intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở trường mầm non

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:14

55
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở trường mầm non” góp phần tích cực và có hiệu quả hơn trong việc giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở trường mầm non. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở trường mầm non

  1. ĐỀ  TÀI: “MỘT SỐ  BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO  DỤC HÒA NHẬP TRẺ KHUYẾT TẬT Ở TRƯỜNG MẦM NON” 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Trong xã hội, bên cạnh trẻ  em bình thường luôn tồn tại một bộ  phận trẻ  em khiếm khuyết về thể chất hoặc rối loạn những chức năng nhất định. Đó là   trẻ em khuyết tật. Sự gia tăng dân số, kéo theo số trẻ khuyết tật ngày càng tăng.  Nếu như trong xã hộ  lạc hậu, sự nghèo đói, sự  thiếu hiểu biết, thiếu chăm sóc   là nguyên nhân dẫn đến khuyết tật thì trong xã hội văn minh, sự  lạm dụng các  chất   hóa  học  trong  trồng  trọt,  chăn   nuôi,  trong  chế   biến   thực  phẩm,  nạn   ô  nhiễm môi trường, sự tác động của các chất, tia phóng xạ… lại là nguyên nhân   chính dẫn đến tỉ lệ khuyết tật ngày càng tăng.    Do nhiều lí do khác nhau, đại bộ  phận trẻ  khuyết tật ít được hoặc không  được ra lớp hoặc đến lớp một thời gian sau đó phải bỏ học.       Ở  Việt Nam Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến những đối tượng  khuyết tật. Điều này được thể hiện qua một số văn bản sau. ­ Hiến pháp nước Công hòa xã hội chủ  nghĩa Việt Nam quy định “Nhà   nước tạo điều kiện cho trẻ em tàn tật được học văn hóa và học nghề phù hợp”. ­ Điều 16, pháp lệnh về người tàn tật ngày 30/7/1988 quy định “Việc học   tập của trẻ  tàn tật được tổ  chức, thực hiện bằng các hình thức học hòa nhập   trong các trường phổ  thông, các trường chuyên biệt dành cho người tàn tật, cơ  sở  nuôi dưỡng người tàn tật tại các gia đình”. Trong mục tiêu chiến lược giáo  dục trẻ  khuyết tật là đến năm 2015 hầu hết trẻ  khuyết tật  ở Việt Nam có cơ  hội bình đẳng trong tiếp cận một nền giáo dục có chất lượng và được trợ  giúp  để  phát triển tối đa tiềm năng, tham gia và đóng góp tích cực cho xã hội, trong  đó mục tiêu cụ  thể  là đến năm 2010 đảm bảo cho 70% trẻ  khuyết tật được đi  học. Kế  thừa truyền thống nhân ái của dân tộc Việt nam “Thương người như  thể thương thân”, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến những người khuyết  tật trong xã hội, nhất là đối với trẻ  em. Trong điều kiện đất nước đang gặp   nhiều khó khăn, kinh tế còn chậm phát triển chúng ta đang từng bước xây dựng,   thực hiện chính sách và biện pháp giúp đỡ  người khuyết tật nói chung, nhất là   giúp đỡ  trẻ  em bị  khuyết tật về thể  chất lẫn tinh thần vuotự qua khó khăn để  hòa nhập với cuộc sống cộng đồng. 1
  2. * Điểm mới của đề tài. Nâng cao chất lượng giáo dục trẻ khuyết tật chính là tạo môi trường sống,   môi trường học tập hòa nhập tốt nhất cho trẻ  khuyết tật  ở  lứa tuổi mầm non   qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ khuyết tật được tham gia học cùng trẻ  bình thường ở các trường lớp mầm non. Tất cả những quyền lợi mà trẻ  khuyết tật có được đòi hỏi giáo viên phải   chăm sóc tận tình trong học tập và sinh hoạt, được các bạn trong lớp cảm thông,   giúp đỡ. Đặc biệt được ban giám hiệu nhà trường, các cô giáo có các biện pháp  quan tâm, giúp đỡ trẻ hòa nhập. Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật là xu hướng chung của hầu hết các nước  trên thế giới và đã được Bộ GD ­ ĐT Việt Nam xác định là con đường chủ yếu  để thực hiện những quyền cơ bản của mọi trẻ em, đặc biệt là quyền được giáo  dục. Đây cũng là cơ  hội để  mọi trẻ em, trong đó chú trọng đến trẻ  khuyết tật,   trẻ khó khăn được tiếp cận nền giáo dục bình đẳng, có chất lượng.  