intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nhằm giúp trẻ 5 - 6 tuổi làm quen Di sản văn hóa địa phương đạt hiệu quả cao

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:17

118
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non "Một số biện pháp nhằm giúp trẻ 5 - 6 tuổi làm quen Di sản văn hóa địa phương đạt hiệu quả cao" nhằm giúp trẻ biết được tầm quan trọng về Di sản văn hóa của địa phương, hun đúc cho trẻ có tâm hồn dân tộc, giáo dục trẻ biết yêu quý bảo tồn các Di sản văn hóa, không ai khác người lớn chúng ta cần giáo dục Di sản văn hóa cho trẻ càng sớm càng tốt.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số biện pháp nhằm giúp trẻ 5 - 6 tuổi làm quen Di sản văn hóa địa phương đạt hiệu quả cao

  1. . CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: “MỘT SỐ  BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ MẪU GIÁO 5­6  TUỔI LÀM QUEN MỘT SỐ DI SẢN VĂN HÓA CỦA ĐỊA  PHƯƠNG ĐẠT HIỆU QUẢ CAO” Quang Binh, tháng 5 năm 2016 ̉ ̀ 1
  2.   CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: “MỘT SỐ  BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ MẪU GIÁO 5­6  TUỔI LÀM QUEN MỘT SỐ DI SẢN VĂN HÓA CỦA ĐỊA  PHƯƠNG ĐẠT HIỆU QUẢ CAO” Họ và tên: Nguyễn Thị Hoàn Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Mầm non An Thủy Quang Binh, tháng 5 năm 2016 ̉ ̀ 2
  3. ĐỀ TÀI: “MỘT SỐ  BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ MẪU GIÁO 5 ­ 6 TUỔI LÀM QUEN   MỘT SỐ DI SẢN VĂN HÓA CỦA ĐỊA PHƯƠNG ĐẠT HIỆU QUẢ CAO”             1. Phần mỡ đầu:            1.1. lý do chọn đề tài:  Như chúng ta đã biết, công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, đòi hỏi giáo  dục cơ  sở  phải  đào tạo những con người phát triển toàn diện, phục vụ  sự  nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mỗi hoạt động  ở  nhà trường với đặc  trưng của mình đều phải góp phần đào tạo thế  hệ  mầm non tương lai.   Trong  đó, hoạt động cho trẻ làm quen “Di sản văn hóa” góp phần không nhỏ đến nền  giáo dục Nước nhà. Hiện nay Luật di sản tập trung chú trọng tới đối tượng  thanh   thiếu   niên   với   khẩu   hiệu   “  Di   sản   nằm   trong   tay   thế   hệ   trẻ”   của  UNESCO nhấn mạnh tới   “một chương trình thông tin đại cương” cho mọi  người bắt đầu từ trẻ em ở tuổi đến trường tức là phải tập trung đầu tư  từ  bậc   học mầm non .  Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình  cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố  đầu tiên của nhân cách, chuẩn   bị cho trẻ  em vào lớp một; hình thành và phát triển  ở  trẻ những chức năng tâm  sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết  phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt  nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời. Đối với giáo dục mẫu giáo, phương pháp giáo dục phải tạo điều kiện cho  trẻ được trải nghiệm, tìm tòi, khám phá môi trường xung quanh dưới nhiều hình  thức đa dạng, đáp  ứng nhu cầu, hứng thú của trẻ  theo phương châm “chơi mà  học, học bằng chơi”. Chú trọng đổi mới tổ  chức môi trường giáo dục nhằm   kích thích và tạo cơ  hội cho trẻ  tích cực khám phá, hoạt động và sáng tạo phù   hợp với độ tuổi của nhóm /lớp, với khả năng của từng trẻ, với nhu cầu và hứng   thú của trẻ và với điều kiện thực tế.  Với phong trào xây dựng “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích  cực”, một trong những hoạt động được đặt ra là tổ chức cho học sinh tham quan  Di sản văn hóa   của địa phương. Việc làm quen các Di sản văn hóa của địa  phương, khai thác các Di sản văn hóa  là nguồn tri thức, là phương tiện dạy học,   giáo dục tích cực đối với trẻ, góp phần hoàn thiện những giá trị cao đẹp về chân  ­ thiện ­ mỹ, giúp trẻ có cái nhìn đúng đắn hơn về những giá trị văn hóa dâ n tộc,  hình thành và nâng cao ý thức trân trọng, giữ gìn và bảo vệ các tài sản cha ông ta  để  lại. Điều đáng mừng  Lệ  Thủy ­ Quảng Bình là vùng đất lưu giữ  rất nhiều   điều thiên về  lịch sử. Âm hưởng lịch sử  này nhuộm đầy các góc quê, những  mảnh đất, con sông, những nếp nhà và cả  phong cách sống rất bình dị  của con   người. Giữ  gìn, bảo tồn, phục dựng, tôn tạo và phát huy giá trị  Khu di tích lịch   3
