intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ tuổi 24-36 tháng tại trường Mầm Non 3

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

21
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng, là phát triển ở trẻ khả năng nghe, hiểu lời nói và trả lời được các câu hỏi của những người xung quanh trong quá trình giao tiếp, trò chuyện. Trẻ phải nói to, nêu được yêu cầu, phát âm rõ ý muốn nói để người nghe hiểu và hỗ trợ trẻ kịp thời. Trẻ phải mạnh dạn, tự tin có vốn từ phong phú thì trẻ mới thể hiện được mon muốn của mình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ tuổi 24-36 tháng tại trường Mầm Non 3

  1. Một số giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tại trường Mầm Non 3 I. TÊN SÁNG KIẾN KIẾN KINH NGHIỆM: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ 24 – 36 THÁNG TẠI TRƯỜNG MẦM NON 3 II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI, MÔ TẢ NỘI DUNG 1. Lý do chọn đề tài: Như chúng ta đã biết ngôn ngữ luôn có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. “Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy”,  là công cụ để giúp phát triển tư duy và là phương tiện để giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ. Trong giáo dục trẻ mầm non hiện nay, chúng ta càng thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giúp trẻ trở thành những con người phát triển về mọi mặt: đức, trí, thể, mỹ và hình thành những cơ sở ban đầu của nhân cách con người. Vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Từ 2 tuổi đến 3 tuổi (24- 36 tháng), vốn từ vựng của bé được mở rộng liên tục và bé có thể cảm nhận được tất cả những điều người lớn nói. Ở giai đoạn 3 tuổi, bé có thể giao tiếp lưu loát với người lớn trong một cuộc trò chuyện khá dài. Hơn nữa, nó có thể kết nối nhiều từ hơn để tạo thành câu dài. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, phần lớn các bố mẹ đều bận rộn lo toan cho cuộc sống, thời gian bố mẹ trò chuyện với trẻ để phát triển vốn từ còn ít. Một số cha mẹ của trẻ nhận thức về tầm quan trọng của ngôn ngữ còn hạn chế. Do vậy vốn từ của trẻ em ngày nay phát triển chậm và ít, chủ yếu trẻ được tiếp xúc và phát triển ngôn ngữ thông qua ti vi, phim ảnh… chưa được sự chỉ bảo, uốn nắn của người lớn. Rất nhiều phụ huynh khi đưa con tới trường nhập học ở lứa tuổi nhà trẻ thường nói với các cô giáo: Bé chưa biết nói cô ơi! Bạn này nói ít lắm! Phải làm sao để bé nói được nhiều hơn nữa hả cô? Năm học 2019 - 2020, tôi phụ trách nhóm trẻ 24- 36 tháng với số trẻ đầu năm là 25 trẻ. Đa số trẻ chưa học qua nhóm nhỏ và nhóm nhỡ nên còn nhút nhát, đến lớp còn khóc nhiều, có trẻ chưa biết mình tên gì, mọi thông tin về bé tôi đều phải tìm hiểu qua phụ huynh. Trẻ rụt rè trong giao tiếp với cô, với bạn do ngôn ngữ nói còn hạn chế. Trước tình hình thực tế của lớp trong năm học 2019 - 2020, tôi đã chọn đề tài: “Một số giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ tuổi 24-36 tháng tại trường Mầm Non 3” 2. Mô tả nội dung: Phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng, là phát triển ở trẻ khả năng nghe, hiểu lời nói và trả lời được các câu hỏi của những người xung quanh trong quá trình giao tiếp, trò chuyện. Trẻ phải nói to, nêu được yêu cầu, phát âm rõ ý muốn nói để người nghe hiểu và hỗ trợ trẻ kịp thời. Trẻ phải mạnh dạn, tự tin có vốn từ phong phú thì trẻ mới thể hiện được mon muốn của mình. Hiểu được vấn đề đó, nên tôi đã suy nghĩ và tìm ra các giải pháp tối ưu nhất để phát triển ngôn ngữ cho trẻ, giúp vốn từ của trẻ ngày càng mở rộng, đa dạng và phong phú. Thông qua quá trình dạy và tác động đến trẻ hằng ngày tại nhóm lớp mình phụ trách, tôi đã nghiên cứu và thực hiện các giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ trong năm qua và đã đạt ít nhiều thành công rõ rệt từ trẻ của lớp mình. Cụ thể: 2.1. Khảo sát: Để biết được vốn từ và đặc điểm ngôn ngữ của trẻ ở lớp, vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát kết quả thực tế cụ thể như sau: đầu năm số trẻ là 25 trẻ Gv: Tăng Thị Cẩm Vân 1 Lớp: Nhà trẻ