Là   giáo   viên   mầm   non   với   lòng   yêu   nghề,   mến   trẻ,   tận   tụy   với   nghề  nghiệp tôi luôn trăn trở, suy nghĩ phải làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo   dục hòa nhập trẻ  khuyết tật trong trường mầm non ngày được nâng cao, góp   phần hạn chế  những khiếm khuyết cho trẻ, để  trẻ  vững bước vào đời, hòa  nhập với cộng đồng và là những người con có ích cho xã hội, cho đất nước.  Xuất phát từ lý do trên luôn thôi thúc tôi tìm hiểu, nghiên cứu thực hiện đề  tài  “Một số  biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập trẻ  khuyết   tật  ở trường mầm non” làm đề tài nghiên cứu cho bản thân với hy vọng việc  làm này sẽ góp phần tích cực và có hiệu quả hơn trong việc giáo dục hòa nhập   trẻ khuyết tật ở trường mầm non.  1.2 Phạm vi áp dụng của đề tài: Đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập trẻ   khuyết tật  ở  trường mầm non” có thể  được áp dụng trong trường mầm non  nơi tôi giảng dạy nói riêng và trong các trường mầm non nói chung. 2.  PHẦN NỘI DUNG 2.1 Thực trạng:  Năm học 2018­2019, tôi được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo 3 ­  4 tuổi với tổng số  26 cháu trong đó có 1 cháu khuyết tật khiếm thị. Trong quá   trình thực hiện nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật bản thân   tôi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn sau: 2
  3. * Thuận lợi:           ­ Được sự quan tâm chỉ đạo chặt chẽ về cơ sở vật chất đặc biệt là sự chỉ  đạo sát sao về chuyên môn của phòng giáo dục và đào tạo huyện, ban giám hiệu   nhà trường và tổ chuyên môn trong đó có nội dung giáo dục hòa nhập trẻ khuyết  tật. ­ Trường được đầu tư trang bị CSVC, mua sắm đồ dùng dạy học phục vụ  cho trẻ đổi mới, hiện đại tạo cho tiết học hấp dẫn, sinh động nên thuận lợi cho   công tác giảng dạy. ­ Ban giám hiệu nhà trường quan tâm, giúp đỡ  và tạo điều kiện cho giáo  viên được tập huấn học hỏi kinh nghiệm về giáo dục trẻ khuyết tật.            ­ Trong nhà trường xây dựng tập thể  sư  phạm đoàn kết luôn quan tâm  giúp đỡ  lẫn nhau, người dạy lâu năm chia sẻ  kinh nghiệm cho người mới vào  dạy nên tôi được học tập thêm rất nhiều về chuyên môn nghiệp vụ.  ­ Bản thân tôi có trình độ  chuyên môn nghiệp vụ  trên chuẩn, yêu nghề,   mến trẻ, đồng thời có sự phối kết hợp đồng đều giữa 2 giáo viên trong lớp cùng   nhiệt tình chăm sóc ­ giáo dục trẻ nói chung và trẻ khuyết tật nói riêng.  ­ Phụ huynh học sinh luôn tin tưởng, tận tình phối hợp với giáo viên trong   việc chăm sóc và giáo dục trẻ.           Ngoài những thuận lợi trên bản thân tôi nhận thấy rằng thuận lợi lớn nhất   đó chính là được sự  quan tâm, tạo điều kiện của ban giám hiệu nhà trường, sự  động viên khích lệ  của đồng nghiệp, gia đình đã giúp tôi hoàn thành tốt nhiệm  vụ giảng dạy của mình. * Khó khăn:  ­ Giáo viên chủ  nhiệm lớp không được đào tạo về  chuyên biệt giáo dục  hòa nhập trẻ khuyết tật mà chỉ  được tập huấn, kiến tập về  giáo dục hòa nhập  trẻ khuyết tật. ­ Đồ  dùng đồ  chơi dành riêng cho trẻ  khuyết tật còn ít gây khó khăn cho  giáo viên trong việc giáo dục trẻ. ­ Trẻ  không dùng thị  giác để  khám phá xung quanh, nhạy cảm với ánh  sáng. ­ Trẻ đôi khi không kiểm soát được hành vi của bản thân. ­ Trẻ thường tự ti, mặc cảm, không dám hòa nhập với bạn bè. ­ Trẻ  không thể  thực hiện một số  khả năng tự  phục như: Đi vệ  sinh, tự  xúc cơm ăn, mặc, cởi quần áo… 3