  4. sử là góp phần lưu giữ một di sản văn hóa quý báu của dân tộc, bảo tồn một di   tích văn hóa có giá trị to lớn vật thể và phi vật thể của mảnh đất "Địa linh, nhân  kiệt" Lệ  Thủy. Di tích lịch sử  còn là địa chỉ  đỏ  chứng minh bao thế  hệ  những   người con Lệ  Thủy ­ Quảng Bình tìm về  để  tưởng nhớ, nhắc nhở  động viên   nhau phát huy truyền thống cách mạng, quyết tâm xây dựng quê hương ngày   càng giàu đẹp. Vì vậy việc cho trẻ làm quen Di sản văn hóa của quê hương Lệ  Thủy là một hoạt động vừa mang tính khoa học sâu sắc, vừa mang tính thực tiễn  sinh động, đồng thời vừa là lĩnh vực hoạt động mang tính xã hội cao... Để giúp trẻ biết được tầm quan trọng về Di sản văn hóa của địa phương,   hun đúc cho trẻ  có tâm hồn dân tộc, giáo dục trẻ  biết yêu quý bảo tồn các Di  sản văn hóa, không ai khác người lớn chúng ta cần giáo dục Di sản văn hóa  cho  trẻ càng sớm càng tốt.  Song trong thực tế các hoạt động làm quen Di sản văn hóa của địa phương  cho trẻ  5­ 6 tuổi hầu như chưa được chú trọng, chỉ  diễn ra theo kiểu giáo viên  truyền đạt cho trẻ  nghe chứ  trẻ  chưa thực sự  được tự  mình nhìn thấy, được  khám phá.  Xuất phát từ những vấn đề  trên, với lòng yêu nghề, mến trẻ đã thôi  thúc bản thân tôi ,trăn trở  nghiên cứu, tìm ra một số  giải pháp nhằm nâng cao  chất lượng giáo dục cho trẻ đạt kết quả cao. Đó là lí do tôi chọn đề tài  “Một số   biện pháp nhằm giúp trẻ  5 ­ 6 tuổi làm quen Di sản văn hóa địa phương đạt   hiệu quả cao”. 1.2. Phạm vi áp dụng đề tài: Hiện nay, cho trẻ  làm quen Di sản văn hóa địa phương là một vấn đề  quan trọng, cần thiết có ý nghĩa khoa học, được Bộ  giáo dục và Đào tạo, Bộ  Văn hóa, Thể Thao và Du Lịch hết sức quan tâm, đẩy mạnh, đặc biệt quan trọng  dành cho nghành học Mầm non. Với lý do trên tôi đã mạnh dạn áp dụng đề tài: “Một số biện pháp nhằm   nâng cao chất lượng giáo dục Di sản văn hóa của địa phương cho trẻ 5 ­ 6 tuổi   ở trường mầm non ” tại trường tôi đang công tác và lớp tôi đang dạy. Hệ  thống các giải pháp tôi đưa ra sau đây nó mang tính thực thi cao, phù  hợp với điều kiện cơ  sở  vật chất, đặc thù vùng miền, phù hợp với đặc điểm  tâm sinh lý của trẻ 5­ 6 tuổi, phù hợp với nội dung chương trình chăm sóc giáo   dục trẻ trong giai đoạn hiện nay. 2. Phần nội dung 2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu. Hiện nay yêu cầu đặt ra là phải đổi mới giáo dục, trong đó có đổi mới  mục tiêu giáo dục, đổi mới nội dung giáo dục và phương pháp dạy và học.“  Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự  giác, chủ  động, tư  duy  sáng tạo của người học; Bồi dưỡng cho người học chính năng lực tự  học, khả  năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Phát huy tính tích cực,   chủ  động sáng tạo của trẻ  có nghĩa là phải thay đổi cách dạy và cách học.   4
  5. Chuyển cách dạy thụ động, truyền thụ một chiều, giáo viên làm trung tâm sang   cách dạy lấy trẻ làm trung tâm hay còn được gọi là dạy và học tích cực. Trong   cách dạy này trẻ  là chủ  thể  hoạt động, giáo viên là người thiết kế, tổ  chức,  hướng dẫn, tạo nên sự tương tác tích cực giữa giáo viên và trẻ . Trong những năm qua việc dạy trẻ mẫu giáo 5­6 tuổi làm quen Di sản văn  hóa địa phương hầu như chưa được chú trọng nên chưa phát huy được lòng ham  mê, sự  tự  tin, sáng tạo của trẻ, cã phÇn ¶nh hëng ®Õn viÖc ch¨m sãc gi¸o dôc trÎ . Với yªu cÇu dạy học “Lấy trẻ làm trung tâm” thì việc cho trẻ làm quen Di tích  văn hóa của địa phương là việc làm hết sức cần thiết và quan trọng của mỗi   một giáo viên mầm non nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ  phù   hợp với tình hình hiện nay.  Nhằm giúp trẻ phát triển về mọi mặt: Đức ­Trí ­ Thể ­ Mỹ ­ Lao động thì   việc cho trẻ làm quen Di sản văn hóa của địa phương là việc làm hết sức quan   trọng và cần thiết. Trong thời gian nghiên cứu thực hiện đề tài thì bản thân còn  gặp một số thuận lợi và khó khăn sau: 2.1.1. Thuận lợi: .          Bản thân nhận được sự  quan tâm giúp đỡ, chỉ  đạo sâu sát của ban giám   hiệu nhà trường để tôi thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, được nhà trường đầu   tư về cơ sở vật chất tạo điều kiện cho tôi tích cực tham gia vào các lớp học đào   tạo nên trình độ  chuyên môn được nâng cao. Thực tế ở địa phương có nhiều di  sản được xếp hạng cấp quốc gia. Trong đó di sản văn hóa phi vật thể bao gồm:  Lễ hội bơi đua thuyền truyền thống trên sông Kiến Giang, Hò khoan Lệ  Thủy.  Di sản có vật thể  bao gồm: Chùa An Xá, chùa Hoằng Phúc…hay Nhà truyền  thống huyện Lệ Thủy, thuận lợi cho việc làm quen với di sản. Sự phát triển của khoa học kĩ thuật, phương tiện thông tin đại chúng giúp   giáo viên dễ  dàng tìm kiếm nguồn tư  liệu phong phú và quý giá có nhiều hình   ảnh sống động, nhiều câu chuyện để đưa vào dạy học.          Một số phụ huynh có ý thức trách nhiệm, quan tâm đến việc học tập của   con em mình, phối hợp thường xuyên với giáo viên. Bản thân luôn được chị em đồng nghiệp quan tâm, giúp đỡ . Nhiều năm dạy trẻ  5­6 tuổi nên phần nào hiểu được đặc điểm tâm sinh   lý, khả năng tiếp thu kiến thức của trẻ ở lứa tuổi này. 2.1.2. Khó khăn:  Lớp nằm ở khu vực lẽ, điều kiện cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế, đặc   biệt là trang thiết bị, đồ dùng phục vụ cho trẻ làm quen Di sản hầu như chưa có,  quá ít , thiếu thẫm mỹ không đáp ứng theo nhu cầu hoạt động cho cô và trẻ. Trình độ  nhận thức, tiếp thu kiến thức, kỹ năng của trẻ còn hạn chế, lại  không đồng đều.  5
