơi, làm đô dùng đồ chơi  theo từng chủ đề phong phú, bắt mắt, hấp dẫn trẻ.     Trẻ nhà trẻ hoạt động với đồ vật, việc trang trí lớp học, các góc chơi, làm  đồ dùng đồ chơi theo từng chủ đề phong phú, bắt mắt, hấp dẫn trẻ là một nội  dung quan trọng để từ đó thông qua việc cùng trẻ chơi với các đồ chơi đồ vật  sẽ phát triển vốn từ, ngôn ngữ cho trẻ.  Ví dụ: Giáo viên tận dụng tất cả những nguyên vật liệu có thế sử dụng  làm đồ dùng đồ chơi như lịch cũ,  ống lon, chai nhựa ... giáo viên làm ra những  đồ  dùng  chơi  như  bức  tranh,  mũ,  dép,  bát,  chén,  bình  hoa,  cây  xanh....  khi  trẻ  chơi cô đến gần trò chuyện hỏi trẻ qua đó cung cấp vốn từ thêm cho trẻ. Dựa  vào từng chủ đề lên kế hoạch làm đồ dùng, đồ chơi một cách cụ thể. Mỗi chủ  đề đều có  bộ đồ dùng đồ chơi phục vụ cho việc h ọc, vui chơi nhằm phát triển  ngôn ngữ  cho trẻ. 2.2.4.  Biện pháp thứ 4:  Phối hợp tuyên truyền với phụ huynh:  Trao  đổi  tuyên  truyền  với  phụ  huynh  cố  gắng  dành  thời  gian  để  trò  chuyện, tâm sự với trẻ và lắng nghe trẻ nói. Khi trò chuyện với trẻ phải nói rõ   ràng,  mạnh  lạc,  tốc  độ  vừa  nghe  để  trẻ  nghe  cho  dễ.  Cha  mẹ,  người  thân  cố  gắng phát âm đúng, không nên bắt trước những từ trẻ nói ngọng mà cần phải   sửa sai ngay những từ trẻ nói sai cho trẻ để trẻ bắt chước được cho đúng.   Khuyến  khích  hoặc  tuyên  truyền  với  phụ  huynh  cung  cấp  kinh  nghiệm  sống cho trẻ. Tránh không nói tiếng địa phương, tập cho trẻ nói  ở mọi lúc mọi  nơi, cần tránh cho trẻ nghe những hình thái ngôn ngữ không chính xác... 13
  14. Ví dụ: Bố mẹ khi đón trẻ về nhà thường xuyên trò chuyện cùng trẻ như:   Hôm nay con đi học cô cho con ăn gì? Đến lớp con có ngoan không? Hôm nay cô   dạy con bài thơ gì?....Từ những câu hỏi trò chuyện đơn giản như vậy cũng đã  góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Qua quá trình thực hiện và áp dụng những biện pháp trên tôi đã thu được  kết quả đáng phấn khởi như sau: *Đối với giáo viên: Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề giáo dục phat triên ngôn ng ́ ̉ ữ cho   trẻ trong trường mầm non thông qua các hoat đông, cac bài th ̣ ̣ ́ ơ, câu chuyện, cać   ̀ ơi và bằng trải nghiệm thực tế. Luôn tìm tòi các kiến thức chăm sóc ­ giáo   tro ch dục trẻ để nắm vững các nội dung, phương pháp, kỹ năng đê truyên đat cho tr ̉ ̀ ̣ ẻ  ́ ̉ ễ phép, tự tin, tự lập và biết hợp tác với cô giáo và các bạn. giup tre l Thường xuyên dạy trẻ  ở mọi lúc, mọi nơi. Nghiêm túc thực hiện các tiết  dạy, đặc biệt lồng ghép giáo dục phat triên ngôn ng ́ ̉ ữ thông qua các tiết dạy. Xây dựng góc tuyên truyền giáo dục phat triên ngôn ng ́ ̉ ư và tích c ̃ ực phối  hợp với phụ huynh qua giờ đón, trả trẻ hàng ngày cùng giáo dục trẻ.   *Đối với trẻ:   Trẻ đã mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp với cô và các bạn trong lớp,   với mọi người xung quanh. Vốn từ của trẻ đã phong phú hơn rất nhiều so với   đầu năm học. Trẻ đã phát âm được cả câu trọn vẹn. Khả năng nghe, hiểu, trả  lời câu hỏi của cô đã tốt hơn rất nhiều. Trẻ có ý thức trong các giờ học. Trẻ có   thái độ tích cực, đoàn kết…thích tham gia vào các hoạt động cùng cô. Trẻ mạnh  dạn, tự tin hơn trong khi giao tiếp. Khả năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của trẻ  đã tiến bộ rõ rệt.        * Đối với phụ huynh: Phụ huynh có nhận thức đúng đắn về chuyên đề. Phụ huynh rất phấn khởi, yên  tâm khi thấy con em mình lễ phép, tự tin, biết tự phục vụ bản thân không những  14
  15. ở trường cũng như  ở nhà nên  đã  đóng góp tranh  ảnh, một số trang thiết bị cơ  bản cho cô và trẻ có tương đối đầy đủ đồ dùng học tập, thực hành tốt hơn. * Kết quả đạt được: Qua 5 tháng áp dụng những biện pháp trên cùng với sự  chỉ đạo sát sao của Nhà trường, của tổ chuyên môn, sự góp ý kiến của chị em   đồng nghiệp thông qua các buổi dự giờ và giảng dạy tại lớp học  đến nay tôi đã   gặt hái được những kết quả như sau; * Mục tiêu giáo dục lĩnh vực phát triển ngôn ngữ  cho trẻ nhóm trẻ 24­36 tháng  tuổi thông qua  các hoạt động.      TT  Nội dung Số trẻ  Tỷ lệ  Số trẻ  Tỷ lệ  đạt % chưa  % đạt Khả  năng  nghe  hiểu  ngôn  ngữ  và   28 96,6% 1  3,4% phát âm Vốn từ của trẻ  28 96,6% 1  3,4% Khả năng nói đúng ngữ pháp 27 93,1% 2 6,9% Khả năng giao tiếp  28 96,6% 1  3,4% 3. KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của đề tài:  Như chúng ta đã biết “Phát triển ngôn ngữ” cho trẻ ở trường mầm non là  vấn đề rất quan trọng và cần thiết, mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ còn tuỳ  thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. “Phát triển ngôn ngữ” giữ vai trò quan trọng   trong cuộc sống giao tiếp hàng ngày và hoạt động nhận thức của con người nói   chung, sự phát triển tâm lý nhận thức của trẻ nói riêng, đặc biệt là trẻ lứa tuổi  24 ­ 36 tháng khả năng ngôn ngữ phát triển rất nhanh. Việc rèn luyện và phát  triển ngôn ngữ cho trẻ là cả quá trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi giáo viên  phải kiên trì, bền bỉ khắc phục khó khăn để tìm ra phương tiện, điều kiện cần   thiết cho sự phát triển toàn diện của các con, hơn nữa cô giáo là người gương  15