  4. * Khảo sát thực tiễn: Ngay từ  đầu năm học khi mới tiếp nhận trẻ khuyết tật khiếm thị tôi đã   tiến hành khảo sát cháu và thấy kết quả như sau: ­ Trẻ hoảng sợ, không dám hòa nhập với bạn bè. ­ Trẻ không thể thực hiện một số khả năng tự  phục vụ  như: Đi vệ  sinh,   mặc cởi quần áo, xúc cơm ăn, uống nước... ­ Trẻ không biết gọi cô, gọi bạn giúp đỡ khi có nhu cầu. ­ Ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế phát âm chưa rõ từ, rõ câu. ­ Không tham gia được các hoạt động học tập, vui chơi với bạn bè. ­ Phụ huynh còn e dè, không dám đưa con đến trường. * Nguyên nhân: ­ Nguyên nhân sinh lý: + Theo nhiều công trình nghiên cứu của các ngành sinh lý học, tâm lý học,   giáo dục học thì có 40% trẻ  khuyết tật chưa tìm hiểu được nguyên nhân, 60%   các trường hợp khác nhau gây nên khuyết tật của trẻ  như: bị  tổn thương não,  nhiễm độc từ môi trường, sự di truyền... ­ Nguyên nhân tâm lý và các yếu tố khác: + Gia đình của trẻ  khó khăn về  kinh tế  nên không có sự  quan tâm đúng  mức, sự  chấp nhận số  phận có những đứa con khuyết tật dẫn đến việc nhiều  phụ huynh không muốn đưa trẻ hòa nhập cộng đồng đến trường lớp. + Đứa trẻ bị mặc cảm bỏ rơi hoặc vì lỗi khuyết tật của mình nên không  muốn tiếp xúc với thế giới bên ngoài, không muốn đến trường. + Công tác tổ chức phối hợp giúp trẻ khuyết tật của các tổ chức đoàn thể  chưa mạnh.  + Việc tập huấn cho giáo viên về  các kĩ năng dạy trẻ  khuyết tật còn   nhiều hạn chế cũng như sự đầu tư cho trẻ khuyết tật chưa đầy đủ với mục tiêu   trong giai đoạn hiện nay. + Một số phụ huynh chưa phối hợp để làm hồ sơ khuyết tật cho trẻ Với kết quả  khảo sát thực tế  trên tôi thấy việc giáo dục trẻ  khuyết tật  học hòa nhập đang là vấn đề đặt lên hàng đầu và đây cũng là lý do tôi chọn đề  tài  “Một số  biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập trẻ  khuyết   tật ở trường mầm non” 2.2. Cac giai pháp: ́ ̉ Nâng cao chất lượng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật trong trường mầm   non đang là một xu hướng phổ  biến trên thế  giới nói chung và đặc biệt đang   4
  5. được triển khai ở một số nước có hệ thống giáo dục đặc biệt phát triển. Đây là  một nhiệm vụ  cao cả  của giáo viên để  giúp trẻ  tìm thấy cuộc sống mới và có   một chân trời mới tốt đẹp, tươi sáng hơn. Nhận thức được điều đó, tôi đã tìm ra  các giải pháp để giúp trẻ khuyết tật tự tin, mạnh dạn và có thể hoà nhập được   với các bạn trong lớp, hứng thú tham gia vào các hoạt động mà cô giáo tổ chức.  * Giải pháp 1: Khảo sát khuyết tật của trẻ.           Là một giáo viên chủ nhiệm trực tiếp phụ trách lớp có trẻ bị  khuyết tật  bản thân tôi đã tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình cũng như tìm hiểu nguyên nhân,   đặc điểm tâm sinh lí của trẻ: * Các đặc điểm về năng lực bù trừ của trẻ khuyết tật: ­ Sự nhạy cảm thính giác của trẻ mù. ­ Sự nhạy cảm thị giác của trẻ điếc. ­ Sự khéo léo đôi chân của trẻ liệt chi. * Nội dung cần tìm hiểu nhu cầu và khả năng của trẻ khuyết tật bao  gồm: + Sự phát triển về thể chất: Sự phát triển cân đối của cơ thể về hình  dáng bề ngoài, khả năng vận động (bò, ngồi, đứng, đi, chạy, nhảy), khả năng  lao động ( tự phục vụ, lao động giúp đỡ gia đình,…) phát triển các giác quan. + Khả năng ngôn ngữ ­ giao tiếp: Khả năng nghe, đọc, hiểu ngôn ngữ,  ngôn ngữ diễn đạt bằng cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, kỹ năng phát âm, sử dụng từ  vựng, khả năng giao tiếp. + Khả năng nhận thức: Khả năng tri giác, khả năng ghi nhớ, khả năng tư  duy, suy nghĩ, phán đoán, giải quyết vấn đề… + Quan hệ xa hội: Mối quan hệ của trẻ đối với mọi người, hành vi ứng  xử, cảm xúc, tình cảm. + Môi trường phát triển của trẻ: Môi trường ăn, ở, vệ sinh, chăm sóc sức  khỏe, giáo dục ­ văn hóa ­ xã hội. Với nhiều đặc điểm khuyết tật ở trẻ bản thân giáo viên ở lớp luôn phải  đặc biệt chú ý đến trẻ. Và từ đó đưa ra các biện pháp giáo dục phù hợp với trẻ  để trẻ cùng được học tập và giao lưu với các bạn trong lớp.               * Giải pháp 2: Lập kế  hoạch theo dõi, đánh giá sự  tiến bộ  của trẻ   khuyết tật. Từ những căn cứ trên, tôi tiến hành lập kế hoạch để theo dõi, đánh giá sự  tiens bộ  của trẻ  theo từng hoạt động, theo ngày, theo tuần, theo tháng hay học  kỳ  một cách cụ  thể. Nếu thấy trẻ  tiến bộ  thì tiếp tục lên kế  hoạch học thêm   5