  6. Đa số trẻ là con nông dân, tuy phụ huynh quan tâm đến việc học của trẻ  nhưng việc giáo dục Di sản văn hóa địa phương cho trẻ ít được phụ huynh quan  tâm. Tranh ảnh, pa nô, về công tác tuyên truyền về Di sản chưa có. Nhận thức  của  giáo  viên về   việc  giáo dục  Di sản  cho  trẻ   còn  chung  chung, theo kiểu giáo viên nói cho trẻ nghe, chưa thực sự lấy trẻ làm trung tâm. Công tác tổ  chức cho trẻ tham quan di sản còn gặp nhiều khó khăn phức  tạp. Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng với sự quyết tâm của bản thân, tôi đã  không ngừng tìm kiếm, học hỏi, sáng tạo ra những phương pháp nhằm giúp trẻ  làm quen một số  Di sản  ở  quê hương. Mong rằng những việc làm của tôi sẽ  mang lại kết quả thiết thực cho trẻ. Nhằm đáp ứng nhu cầu giáo dục Di sản văn   hóa quê hương cho trẻ trong giai đoạn hiện nay. Đó là lý do tại sao tôi chọn đề  tàì  “Một số  biện pháp nhằm giúp trẻ  5­6 tuổi làm quen Di sản văn hóa địa   phương đạt hiệu quả cao ”.          * Khảo sát thực trạng. Để lựa chọn được hệ thống giải pháp có hiệu quả, ngay đầu năm học tôi  tiến hành khảo sát khả năng nhận thức của trẻ, kết quả như sau:  Số trẻ biết  Ti lê ̉ ̣  Nội dung được (%) Trẻ kể tên một số Di sản văn hóa của quê hương 5/21 23,8 Trẻ thích thú tham gia các hoạt động 8/21 38,1 Trẻ nhanh nhẹn sáng tạo trong các hoạt động 2/21 0,95 Trẻ có hành vi thái độ tốt với Di sản văn hóa của  5/21 23,8 địa phương Qua kết quả  trên, bản thân tôi nhận thấy chất lượng trên trẻ  của lớp tôi   còn quá thấp so với yêu cầu của một trường đóng trên địa bàn khá thuận lợi.  Điều đó làm tôi luôn trăn trở và rút ra  những nguyên nhân sau: Do hiện nay cuộc sống quá hiện đại, trẻ tham gia vào nhiều trò chơi mới  lạ nên việc tiếp xúc với Di sản rất ít.  Đa số  trẻ  trong lớp trình độ  nhận thức, tiếp thu kiến thức, kỹ  năng của  trẻ còn hạn chế, lại không đồng đều.  Giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục Di sản văn hóa cho trẻ  ,việc tổ chức dạy trẻ tại di sản và cho trẻ  tham quan các di sản chưa hề được  thực hiện. Lớp nằm ở khu vực lẽ điều kiện trang thiết bị còn nhiều hạn chế 6
  7. Đa số trẻ là con nông dân nên việc giáo dục Di sản văn hóa ít được quan  tâm chú ý.           Công tác phối hợp, tuyên truyền về Di sản văn hóa chưa cao. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, song với lòng yêu nghề mến trẻ tôi đã tìm tòi  một số biện pháp tối ưu, thu hút lôi cuốn trẻ tham gia vào các hoạt động Di sản  văn hóa một cách tích cực và có hiệu quả. 2.2. Các giải pháp: Giải pháp 1: Sưu tầm tìm hiểu nội dung, kiến thức về một số Di sản   văn hóa ở địa phương phù hợp với chủ đề giáo dục cho trẻ mầm non. Để  giúp trẻ  làm quen các Di sản văn hóa đạt hiệu quả cao đòi hỏi trước   hết  người giáo viên phải tìm hiểu, nắm bắt, hiểu sâu, rộng về nội dung và kiến  thức  các Di sản cần truyền thụ cho trẻ. Vì vậy việc đầu tiên tôi làm là tìm hiểu qua mạng, qua những cán bộ lão  thành cách mạng, cán bộ  quản lý di sản để  nhờ  họ  giúp đỡ  tìm hiểu sâu hơn  những những kiến thức về  sự  hình thành, tồn tại của các di sản.   Tiếp đó, tôi  tiến hành khảo sát thực địa, tìm hiểu kỹ lưỡng các đặc điểm về vị trí địa lí, địa   hình địa vật tự nhiên, các hiện vật, chứng tích… để bản thân lựa chọn nội dung   phù hợp đưa vào chương trình. Bên cạnh đó tôi sưu tầm tìm kiếm thêm đồ dùng  trực quan, vì đồ dùng trực quan là một minh họa sinh động để giúp trẻ chú ý và  tiếp thu một cách nhanh chống nội dung vấn đề cô cần truyền đạt cho trẻ. Nếu  trong các hoạt động lễ  hội, cô không sử  dụng đồ  dùng trực quan thì sẽ  không   thu hút được sự  chú ý của trẻ và trẻ  chóng chán, khiến chất lượng dạy và học   không cao. Chính vì vậy khi tìm hiểu và sưu tầm kiến thức, đồ dùng, đạo cụ lễ  hội phải đảm bảo được những tính sau:         Lựa chọn các hoạt động làm quen di sản phải vừa sức với trẻ.           Đảm bảo tính sư  phạm, hấp dẫn, kích thích trí tò mò của trẻ, trẻ  có thể  thao tác dễ dàng, thuận tiện.         Ví dụ: Khi trẻ tham gia vào trò chơi đua thuyền thì cho trẻ sử dụng các loại  chầm, chèo nhỏ  vừa tầm với trẻ. Quần áo trang phục cũng phải phù hợp với  trang phục lễ  hội, không vướng víu mà phải vừa vặn với trẻ  màu sắc hài hòa   đẹp mắt ….qua quá trình tham gia hoat động trẻ cảm thấy mình như những trai   bơi, gái đua thực sự  trong ngày lễ  hội, trẻ  thêm thấy tự  hào và yêu quý truyền  thống lễ hội của địa phương mình. Giải pháp 2: Lập kế hoạch cho trẻ làm quen các hoạt động Di sản văn   hóa của địa phương.. Dựa vào tình hình của lớp: Lớp có đủ diện tích phòng học rộng rãi, thoáng   mát, có đủ  đồ  dùng để  cho trẻ  hoạt động trải nghiệm. Khuôn viên rộng, đảm  bảo cho trẻ thực hành các hoạt động với di sản. 7