  16. mẫu để trẻ nói theo, điều này đã góp phần bồi dưỡng thế hệ măng non của đất  nước. 3.2. Kiến nghị, đề xuất:   Từ  những  việc  làm  cụ  thể  và  kết  quả  đạt  được  như  vậy  để  phát  triển  ngôn ngữ cho trẻ  ở các trường mầm non nói chung và trường mầm non nơi tôi  giảng  dạy  nói  riêng.  Tôi  xin  mạnh  dạn  đưa  ra  một  số  kiến  nghị  đề  xuất  như  sau:    *Đối với Nhà trường: Nhà trường luôn tổ chức các buổi hội thảo về chuyên đề phát triển ngôn ngữ để  giáo viên được trao đổi những vướng mắc trong việc dạy trẻ.  * Đối với giáo viên: Trong  quá  trình  tổ  chức  các  hoạt  động  giáo  dục  trẻ,  giáo  viên  phải  linh  hoạt, sáng tạo. Thường xuyên thay đổi các hình thức và sử dụng các thủ thuật,   giúp trẻ hứng thú và hoạt động một cách tích cực. Biết  vận  dụng  biện  pháp  lồng  ghép  tích  cực  các  hình  thức  tổ  chức  một  cách  khoa  học,  nhẹ  nhàng,  thoải  mái  để  khai  thác  tối  đa  hoạt  động  phát  triển   ngôn ngữ. Bản thân mỗi giáo viên không ngừng học tập, trau dồi kiến thức để nâng   cao chuyên môn nghiệp vụ và trình độ nhận thức. * Đối với phụ huynh:  Phụ huynh cần đưa đón con em đi học đúng giờ và chuyên cần để đảm  bảo trẻ được tiếp thu kiến thức một cách có hệ thống, liên tục.Trao đổi, phối   hợp với giáo viên trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ để có biện  pháp giáo dục mềm dẻo, phù hợp với trẻ ở nhà. Phụ huynh  cần tạo  điều kiện  giúp đỡ cho giáo  viên trong việc  sưu  tầm   các  nguyên  vật  liệu  sẵn  có  ở  địa  phương  để  giáo  viên  làm  đồ  dùng  đồ  chơi   nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trên đây là một số biện pháp giúp trẻ 24­36 tháng phát triển ngôn ngữ mà  tôi đã rút ra được trong quá trình giảng dạy nhằm giúp trẻ phát triển về mọi mặt  16
  17. đạo đức, nhân cách, phẩm chất, thẩm mỹ, trí tuệ và ngôn ngữ. Đồng thời trong  quá  trình  viết vẫn  còn những  thiếu sót nhất  định,  tôi rất  mong  được sự góp  ý  xây dựng để sáng kiến kinh nghiệm của tôi hoàn thiện hơn.                       Tôi xin chân thành cảm ơn!                                                                    17
  18. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh Phúc BẢN XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG MẦM NON THỊ TRẤN LỆ NINH Họ và tên người viết:  Hồ Thị  Liền Tên đề tài:  “Một số biện pháp giúp trẻ 24­36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ   ở trường mầm non”  Nhận xét của Hội đồng khoa học Trường mầm non Thị trấn Lệ Ninh: 18
  19. ..................................................................................................................................... ..................................................................................................................................... ..................................................................................................................................... ..................................................................................................................................... ..................................................................................................................................... ..................................................................................................................................... ..................................................................................................................................... ..................................................................................................................................... ..................................................................................................................................... ..................................................................................................................................... ........................................................................................................................ Xếp loại: .......                                                                       Lệ Ninh, ngày     tháng 4 năm 2020                                                                   CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG KHOA HỌC     19
  20. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2