  6. kiến thức; nếu ngược lại thì tôi sẽ dừng lại để củng cố những kiến thức đã học   cho trẻ. ­ Khi lên kế  hoạch giáo dục theo từng tháng, tuần, tôi luôn đưa ra nội   dung giáo dục và biện pháp giáo dục cụ  thể. Khi xây dựng mục tiêu cho trẻ  trong giáo dục hòa nhập tôi đã căn cứ vào:  ­ Bản thân đứa trẻ: Kiến thức, kỹ  năng, kinh nghiệm sống đã có  ở  trẻ,  những gì trẻ cần đáp ứng. ­ Điều kiện và nguyện vọng của gia đình trẻ. ­ Điều kiện của địa phương, nhà trường, lớp học. * Khi xây dựng mục tiêu cho mỗi trẻ  khuyết tật bản thân tôi luôn chú ý  các nội dung sau: ­ Mục tiêu hòa nhập xã hội. ­ Mục tiêu kiến thức về các môn học. ­ Mục tiêu về hành vi ứng xử giao tiếp. ­ Mục tiêu giáo dục hành động tự phục vụ.   ­ Mục tiêu phát triển các khả năng.   Khi xây dựng mục tiêu cho trẻ khuyết tật tôi luôn kết hợp với phụ huynh  trẻ, nhóm hỗ trợ cộng đồng, y tế … cùng xây dựng chi tiết, rỏ ràng, cụ thể. * Lập kế hoạch:  Khi xây dựng mục tiêu xong, căn cứ  vào mục tiêu, tôi tiến hành xây dựng  kế hoạch giáo dục. Kế hoạch giáo dục cần được xây dựng dựa vào điểm mạnh  của trẻ. Vì trẻ có thể phát triển tốt khi sử dụng thế mạnh của mình. Ví dụ: Kế hoạch chăm sóc ­ giáo dục cá nhân của trẻ trong 1 tuần như sau: TT Yêu cầu Biện pháp Kết quả 1 ­ Trẻ  xác định được vị  ­  Mỗi  ngày  cô tập  cho  ­   Trẻ   biết   quay   đầu  trí   của   cửa   chính,   khu  trẻ  xác định được vị  trí  về   hướng   cô   nhưng  vực nhà vệ sinh... của cửa chính, khu vực  chưa   tự   tin   đi   đến  nhà vệ  sinh...bằng cách  hướng cô gọi. gọi trẻ để trẻ lắng nghe  xác định được tiến gọi  của   cô   từ   hướng   nào  sau đó gọi trẻ  đi chậm  đến hướng có cô. 2 ­   Trẻ   biết   chủ   động  ­ Cô kết hợp với 1 số cô  ­ Trẻ nhận biết trả lời  giao   tiếp   với   cô,   với  giáo   khác   và   các   bạn  được tên gọi của 1 số  6
  7. bạn   bè,   biết   được   tên  trong lớp giới thiệu tên,  cô   và   bạn   khi   được  gọi của một số  cô giáo  nói   chuyện   với   trẻ   để  hỏi.  trong   điểm   trường   trẻ giúp  trẻ   ghi nhớ  giọng  học   và   một   số   bạn   bè  nói và tên của các cô và  qua giọng nói các bạn. 3   ­  Trẻ  thực hiện  được  ­   Cô   giúp   trẻ   lấy   cơm  một   số   yêu   cầu   đơn  và nước hướng dẫn trẻ  ­ Trẻ  thực hiện được  giản cô giao: tự bưng ly  tự    quan sát, nhắc nhở  cầm   ly   uống   nước  uống nước và bưng bát  trẻ  bưng ly uống nước  song   chua   cầm   được    ăn cơm... và bưng bát ăn cơm bát để tự ăn cơm.  4 ­ Dạy trẻ đọc thơ thuộc  ­   Dạy  trẻ   đọc  thơ,  hát  1­ 2 câu ngắn trong bài  thường   xuyên,   ở   mọi  ­ Trẻ đọc được 70%. thơ,   các   bài   hát   đơn  lúc,   mọi   nơi:   đón   trẻ,  giản. trả   trẻ,   chuẩn   bị   đi  ngủ... * Giải pháp 3: Xây dựng vòng tay bè bạn. Với các trẻ bình thường việc kết bạn và duy trì tình bạn giữa trẻ với nhau   mang tính tự nhiên. Nhưng với trẻ khuyết tật luôn gặp khó khăn trong đời sống   hằng ngày, trong hoạt động nhận thức nên trẻ cũng gặp khó khăn trong tình bạn.  