  8. Căn cứ  vào đặc điểm tâm sinh lý, khả  năng nhận thức và tiếp thu kiến  thức của trẻ mẫu giáo 5­ 6 tuổi. Khả năng vận dụng những kinh nghiệm của trẻ  trong quá trình hoạt động với di sản, sự trải nghiệm, linh hoạt, sáng tạo, khám   phá của trẻ. Trên cơ sở kế hoạch năm, tháng của nhà trường, tôi đã  mạnh dạn   đề  xuất với nhà trường và tổ  chuyên môn lựa chọn những di sản văn hóa phù  hợp nhận thức của trẻ để xây dựng kế hoạch năm, tháng phù hợp với nhóm lớp  mình phụ trách. Được sự đồng ý phê duyệt của ban giám hiệu nhà trường, và tổ  chuyên môn,  tôi phân công nội dung, phần hành công việc cho giáo viên cùng   lớp và triển khai cụ  thể  kế  hoạch trong từng chủ  đề, chủ  điểm, kết thúc chủ  đề, chủ điểm tôi đánh giá lại những việc làm được và chưa làm được, từ đó rút  kinh nghiệm cho chủ đề sau.   * VD: Kế hoạch tổ chức các hoạt động làm quen di sản văn hóa: KẾ HOẠCH GIÁO DỤC DI SẢN VĂN HÓA CHO TRẺ CHỦ ĐỀ: QUÊ HƯƠNG­ ĐẤT NƯỚC­ BÁC HỒ NĂM HỌC : 2015­2016 Thời  Tháng / Tuần/  Mục tiêu giáo dục  Nội  Thời điểm  gian Chủ đề Chủ  phát triển vận  dung thực hiện đề  động cần đạt nhánh 3 tuần Quê  ­ Trẻ biết lễ hội đua  ­ Tìm  ­ Hoạt động  Từ  8/4­  hương thuyền là lễ hội  hiểu lễ  học 26/5/2016 truyền thống của  hội đua  ­ Hoạt động  quê hương Lệ Thủy. thuyền  vui chơi  ­ Trẻ biết được một  truyền  ngoài trời số đặc điểm nổi bật  thống  ̣ ̣ ­ Hoat đông  của lễ hội đua  của quê  ở moi luc,  ̣ ́ thuyền truyền thống. hương  ̣ ơi moi n ­ Rèn cho trẻ óc quan  Lệ Thủy sát, ghi nhớ có chủ  định. ­Rèn sự khéo léo  kiên trì nhanh nhẹn  khi tham gia trò chơi. ­ Giáo dục trẻ biết  đoàn kết, tự hào, gìn  giữ phát huy lễ hội  đua thuyền truyền  thống của quê  8
  9. Đất  hương. ­ Làm  ­ Hoạt động  nước quen  học một số  ­ Hoạt động  di sản  vui chơi  văn hóa  ngoài trời. trên đất  ̣ ̣ ­ Hoat đông  nước  ở moi luc,  ̣ ́ Việt  ̣ ơi moi n Nam. Bác Hồ ­ Bác Hồ  ­ Hoạt động  với   các  học cháu  ­ Hoạt động  thiếu  vui   chơi  niên   nhi  ngoài trời. đồng.  ̣   ­ Hoat đông̣   ở   moị   luc, ́  ̣ ơi moi n Giải pháp 3: Tiến hành xây dựng góc Di sản văn hóa của bé :           Tôi thiết nghĩ, tổ chức góc di sản văn hóa địa phương sẽ giúp trẻ đễ dàng  tiếp xúc, thường xuyên tếp xúc, được trực tiếp trãi nghiệm hóa thân, vào những   nhân vật trong lễ hội … Điều đó sẽ khắc sâu trong trẻ những hình tượng về con   người , phong tục, tập quán của thôn xóm làng xã, quê hương mình. Giúp trẻ  sớm có ý thức cùng cô giáo, người thân sưu tầm tìm kiếm tư  liệu, tranh  ảnh   ….để tạo cho góc di sản của bé thêm phong phú, sinh động. Qua đó trẻ biết yêu   quý, giữ gìn sản phẩm mình làm ra, biết tự hào, phát huy truyền thống của quê  hương.            Vì vậy tôi đã tiến hành xây dựng góc di sản, để  thuận  tiện  cho trẻ sử  dụng  và tuyên truyền đến cả  các bậc phụ  huynh, tôi chọn vị  trí bên cạnh cửa   lớp. Tôi sắp xếp các  đồ dung, d ̀ ụng cụ để cho trẻ dễ lấy, dễ sử dụng đê tr ̉ ẻ có  thể tự lấy đồ dùng đồ chơi phù hợp với hoạt động mà giáo viên yêu cầu. Tham   mưu với nhà trường trang bị  thêm đồ  dùng, trang phục, đạo cụ  cho các lễ  hội.   Bên cạnh đó tôi con lam thêm nhiêu đô dung khac đê phuc vu cho cac hoat đông ̀ ̀ ̀ ̀ ̀ ́ ̉ ̣ ̣ ́ ̣ ̣   ̉ ̉ cua tre, thu hut h́ ưng thu cua tre nh ́ ́ ̉ ̉ ư: cơ, đích, hoa, m ̀ ủ, trang phục, xé dán, bồi  đắp các mô hình…. Ngoài ra khi xây dựng góc lễ hội trẻ có thể tự tham gia  hoạt động khi trẻ  được bố mẹ đón và cho chơi ở sân trường, trẻ có thể rủ bạn cùng thao tác hoạt   động đã học cho bố mẹ xem. Khi xây dựng góc di sản tôi nhận thấy trẻ lớp tôi  tiến bộ  nhiều hơn, trẻ tham gia hoạt động tự  nhiên và tích cực hơn, đồng thời   9
  10. phụ  huynh lớp tôi thấy được rõ hơn tầm quan trọng của giáo dục di sản văn   hóa, họ quan tâm hơn đến việc giáo dục di sản cho con mình. Giải pháp 4: Tổ chức tốt giờ học tìm  hiểu về Di sản tại lớp:  *Chuẩn bị:            Khai thác, sử dụng tài liệu về di sản để tiến hành bài học về di sản đóng   vai trò là một nguồn kiến thức góp phần bổ  sung, cụ  thể  hoá, làm phong phú  hơn nội dung bài học, nó làm cho những kiến thức trong bài học không chỉ  đơn  thuần là con số, các sự  kiện khô khan mà sinh động hơn, có hồn hơn, giúp cho  học sinh tái hiện được kiến thức và hiểu bài nhanh, nhớ  lâu hơn. Vì vậy giáo  viên phải tiến hành chọn lọc kỹ và xác minh tính chân thực của các tài liệu về di   sản. Chọn lọc những tài liệu điển hình nhất, sắp xếp các tài liệu đó thành hệ  thống phù hợp với tiến trình bài học kết hợp với các phương tiện trực quan, làm   cho bài học sinh động hơn. Đồng thời, tuỳ theo mục đích, nội dung bài học mà  giáo viên khai thác những tài liệu khác nhau. Tiếp theo chuẩn bị  giáo án, địa   điểm hoạt động… Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen di sản về Chùa An Xá giáo viên trực tiếp đến  chùa tìm hiểu gặp gỡ trao đổi với cán bộ quản lý di sản trao đổi với họ nhờ họ  giúp đỡ để sưu tầm tranh ảnh tư liệu về di sản, hoặc có thể chụp ảnh về di  sản.  *Ổn định và gây hứng thú:            Để lôi cuốn và giới thiệu bài học cho trẻ  giáo viên phải sử  dụng nhiều   thủ thuật hấp dẫn như bài hát,ca dao, câu đố... phù hợp với nội dung bài học để  dẫn dắt trẻ vào bài. Ví dụ: Khi cho trẻ  làm quen lễ  hội đua thuyền truyền thống trên sông   Kiến Giang giáo viên có thể dùng câu ca dao:  “Dù ai đi ngược về xuôi                                                          Mồng hai tháng chín cũng mong về nhà                                                          Về nhà xem hội quê ta                                                          Dưới sông bơi trải, nhà nhà cờ bay”.            Giáo viên đọc cho trẻ nghe và hỏi trẻ câu ca dao nói về điều gi? Giáo viên  và trẻ cùng trò chuyện sau đó giáo viên giới thiệu bài học cho trẻ làm quen. *Quan sát ­ đàm thoại tranh, vật thật…             Quan sát đàm thoại giúp trẻ  hiểu kĩ, hiểu sâu sự  vật hiện tượng xung   quanh, phát triển tư duy ngôn ngữ, giúp trẻ  hình dung được những sự  vật hiện  tượng mà trẻ  không có điều kiện tiếp xúc trực tiếp. Khai thác được vốn hiểu   biết của trẻ  trong cuộc sống từ đó làm chính xác hóa những kiến thức còn mơ  hồ  trong cuộc sống vốn có của trẻ. Vì vậy giáo viên phải xây dựng câu hỏi   ngắn gọn dễ hiểu phù hợp  lứa tuổi. Hệ thống câu hỏi gồm nhiều cấp độ khác  nhau, nhằm phát huy tích cực của trẻ, tránh sử dụng câu hỏi “có” hoặc “không”,   đúng hoặc “sai”. 10
  11.          Ví dụ: Khi tiến hành cho trẻ quan sát đàm thoại về Chùa Hoằng Phúc. Giáo  viên hỏi trẻ:  ­ Cô có bức tranh gì?               ­ Con có nhận xét gì về bức tranh?             ­Trong bức tranh có những ai?               ­ Mọi người đang làm gi?  Giáo viên cần phải chuẩn bị các loại câu hỏi khác nhau như:  Câu hỏi kích thích trẻ  nhận thức sâu về  sự  vật, hiện tượng và nêu cảm  xúc của bản thân. Ví dụ:  Con thấy mọi người đi viếng chùa như thế nào?  Câu hỏi kích thích trẻ giải thích, phỏng đoán, suy đoán diễn biến kết quả  các sự vật hiện tượng xung quanh.  Ví dụ: ­ Chùa An Xá khác với chùa Hoằng Phúc ở điểm nào ?               ­ Làm sao cháu biết được điều đó? Câu hỏi khuyến khích trẻ giải thích ý kiến, đánh giá sự vật hiện tượng.          Ví dụ: Mọi người đi lễ chùa để làm gì?                Vì sao cháu thích đi lễ chùa?         Khi quan sát đàm thoại giáo viên chú ý khuyến khích động viên trẻ  đúng  lúc, kịp thời. Tránh để  trẻ  mất tự  tin khi trẻ trả  lời chưa đúng giáo viên có thể  dùng câu nói nhẹ nhàng (con nhìn lại xem nào? Nghe lại xem nào? …).  Với những trẻ nhút nhát cô sử dụng câu hỏi dễ hơn, hoặc yêu cầu trẻ nhắc lại   câu hỏi của bạn để giúp trẻ tự tin, mạnh dạn hơn. Tạo cơ hội cho trẻ đặt câu hỏi với giáo viên, với bạn.          Ví dụ: Thưa cô vì sao lại có lễ chùa? Chùa Hoằng Phúc nằm ở ? Bạn đã đi lễ chùa chưa? Bạn đi cùng với ai? Sau khi cho trẻ quan sát đàm thoại xong giáo viên cần chốt lại và mỡ rộng   thêm một số đồ dùng trực quan khác có liên quan đến nội dung đàm thoại.         Ví dụ: Sau khi cho trẻ quan sát đàm thoại về chùa Hoằng Phúc xong cô cho   trẻ kể tên và xem tranh một số di sản văn hóa khác như: Chùa An Xá… *GD: Biết yêu quý các di sản, khi đi thăm quan phải nghe lời bố  mẹ, cô  giáo, bảo tồn các di sản không vứt rác bừa bãi, bỏ rác vào thùng rác để cho môi   trường của khu di sản luôn sạch sẽ. *Tổ chức trò chơi: Sau khi cho trẻ quan sát đàm thoại xong giáo viên tổ  chức trò chơi nhằm   cũng cố kiến thức đồng thời lôi cuốn sự  hứng thú của trẻ  vào hoạt động. Giáo  viên chú ý lựa chọn trò chơi động tĩnh để tạo sự cân bằng hoạt động cho cô và  trẻ. Trò chơi phải phù hợp nội dung bài học và vùa sức với trẻ kích thích tính tò  mò, sáng tạo của trẻ.        Ví dụ: Sau khi cho trẻ quan sát đàm thoại về chùa Hoằng Phúc giáo viên tổ  chức trò chơi “Tranh gì biến mất, tranh gì xuất hiện”, tiếp theo cho trẻ chơi trò  chơi “Ghép tranh về di sản”  đội nào ghép nhanh, ghép đúng thì thắng cuộc. Sau  11
  12. mỗi lần chơi giáo viên cho trẻ kiểm tra , nhận xét và đưa ra kết luận. Giáo viên  chú ý động viên khen trẻ kịp thời sau mỗi lần chơi. * Cũng cố bài học:            Giáo viên dùng câu hỏi hoặc câu đố để cho trẻ nhắc lại tên bài vừa học và  một số nội dung cần khắc sâu cho trẻ. Ví dụ : Giáo viên hỏi trẻ: Cô vừa cho lớp mình làm quen với hoạt động gì  nào?  Để các khu di sản luôn luôn sạch đẹp các con phải làm gi? * Nhận xét tiết học:           Giáo viên có thể nhận xét ngay trong tiết học hoặc cuối tiết học, trong tiết   học khen chê trẻ kịp thời. Cuối tiết học chủ yếu động viên, khen trẻ là chính.  Giải pháp 5. Tổ chức tham quan, cho trẻ làm quen tại một số di sản.            Hướng tới mục tiêu “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” đưa môi  trường học tập trong nhà trường gắn với thực tế.   