Bởi đây là quan hệ  được xây dựng từ  hai phía và đòi hỏi phải thường xuyên   củng cố, giữ  gìn. Để  tình bạn của trẻ  thực sự  có ý nghĩa trong đời sống tình   cảm, tạo ra bầu không khí thân mật, thương yêu, giúp đỡ  bạn ngay từ  khi mới  biết nhau giáo viên cầm xây dựng vòng tay bè bạn cho trẻ. Việc tổ chức cho trẻ khuyết tật tham gia vào các hoạt động vui chơi, học   tập giúp trẻ  phát triển khả  năng tư  duy sáng tạo là một yêu cầu hết sức quan  trọng. Để thực hiện được vấn đề này đòi hỏi người giáo viên phải có kiến thức   sâu sắc về các cơ sở khoa học và phương pháp chăm sóc ­ giáo dục trẻ, phải có   kỹ  năng, kỹ  xảo nghề  nghiệp. Cô giáo phải linh hoạt, nhạy bén, sáng tạo, chu   đáo và tỉ  mỉ  để  phát hiện những khả  năng tiềm  ẩn và đáp  ứng kịp thời những   nhu cầu đòi hỏi của trẻ, tạo cho trẻ sự tự tin, mạnh dạn hòa nhập tham gia hoạt  động với các bạn. Trong các hoạt động, cô giáo là người dẫn dắt, gợi mở, giúp trẻ phát hiện   những tri thức khoa học, trẻ  là người chủ  động tiếp nhận các tri thức. Từ  đó   từng bước tạo cho trẻ thói quen thích tìm tòi khám phá. Đặc biệt trong quá trình  chăm sóc ­ giáo dục cô giáo phải thường xuyên gần gũi, trò chuyện, động viên,  7
  8. tạo tình cảm thân thiết để trẻ cảm thấy an tâm khi có cô bên cạnh. Cô giáo cần  tạo điều kiện về  thời gian để  trẻ  được hoạt động dạo chơi, hít thở  không khí  trong lành. Đây cũng là cơ  hội để trẻ  luyện tập, phát triển ngôn ngữ, phục hồi  dần các khiếm khuyết của trẻ  khuyết tật. Cô giáo phải là chỗ  dựa cho trẻ  khuyết tật, dìu dắt trẻ  mỗi khi trẻ  tham gia hoạt động, tạo niềm tin và sự  an  toàn cho trẻ. Ví dụ: Trong các hoạt động vui chơi tham quan sân trường cô nhắc nhở  các bạn trong lớp giúp đỡ bạn khi chơi, dắt bạn cùng vui chơi với trẻ, nhắc các   trẻ khác không chạy nhảy xô đẩy làm bạn ngã.  Trong các hoạt động, cô thường xuyên khuyến khích, gợi mở, kích thích  trẻ khuyết tật tích cực tham gia hoạt động, hoạt động vừa sức không ỷ  lại vào  người khác. Với mong muốn cháu khuyết tật được học hòa nhập cùng các bạn, ngoài   sự quan tâp, giúp đỡ của cô giáo thì sự giúp đỡ của bạn bè cũng là một yếu tố vô  cùng quan trọng. Tôi thiết lập “vòng tay bè bạn”  ở  trong lớp của tôi dạy; đó là  những cháu  ở  gần nhà của trẻ  bị  khuyết tật, và cả  những cháu biết quan tâm,  giúp đỡ  bạn. Tôi sắp xếp cho trẻ  ngồi gần nhau để  các cháu hỗ  trợ  cho bạn   trong các hoạt động. * Giải pháp 4: Xây dựng môi trường giáo dục thân thiện cho trẻ. Môi trường giáo dục có vai trò rất quan trong trong quá trình phát triển   toàn diện cho trẻ, đặc biệt là đối với trẻ khuyết tật. Vì khi có môi trường giáo  dục tốt sẽ  giúp phát triển nhân cách cho trẻ, đồng thời giúp trẻ  phát triển tiềm   năng các tư chất, các năng lực tinh thần và thể chất. Hơn nữa, trẻ khuyết tật rất   nhạy cảm với mọi tác động bên ngoài. Không những bệnh tật, thiếu dinh dưỡng   có thể gây tác hại lâu dài mà ngay cả những thiếu sót trong cách thức giáo dục,   trong quan hệ  tình cảm cũng dễ  làm nảy sinh những chấn thương tâm lý,  ảnh  hưởng tiêu cực đến sự phát triển của trẻ. Cho nên giáo viên mầm non có vai trò   rất quan trọng trong việc giáo dục hòa nhập. Cô giáo như mẹ hiền, thay thế mẹ  để chăm sóc, giáo dục và giúp đỡ trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Vì vậy việc chăm sóc  và giáo dục trẻ khuyết tật phải thường xuyên được cải tiến, đổi mới, phải phù   hợp với đặc điểm tâm sinh lý và sở  thích của trẻ. Kiên quyết tránh mọi hình  thức gò bó, áp đặt, mệnh lệnh làm căng thẳng, ức chế tâm lý trẻ. Cô giáo phải  thường xuyên trò chuyện, âu yếm, vỗ  về trẻ, tạo cho trẻ tâm thế  vui vẻ, thoải   mái, tạo sự  thân thiện để  trẻ  được hòa nhập cùng với bạn bè, xây dựng nhóm  bạn cùng chơi với trẻ, giúp trẻ  mạnh dạn, tự  tin, thích đến trường, thường   xuyên nhắc nhở  giáo dục trẻ  trong trường, trong lớp phải yêu thương, giúp đỡ  8