Tổ  chức thăm quan học tập  tại nơi có di sản với hình thức này, nội dung chủ  yếu của buổi tham quan là   nhằm củng cố kiến thức đã học hoặc chuẩn bị cho việc học bài mới. Đây là dịp   để học sinh có điều kiện trực tiếp quan sát, tìm hiểu các tài liệu, hiện vật liên  quan đến bài học, cụ  thể  hoá kiến thức và tạo những biểu tượng chân thực,   chính xác. Do đó, trong buổi tham quan, giáo viên cần tập trung vào những tài  liệu, hiện vật có liên quan đến chương trình đã học (hoặc sẽ học). Để đạt được  kết quả tốt, giáo viên nên kết hợp với cán bộ hướng dẫ ở nơi có di sản để việc  trình bày, bổ sung kiến thức phù hợp với yêu cầu và trình độ nhận thức của học   sinh, trên cơ sở đó, gợi ý, dẫn dắt học sinh nắm vững những vấn đề quan trọng.   Giờ học tại di sản có ý nghĩa rất lớn đối với học sinh về cả ba mặt kiến thức:   tư  tưởng, tình cảm và kỹ  năng. Bởi vì thực địa ­ nơi có di sản là trẻ  được mắt   thấy, tai nghe, được tiếp xúc trực tiếp với sự  vật hiện tượng, phát triển trí  tưởng tượng, đa dạng hoá hoạt động nhận thức, gây hứng thú học tập cho trẻ.  Tiến hành học tại thực địa là phương thức thực hiện dạy học gắn với đời sống,   nâng cao hiểu biết về kiến thức, về văn hoá, giáo dục, lòng yêu quê hương, đất  nước, tính thẩm mĩ cho trẻ. Bài học tại di sản cũng phải tuân thủ  đầy đủ  các   yêu cầu của một bài học tại lớp. Để tiến hành bài học tại thực địa cần bảo đảm  một số yêu cầu sau:  *Công tác chuẩn bị:            Tiến hành bài học tại thực địa là một hình thức tổ chức dạy học bên ngoài   lớp học, quá trình dạy học liên quan đến nhiều yếu tố, điều kiện khác nhau nên   phải được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng cả đối với giáo viên và trẻ. Một là, chọn   địa điểm phù hợp với mục tiêu, nội dung, bài học và điều kiện tiến hành. Ở địa  phương không có di sản thì giáo viên chọn di sản  ở vùng lân cận để  tiến hành  bài học tại di sản.           Ví dụ: Lớp tôi gần với chùa An Xá nên tôi chọn chùa An Xá cho trẻ  làm   quen để thuận tiện cho việc đi lại. 12
  13.           Hai là, phải lập kế hoạch cụ thể về công tác chuẩn bị  và tiến hành bài   học, đi khảo sát thực địa, liên hệ với các cơ quan quản lý di sản. Sau khi đã lựa  chọn được vấn đề dạy học và di sản phù hợp, giáo viên phải xây dựng được kế  hoạch chuẩn bị và tiến hành bài học tại nơi có di sản một cách chi tiết cho từng   nội dung công việc, thời gian thực hiện, lực lượng phối hợp, phương ti ện thi ết   bị  hỗ  trợ. Kế  hoạch tiến hành bài học tại di sản phải báo cáo với tổ  chuyên   môn, lãnh đạo nhà trường để  được duyệt thực hiện và có kế  hoạch hỗ  trợ.   Ngoài ra, khi làm việc với các cơ  quan quản lý di sản, giáo viên cần chú ý khai   thác, tìm hiểu các nguồn tài liệu về di sản và các nội dung bài học có liên quan  đến di sản bao gồm tài liệu hiện vật gốc, sa bàn, mô hình phục chế, phim ảnh,   các công trình nghiên cứu, bài viết chuyên đề. Đây sẽ  là nguồn tài liệu về  địa   phương phong phú, có giá trị  để  giáo viên bổ  sung vào bài giảng hoặc thiết kế  bài giảng về địa phương.           Ba là, giáo viên phải chuẩn bị trước cho học sinh về tư tưởng và kiến thức  chuyên môn như  nêu mục đích, yêu cầu của bài học và nội dung kiến thức cơ  bản cần tìm hiểu trước ở nhà, thông báo sơ qua về địa điểm có di sản, sự kiện,  nội dung kiến thức liên quan đến di sản, Ngoài ra, giáo viên còn phải nhắc nhở  học sinh về việc đảm bảo phương tiện đi lại, an toàn giao thông , giữ  trật trật  tự ở khu di sản.          Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen nhà Truyền thống văn hóa huyện Lệ Thủy vào   buổi sáng, cô giáo cần thông báo cho trẻ  biết sáng mai cô sẽ  cho lớp mình làm  quen với Nhà Truyền thống văn hóa Huyện, ở đó được trưng bày rất nhiều hiện   vật, mô hình …về các di sản văn hóa của huyện ta. Cô cháu mình đến đó để tim   hiểu…. .Cuối cùng nhắc nhỡ  trẻ  về  việc đi lại và việc giữ  trật tự, vệ  sinh  ở  Nhà Truyền thống .   * Nội dung bài học tại di sản phải đảm bảo tính chính xác, cơ bản và bám   sát nội dung kiến thức mà di sản phản ánh. Tuy nhiên, giáo viên phải chú ý làm  sao để đảm bảo mạch nội dung chương trình của bài học, tránh quá tải đối với   hoạt động nhận thức của trẻ.           Ví dụ : Khi cho trẻ làm quen di sản ở Nhà Truyền thống , giáo viên nên lựa   chọn cho trẻ  làm quen với Lễ hội Bơi thuyền truyền thống hoặc làm quen với  di tích lịch sử Chùa An Xá. Cho trẻ tìm hiểu sâu nội dung đó. Khi tiến hành bài học:            Phải khai thác tối đa khả năng cung cấp thông tin thông qua các dấu vết,   hiện vật,…tại nơi có di sản. Khi khai thác tập trung vào những dấu vết, hiện   vật quan trọng phản ánh kiến thức cơ bản của bài học, tránh tình trạng cho trẻ  quan sát tràn lan làm loãng trọng tâm nội dung cần nghiên cứu của bài học. Khi   hướng dẫn học sinh quan sát phải giúp học sinh tìm ra mối quan hệ  bên trong,   làm sáng tỏ nội dung, kiến thức mà các chứng tích, hiện vật phản ánh. Giáo viên   có thể tổ chức các hoạt động tự học cho học sinh như:  13