  9. bạn lúc khó khăn, thấy bạn bị  ngã phải đỡ  bạn đứng dậy, thấy bạn buồn, bạn   không khỏe thì phải quan tâm hỏi thăm và cùng chơi với bạn…Đây cũng là cơ  hội tốt để giáo dục tình cảm, lòng nhân ái, nhân cách sống và kỹ năng sống cho   trẻ mầm non. Lớp tôi dạy có 26 trẻ, các trẻ  khác đều chơi vui vẻ, hoà đồng cùng các  bạn trong lớp của mình. Riêng cháu Thiên Phúc do bị  khuyết tật khiếm thị nên  không chơi với ai, cháu hay ngồi một mình vì vậy đòi hỏi tôi phải thường xuyên  để ý, quan tâm đến cháu, luôn theo dõi những cử chỉ và hành động của cháu, tôi  thường đến bên cháu trò chuyện với cháu, tìm hiểu xem cháu thích chơi gì, thích  bài thơ  nào? Lúc đó tôi cho các trẻ  khác đọc thơ  cho Phúc nghe. Tôi động viên  cháu đến vui chơi cùng các bạn.   Ví dụ: Đối với tiết dạy thơ  tôi đến bên trò chuyện với trẻ: Con có biết  các bạn vừa đọc bài thơ gì không? Con có thích bài thơ đó không? Con đến ngồi   cùng các bạn để đọc thơ nhé!". Khi hỏi trẻ, trò chuyện với trẻ tôi thường nhẹ nhàng, vuốt ve âu yếm trẻ,  tạo cho trẻ cảm thấy yên tâm, sự tin tưởng khi nói với cô điều mà trẻ muốn.  Bên cạnh đó, tôi chú ý sắp xếp, tổ chức trang trí lớp một cách gọn gàng,  bố  trí cho trẻ  vị  trí phù hợp như  ngồi gần một bạn biết quan tâm, chia sẻ  với  trẻ; biết động viên trẻ  trong học tập, giáo viên sẽ  khơi gợi được sự  hứng thú,  say mê học tập của trẻ. Hơn nữa vị  trí thuận tiện của trẻ  sẽ  giúp trẻ  tiếp thu  nhanh hơn, thuận tiện hơn trong học tập và tiện cho việc theo dõi, giúp đỡ  của  giáo viên. Từ đó, giúp trẻ khuyết tật có cơ hội học tập bạn bè, xoá bỏ mặc cảm,   khả năng giao tiếp phát triển, hình thành nhiều kĩ năng trong sinh hoạt. * Giải pháp 5: Dạy trẻ mọi lúc, mọi nơi Đối với trẻ  khuyết tật thì khả  năng nhận thức, diễn đạt những ý nghĩ,  mong muốn của trẻ rất hạn chế. Vì thế, việc giáo dục trẻ khuyết tật phải thực   hiện một cách thường xuyên, phải kiên trì, nhẫn nại mới có kết quả tốt.   Trẻ   khuyết   tật   hay   quên   nên   rất   khó   cho   tôi   trong   việc   dạy   trẻ.   Trẻ  thường lơ đãng, không tập trung khi nghe cô dạy, tôi phải chú ý nhắc nhở cháu  nhiều lần. Đối với các bài thơ, khi dạy trẻ  tôi thường đọc rất chậm từng câu  ngắn trong bài thơ để trẻ hiểu. Nếu trong bài thơ có những từ khó tôi giảng giải   cho trẻ hiểu và đọc lại nhiều lần, nhấn mạnh để trẻ đọc theo cô. Mỗi ngày tôi  dành 30 phút để dạy riêng cho trẻ đọc thơ, trò chuyện cùng trẻ. Đối với các câu   chuyện, ngoài việc kể cho trẻ nghe cùng các bạn trong lớp, giờ hoạt động chiều   kể cho trẻ nghe nhiều lần, nhấn mạnh tên của các nhân vật trong câu chuyện.  9
  10. Do ngôn ngữ bị hạn chế, trẻ khó nhận ra mối quan hệ giữa các sự  vật và   hiện tượng xung quanh nên khi cho trẻ tìm hiểu về môi trường xung quanh, tôi   cho trẻ quan sát trực tiếp sự vật, hiện tượng đó.  Ví dụ: Cho trẻ  tìm hiểu về  các loại quả: quả  dưa hấu, quả xoài, quả  đu  đủ … dùng quả thật cho trẻ sờ, nếm mùi, vị của quả đó để trẻ phân biệt. Hoặc khi cho trẻ  chơi Hoạt động góc, tôi dắt trẻ  đến nơi các bạn đang   chơi, giải thích cho trẻ hiểu các bạn của mình đang làm gì: "Bạn Thư đang nấu  ăn, Bạn Thông đang xây nhà" hoặc cho trẻ hát, đọc thơ cùng các bạn ở góc nghệ  thuật…Qua đó phát triển ngôn ngữ cho trẻ, giúp trẻ nói rõ ràng hơn.  Khi mới đến lớp cháu vẫn thường hay đái dầm khi ngủ  trưa. Nhiều lần   còn “đi ngoài” ra quần mà không hề  hay biết và cũng không nói với cô. Tôi  thường hay khuyên bảo, nhắc nhở cháu, rèn cho cháu thói quen gọi cô để dắt đi  tiểu trước khi đi ngủ và đi vệ sinh đúng nơi quy định. Ở trường ở lớp, cô nhắc   trẻ  và giúp trẻ  rửa tay bằng xà phòng sau khi đi tiêu tiểu, đánh răng sau khi ăn   xong, giúp trẻ  giữ  gìn vệ  sinh thân thể  sạch sẽ.  Ở  nhà, tôi nhờ  cha mẹ  nhắc  nhở, giúp đỡ trẻ để trẻ có thể tự phục vụ mình.  * Giải pháp 6:  Giáo viên tự  học tập nâng cao trình độ  chuyên môn   nghiệp vụ về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật.                    