  14.            Hướng dẫn trẻ quan sát ­ đàm thoại thông qua tiếp xúc với các loại tài   liệu tại di sản như  tìm hiểu xuất xứ, chất liệu, hình thức thể  hiện (kiểu kiến   trúc, hoa văn trang trí, kiểu chữ…) và nội dung kiến thức của các dấu vết, hiện  vật… liên quan đến bài học.           Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen Nhà tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp,   giáo viên cho trẻ biết đây là nơi Bác Giáp sinh ra và lớn lên…            Kết hợp tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động sau bài học như  tham quan toàn bộ  khu di sản, tổ  chức các trò chơi lịch sử, đóng kịch diễn lại  các câu chuyện, sự tích liên quan đến di sản…            Với những ví dụ  trên cho thấy, việc sử dụng di sản vào dạy học không   những đáp  ứng được yêu cầu của đổi mới dạy học mà còn là công cụ  đắc lực  mà còn giúp thế  hệ  trẻ  nhận thức được tầm quan trọng của di sản đồng thời   biết trân trọng, gìn giữ và phát huy cho tương lai.  Giải pháp 6: Làm quen một số di sản mọi lúc mọi nơi.              Dạy mọi lúc mọi nơi không phải lúc nào cũng phải thực hiện, dễ  gây   nhàm chán cho trẻ. Do đó bản thân cần phải linh hoạt áp dụng vào các hoạt  động trong ngày của trẻ  hoặc có thể  lòng ghép vào các môn học sao cho phù   hợp.            Ví dụ: Trong tiết toán “đếm đến 10 nhận biết chữ số 10” giáo viên có thể   giới thiệu bài cho trẻ  “ Sắp đến ngày 2­9 rồi, đó là ngày tết độc lập và còn là   ngày lễ  đua thuyền truyền thống hằng năm của quê hương ta”. Để  biết có bao   nhiêu thuyền bơi tham dự trong ngày lễ thì hôm nay cô cháu mình cùng tìm hiểu   nhé!. Qua giờ  học đếm các thuyền bơi sẽ  giúp trẻ  khắc sâu hơn về  di sản văn  hóa của quê hương mình. +Góc nghệ  thuật cho trẻ  vẽ, nặn, bồi đắp....đọc thơ, ca dao, hát ...về  di   sản văn hóa quê hương. +Góc xây dựng  ở  chủ  điểm Quê hương đất nước cho trẻ  xây dựng chùa   An Xá hoặc xây dựng dòng sông kiến Giang vào ngày hội đua thuyền... Giải pháp 7 : Tổ chức hội thi “Bé với di sản quê hương”           Tổ chức hội thi Bé với di sản là một sân chơi sáng tạo, bổ ích cho lứa tuổi   mầm non. Trong ngày hội, tất cả trẻ đều được tham gia trực tiếp vào hoạt động  thi đua, một cách tích cực, hào hứng, sôi nổi. Qua đó thúc đẩy các hoạt động tập   thể, gây không khí náo nức cho trẻ vì được tham gia “biểu diễn”, “thi tài”.           Qúa trình hoạt động tập thể  như  vậy sẽ  phát triển  ở  trẻ  tính linh hoạt,   mạnh dạn, tinh thần tập thể  và để  lại cho trẻ  những cảm xúc vui tươi, phấn  khởi, óc thẩm mĩ về “những diễn viên, vận động viên tí hon” khi biểu diễn.         Tạo điều kiện cho trẻ tìm hiểu sâu hơn về di sản văn hóa quê hương qua   hội thi trẻ thêm tự hào và biết gìn giũ phát huy di sản văn hóa. Hoạt động này có  thể thực hiện nhân dịp kỉ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, ngày truyền thống  14
  15. địa phương kết hợp với các phong trào thi đua của nhà trường. Bản thân đề xuất  với nhà trường cần phối hợp đoàn thanh niên trường tổ chức hội thi “Bé với di   sản”, Để hội thi đạt hiệu quả cao nhà trường cần đưa ra yêu cầu cụ thể, thể lệ  hội thi…để giáo viên có sự chuẩn bị cho lớp mình một cách chu đáo. Giải pháp 8: Công tác phối hợp với phụ huynh và các đoàn thể. Để  hoàn thành tốt công tác chăm sóc và giáo dục trẻ  thì cần có sự  phối  hợp và hỗ  trợ  cho nhau giữa gia đình, nhà trường và xã hội . Thực hiện tốt sự  phối hợp đó tôi đã mạnh dạn  báo cáo với Ban giám hiệu nhà trường về  kế  hoạch mời người đến kể  chuyện về  di sản cho trẻ. Giáo viên có thể  mời các  chiến sĩ cách mạng lão thành tiêu biểu, những “nhân chứng” đã chứng kiến,  tham gia các sự kiện tại di sản, những người thân của các nhân vật có liên quan   đến di sản,… làm cho người nghe xúc động, như được sống lại với sự kiện ấy.   Đề xuất với nhà trường tạo điều kiện cho đoàn thanh niên của trường phối hợp   xã đoàn tổ chức các hội thi tìm hiểu về di sản quê hương. Chia sẽ  suy nghĩ với phụ  huynh về tầm quan trọng của việc giáo dục di   sản cho trẻ mầm non để từ đó phụ huynh có nhận thức đúng đắn và xác định vai   trò của mình trong việc chăm sóc giáo dục trẻ đặc biệt là giúp trẻ biết được tầm  quan trọng của di sản văn hóa.    Lên kế hoạch hoạt động tuần, ngày rồi trao đổi trực tiếp với phụ huynh   trong giờ đón trẻ, trả trẻ để phụ huynh biết được kiến thức, kỹ năng trẻ sẽ học   gì? Qua đó xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa giáo viên phụ huynh và các thành   viên trong gia đình trẻ để cùng tạo ra các hoạt động cho trẻ trải nghiệm. Cô giáo tuyên truyền, vận động phụ  huynh đóng góp nhiều nguyên vật   liệu sẳn có ở địa phương để có nhiều sản phẩm phục vụ cho hoạt động.           Nhắc phụ huynh thường xuyên đưa đón trẻ để biết được thông tin, hằng   ngày theo dõi bảng tuyên truyền, kế hoạch tuần, ngày của cô, từ  đó phụ  huynh   biết và giúp trẻ  trong các hoạt động thí nghiệm, báo cáo kết quả  trẻ  đã làm  được gì ở nhà.             Huy động phụ huynh tham gia đóng góp theo lòng hảo tâm về cơ sở vật   chất: tham gia đóng góp công, nguyên vật liệu địa phương, thơ  ca, hò vè, tranh  ảnh, sách tài liệu… để tạo môi trường cho trẻ hoạt động. Sau mỗi lần cho trẻ  thực hành, tôi thông báo kết quả  kịp thời với phụ  huynh để  phụ  huynh bồi dưỡng thêm cho cháu, đặc biệt là những cháu còn rụt  rè, còn hạn chế về ngôn ngữ, giao tiếp….. 3. Phần kết luận:  3.1. Ý nghĩa của đề tài: Việc giúp trẻ  mẫu giáo 5­6 tuổi Làm quen di sản văn hóa quê hương,  nhằm nâng cao hiệu quả  chất lượng học tập của trẻ. Đó là một việc làm giải  quyết vấn đề: “Việc dạy học phải lấy trẻ  làm trung tâm”, công việc này nó  xuyên suốt cả quá trình hoạt động học và chơi của trẻ 5­6 tuổi. Do đó mỗi một   15
  16. giáo viên  phải hiểu rõ mục đích, ý nghĩa hoạt động cho trẻ làm quen di sản văn  hóa. Đối với trẻ, người lớn chúng ta cần phải xây dựng kế  hoạch cho trẻ  làm  quen di sản phù hợp và tình hình thực tế, biết tìm ra các giải pháp sáng tạo trong   khi cho trẻ làm quen di sản để thực hiện tốt chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.  Là một giáo viên phải thực sự  đam mê, tâm huyết với việc dạy học của   mình, thường xuyên quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho trẻ học tập,   phải quan tâm đúng mức, luôn theo dõi động viên, khuyến khích nhằm tạo điều   kiện cảm xúc giúp trẻ phấn khởi trong các hoạt động học tập. Ngoài việc giáo viên nắm vững phương pháp đổi mới truyền thụ cho trẻ,   sáng tạo trong giảng dạy, linh hoạt trong các hoạt động, tích cực tham khảo tài   liệu, học hỏi chị  em đồng nghiệp, giáo viên cần phải tích cực hóa đứa trẻ, tạo  hứng thú cho trẻ trong mọi hoạt động. Tôi còn phải sáng tạo trong việc cho trẻ  làm quen di sản quê hương, nhằm thúc đẩy sự  phát triển trí tuệ  của trẻ  trong   giai đoạn đầu đời của trẻ mới giúp trẻ phát triển toàn diện hơn. Cần có sự  phối kết hợp với phụ huynh một cách khéo léo, lôi cuốn phụ  huynh để phụ huynh cùng đóng góp các vật liệu sẳn có ở địa phương. Bên cạnh đó, thông qua các hoạt động làm quen di sản trẻ được sử  dụng  các giác quan và trực tiếp thực hiện, trẻ cùng học, cùng chơi cùng trải nghiệm.   Hình thành cho trẻ  trí tưởng tượng và phát triển tư  duy,tình cảm, ngôn ngữ  trí   nhớ lâu bền . Mục đích cuối cùng là tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm, đó là   việc hình thành và rèn luyện kỹ năng tìm hiểu, quan sát, làm việc nhóm, chia sẻ  kinh nghiệm của bản thân với các bạn. Như chúng ta biết lứa tuổi mẫu giáo, tuy trẻ còn nhỏ nhưng trẻ luôn luôn   tìm hiểu thế  giới xung quanh vốn muôn vàn câu hỏi thắc mắc: Tại sao cái này  lại gọi là chùa?, mọi người đi lễ  chùa để  làm gì?, Tại sao lại có lễ  hội đua  thuyền? Tại sao? Tại sao?... *Qua việc lựa chọn và sử dụng một số biện pháp giúp trẻ làm quen di sản   văn hóa quê hương. Đây là hoạt động thiết thực góp phần nâng cao chất lượng   chăm sóc giáo dục trẻ và trong quá trình thực hiện các biện pháp trên tôi đã thu  được một số kết quả sau: ­ Đối với bản thân:  + Hiểu được những kiến thức cơ  bản về  các di sản văn hóa của quê  hương.           + Đã hiểu rõ hơn mục đích, ý nghĩa hoạt động cho trẻ làm quen di sản văn  hóa quê hương. + Đã tạo mối quan hệ gắn kết giữa phụ huynh, các đoàn thể, tạo sự thân  thiện giữa cô và trẻ, giữa cô với phụ huynh. + Đã đưa chất lượng của lớp mình lên cao hơn. ­ Đối với trẻ: 16
  17. ­ Trẻ  mạnh dạn, tự  tin, thích tò mò, ham hiểu biết, thích quan sát khám   phá, thích được sử  dụng các giác quan và trực tiếp thực hiện, trẻ  hiểu biết  nhiều, rộng hơn về  thế  giới xung quanh, trẻ  hoạt động tích cực hơn, có kiến   thức đa dạng, phong phú, trẻ được phát triển trí tuệ… Kết quả thể hiện rất rõ qua việc khảo sát chất lượng  cuối năm: Số trẻ  Nội dung Ti lê (%) ̉ ̣ biết được 90,47% Trẻ kể tên một số Di sản văn hóa của quê hương 19/21 Trẻ thích thú tham gia các hoạt động 20/21 95,23% Trẻ nhanh nhẹn sáng tạo trong các hoạt động 15/21 71,42% Trẻ có hành vi thái độ tốt với Di sản văn hóa của  21/21 100% quê hương ­ Đối với phụ huynh: + Phụ huynh đã hiểu được công việc, hoạt động của cô giáo. + Phụ huynh vui mừng khi con mình mạnh dạn, nhanh nhẹn, tự tin. Thấy   được tầm quan trọng và trách nhiệm của mình trong việc kết hợp với giáo viên  cùng quan tâm chăm sóc giáo dục trẻ. + Phụ  huynh đã quan tâm hơn việc cho trẻ làm quen di sản văn hóa, biết  hướng dẫn, rèn luyện một số kỹ năng cơ bản cho trẻ lúc ở nhà. Trên đây là một số bài học kinh nghiệm mà bản thân tôi đúc rút ra từ tình   hình thực tế giảng dạy. Tuy nhiên bài sáng kiến kinh nghiệm của tôi cũng không  tránh khỏi những hạn chế, kính mong sự góp ý, giúp đỡ của hội đồng sư  phạm  nhà trường, bạn bè đồng nghiệp, phòng giáo dục đào tạo để  tôi có nhiều kinh   nghiệm hơn trong công tác giảng dạy. 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2