Bồi dưỡng là hoạt động nhằm bổ  sung, cập nhật kiến thức, kĩ năng  chuyên môn cho đội ngũ giáo dục hòa nhập trẻ  khuyết tật trong trường mầm   non khi mà những kiến thức, kĩ năng được đào tạo trước đây chưa đủ  để  thực  hiên có  hiệu quả  hoạt  động chuyên môn, nghiệp vụ  giáo dục hòa nhập trẻ  khuyết tật trong nhà trường. Nội dung bồi dưỡng giáo dục hòa nhập trẻ khuyết  tật mầm non được thực hiện thông qua sinh hoạt theo chuyên đề  hoặc lồng   ghép với nội dung khác trong sinh hoạt chuyên môn của cơ  sở  giáo dục mầm  non.             Bản thân giáo viên luôn tích cực tham gia các buổi kiến tập huấn về  chuyên môn nghiệp vụ giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong trường mầm non   nhằm trang bị  kiến thức và kỹ  năng nghề  nghiệp chuyên môn thuộc lĩnh vực  giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật mầm non nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng   hiệu quả trong việc giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật mầm non nhằm đảm bảo  nâng cao hiệu quả trong việc giáo dục trẻ  khuyết tật được hòa nhập một cách  hiệu quả nhất.            Bên cạnh việc tham gia học tập, tập huấn tôi cũng luôn tìm hiểu theo dõi  các chương trình giáo dục trẻ  khuyết tật trên tivi, phim  ảnh, các phương tiện  thông tin đại chúng để tìm hiểu và có các biện pháp giáo dục phù hợp nhất. 10
  11.            Hiện nay với khoa học công nghệ ngày càng phát triển, tôi cũng tìm hiểu   trên các trang mạng  điện tử  google, youtobe về  các biện pháp giáo dục trẻ  khuyết tật hòa nhập.            Ngoài quá trình tự học tập bồi dưỡng tôi thường xuyên trao đổi chia sẻ  kinh nghiệm chăm sóc và giáo dục trẻ với bạn bè đồng nghiệp trong trường và  các trường khác trên địa bàn. Bản thân tôi cũng học hỏi và có them nhiều kiến   thức giúp cho việc giáo dục trẻ khuyết tật ngày một có hiệu quả hơn.           * Giải pháp 7: Phối hợp, tuyên truyền với phụ huynh và các tổ  chức   đoàn thể trong trường. Gia đình và nhà trường là cái nôi nuôi dưỡng trẻ  trong những năm tháng  đầu đời. Chính vì vậy việc kết hợp giữa nhà trường và gia đình là một trong   những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ khuyết tật. Hằng ngày   trong những giờ đón và trả trẻ tôi đều dành một thời gian nhất định để  trao đổi  với phụ  huynh về  những chuyển biến của trẻ  và có những đề  xuất cần phụ  huynh phối hợp.  Để  tạo điều kiện giúp trẻ  phát huy tối đa khả  năng của mình, tôi đã in   những bài thơ, câu chuyện, bài hát, vẽ các bức tranh mẫu gửi về cho phụ huynh   để lúc ở nhà, phụ huynh có điều kiện kèm cặp thêm trẻ, dạy trẻ đọc thơ, hát và   tập trẻ tô màu... Đồng thời qua trao đổi với phụ huynh, tôi cũng biết thêm được  một số cá tính của trẻ ở nhà để có hướng rèn luyện, uốn nắn trẻ kịp thời. Gia đình, nhà trường và xã hội luôn có mối quan hệ hữu cơ không thể tách   rời, mọi ảnh hưởng của xã hội đều có tác động rất lớn đến quá trình phát triển  của trẻ. Vì vậy, tôi chủ  động đề  xuất với nhà trường tham mưu với các ban   ngành đoàn thể  cho trẻ  khuyết tật được hưởng một số  chế  độ  chính sách  ưu  tiên như: khám và chữa bệnh miễn phí, tặng quà ngày 1/6, ngày tết trung thu,   tặng quà cho trẻ  có hoàn cảnh khó khăn…để  tạo động lực giúp trẻ  vươn lên   trong cuộc sống và động viên các bậc phụ huynh có trách nhiệm trong việc chăm  sóc ­ giáo dục trẻ khuyết tật.   2.3. Kết quả đạt được Trong quá trình giảng dạy, tiếp xúc với trẻ, bản thân tôi cũng nắm được  đặc điểm tâm sinh lý và khả năng nhận thức của trẻ, từ đó xác định được mục   tiêu cho bài dạy phụ  hợp cho trẻ, lên kế  hoạch giáo dục hợp lý giúp trẻ  phát  triển đồng đều và đạt kết quả cao.              ­ Trẻ đã mạnh dạn, tự tin hòa nhập với bạn bè. ­ Trẻ   biết   đọc   và   hát   thuộc   nhiều   bài   hát,   bài   thơ,   kể   được   nhiều   câu  chuyện.  11
  12. ­Trẻ còn biết thể hiện cảm xúc của mình theo giai điệu bài hát. ­ Trẻ biết đi lên, xuống cầu thang mà không cần sự giúp đỡ của cô giáo. ­ Trẻ biết đi vệ sinh, biết lấy gối để ngủ. ­ Trẻ biết gọi cô, gọi bạn giúp đỡ khi có nhu cầu. Qua sự tiến bộ rõ rệt của cô và trẻ đã tạo được lòng tin cho phụ huynh hơn   khi đưa trẻ đến trường, xóa bỏ được những suy nghĩ ban đầu của việc giáo dục  hòa nhập trẻ khuyết tật  ở trường mầm non, các bậc phụ huynh đã yên tâm hơn  khi đưa con đến trường và thường xuyên hỏi thăm tình hình học tập của trẻ, và   hỏi thăm bài học để phụ huynh về nhà rèn luyện thêm cho trẻ.           3. KẾT LUẬN 3.1 Ý nghĩa            Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật là thành quả của sự phát triển tư tưởng  nhân văn trong giáo dục. Trên cơ  sở  một nhân sinh quan đúng đắn về  người   khuyết tật. Việc nâng cao chất lượng dạy học trong giáo dục hòa nhập trẻ  khuyết tật vừa đáp ứng nhu cầu giúp cho từng trẻ khuyết tật có điều kiện phát  triển tốt vừa tạo được niềm tin và nhận thức đúng đắn trong ngành và ngoài xã  hội về phương thức giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật.  Trường mầm non chính là chiếc nôi giúp trẻ khuyết tật phát triển tiến bộ  hằng ngày, tạo cho trẻ có sự tự tin hòa nhập với cộng đồng, với toàn xã hội. * Đối với giáo viên: Qua quá trình thực hiện, bản thân tôi thu nhận thêm nhiều kiến thức và  kinh nghiệm về  giáo dục hòa nhập trẻ  khuyết tật, khơi dậy tình cảm của mọi   người đối với những trẻ kém may mắn. * Đối với trẻ: Giáo dục cho trẻ kỹ năng sống, lòng nhân ái, tình thương yêu bạn bè giữa   những trẻ bình thường và trẻ bị khuyết tật nhằm phát triển nhân cách cho trẻ. Giúp cho trẻ  khuyết tật mạnh dạn, tự  tin, tạo tâm thế  vui vẻ, thích đến  trường. Phát huy những thế  mạnh của trẻ  khuyết tật và hạn chế  những khiếm   khuyết cho trẻ, giúp trẻ  phát triển đầy đủ  cả  thể  chất và tinh thần, tạo cơ  hội  phát triển toàn diện để sau này trở thành những người con có ích cho gia đình và  cho xã hội. * Đối với phụ huynh: Phụ  huynh có con em bị  khuyết tật đã có nhận thức thức đúng dắn về  việc chăm sóc giáo dục trẻ khuyết tật hoà nhập, từ  đó phụ  huynh đã chủ  động  trong việc phối hợp với giáo viên để  trao đổi tình hình của trẻ, tìm biện pháp  giúp đỡ, hỗ trợ hiệu quả. 12
  13. Phụ  huynh có những hiểu biết cơ  bản trong việc chăm sóc nuôi dưỡng,  tạo điều kiện để  các em học tập, vui chơi, giúp trẻ  phát triển khả  năng nhận  thức, giao tiếp và kỹ năng xã hội 3.2. Kiến nghị, đề xuất.  Để  nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập trẻ  khuyết tật  ở  các trường   mầm non nói chung và trường mầm non nơi tôi giảng dạy nói riêng. Tôi xin  mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập trẻ  khuyết tật. Cụ thể như sau: ­ Phòng giáo dục và đào tạo cần hỗ trợ phương tiện, thiết bị dạy học phù  hợp với các loại tật dành cho trẻ khuyết tật học hòa nhập ở các trường. ­ Mở  các lớp tập huấn về  giáo dục hòa nhập cho cán bộ, giáo viên và   cộng đồng ­ Tổ chức giao lưu học hỏi kinh nghiệm của các đơn vị điển hình để làm  tốt công tác giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật.           ­ Lớp học cần có tỉ lệ học sinh hợp lý. Khi nhận 1­ 2 trẻ khuyết tật, sĩ số  lớp cần được giảm 3 ­ 5 trẻ để  giáo viên có điều kiện giảng dạy và chăm sóc  trẻ Trên đây là một số kinh nghiệm giáo dục hòa nhập trẻ  khuyết tật mà tôi  đã rút ra được trong quá trình giảng dạy. Trong quá trình viết vẫn còn những   thiếu sót nhất định, tôi rất mong được sự  góp ý xây dựng của các bạn đồng   nghiệp, các cấp lãnh đạo giúp tôi ngày càng có nhiều kinh nghiệm hay trong quá  trình giảng dạy.     Tôi xin chân thành cảm ơn! 13
  14. 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2