  2. Một số giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tại trường Mầm Non 3 STT Nội dung khảo sát Kết quả khảo sát đầu năm Số trẻ đạt Tỉ lệ 1 Phát âm rõ tiếng, không nói ngọng, nói lắp. 10/25 40% Nói được câu đơn, câu 5-7 tiếng, có các từ thông dụng 2 9/25 36% chỉ sự vật, hoạt động, đặc điểm quen thuộc Biết bày tỏ nhu cầu của bản thân (con muốn uống nước, 3 7/25 28% con đói bụng, con mắc đi vệ sinh…) Trả lời các câu hỏi: Ai đây? Cái gì đây? Làm gì? Thế 4 8/25 32% nào? Hỏi về các vấn đề cần quan tâm như: “Con gì đây?”, “Cái 5 6/25 24% gì đây?” 2.2. Nguyên nhân thực trạng: Thuận lợi: + Được sự quan tâm của Phòng giáo dục, hàng năm đã tổ chức chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ giáo viên. + Thường xuyên được tham dự các buổi sinh hoạt cụm chuyên môn giữa các trường để trau dồi kinh nghiệm. + Trường lớp có qui mô gọn gàng sạch sẽ, phòng học rộng rãi, thoáng mát đảm bảo hợp vệ sinh an toàn cho trẻ. + Trẻ cùng một độ tuổi. + Đồ dùng phục vụ cho việc phát triển vốn từ cho trẻ phonng phú về hình ảnh, màu sắc, hấp dẫn (tranh ảnh, vật thật). Khó khăn: + Trẻ 24 – 36 tháng do tôi phụ trách đa số chưa học qua nhóm bé và nhóm nhỡ, có nhiều trẻ chưa biết nói, một số cháu phát âm chưa chuẩn, trẻ còn nhút nhát trong sinh hoạt tập thể. + Các cháu bắt đầu đi học còn khóc nhiều, chưa quen với cô và các bạn, hay nghỉ học do ốm vì chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt và các hoạt động ở lớp. + Đa số phụ huynh buôn bán tự do hay tính chất công việc chiếm nhiều thời gian nên nhận thức về tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ còn hạn chế, hay cho trẻ xem ti vi hoặc điện thoại mà ít dành thời gian trò chuyện, đọc sách cho trẻ nghe. Đứng trước một số khó khăn như vậy, tôi đã tìm tòi suy nghĩ và nghiên cứu tài liệu để tìm ra một số giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ. 2.3. Đề ra giải pháp: - Tìm hiểu đặc điểm vốn từ và ngôn ngữ của trẻ nhà trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng nói chung và khả năng ngôn ngữ của trẻ lớp tôi nói riêng Gv: Tăng Thị Cẩm Vân 2 Lớp: Nhà trẻ
  3. Một số giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tại trường Mầm Non 3 - Tạo cơ hội cho trẻ được giao tiếp, học từ mới mọi lúc, mọi nơi. - Linh hoạt trong phương pháp giáo dục, hình thức tổ chức hoạt động. - Đảm bảo các nguyên tắc của giáo dục: tính vừa sức, hệ thống và liên tục. - Đưa trò chơi, đồng dao, ca dao để phát triển ngôn ngữ, vốn từ cho trẻ. - Tuyên truyền, phối kết hợp với cha mẹ trẻ trong giáo dục, phát triển vốn từ cho trẻ. 2.4. Những nội dung cần đạt: - Từ 92% trở lên trẻ phát âm rõ tiếng, không nói ngọng, nói lắp. - Có từ 85% đến 90% nói được câu đơn, câu 5-7 tiếng, các từ thông dụng chỉ sự vật, hoạt động, đặc điểm quen thuộc. - 100% trẻ biết bày tỏ nhu cầu mong muốn của bản thân (con muốn uống nước, con đói bụng, con mắc đi vệ sinh…) - Trẻ hỏi và trả lời các câu hỏi: Ai đây? Cái gì đây? Làm gì? Thế nào?,…đạt từ 95% trở lên. - Từ 70% phụ huynh trở lên tham gia phối kết hợp tích cực, nhiệt tình với giáo viên trong quá trình mở rộng vốn từ cho trẻ: rèn trẻ phát âm, dạy trẻ nói, cung cấp thêm từ mới, … để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN “MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ 24 – 36 THÁNG TẠI TRƯỜNG MẦM NON 3” “Trẻ lên ba, cả nhà học nói”. Vì sao chúng ta thường nghe câu nói ví von này? Đó là do đặc điểm phát triển và nhu cầu giao tiếp của trẻ ở giai đoạn 24 – 36 tháng tuổi phát triển rất nhanh và mạnh mẽ. Để biết rõ ngôn ngữ của trẻ 24- 36 tháng phát triển cụ thể ra sao, tôi đã nghiên cứu tìm hiểu qua sách báo tài liệu nhằm đề ra các giải pháp giúp trẻ lớp tôi phát triển ngôn ngữ và vốn từ một cách có hiệu quả. 1. Tìm hiểu đặc điểm vốn từ và ngôn ngữ của trẻ nhà trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng nói chung và khả năng ngôn ngữ của trẻ lớp tôi nói riêng Đặc điểm chung: Bước sang tuổi thứ hai (24- 36 tháng), trẻ bước sang giai đoạn bùng phát về mặt ngôn ngữ trên cả phương diện từ vựng lẫn phương diện tổ chức ngôn ngữ (cũng bắt đầu từ đây, cá tính của trẻ đã được bộc lộ). Ở giai đoạn này, trẻ học từ mới rất nhanh. Năng lực sử dụng từ ngữ cũng được cải thiện đáng kể, có thể gây ngạc nhiên cho người lớn. Trẻ không chỉ học cách gọi tên sự vật, hiện tượng, mà còn học cả những từ chỉ quan hệ ngữ pháp (cái, của, rồi, chưa, à,…). Trẻ thường xuyên nói chuyện một mình, nói chuyện với đồ chơi, quan sát và bắt chước lời nói của người lớn (cũng như bắt chước làm theo việc người lớn làm). Các nhu cầu, mong muốn của trẻ đều có thể được thể hiện trực tiếp bằng các hành động ngôn ngữ (Con muốn uống, đi tè…). Trẻ có thể hiểu, nhớ và làm theo một số mệnh lệnh đơn giản liên tiếp (đi ra ngoài, đóng cửa; bê ghế, ngồi vào bàn,…). Ở lứa tuổi này, trẻ có nhu cầu giao tiếp với mọi người, trẻ thích tìm hiểu những điều mới lạ trong cuộc sống xung quanh. Những từ các cháu được sử dụng hầu hết là những từ chỉ tên gọi, những gì gần gũi xung quanh mà hàng ngày trẻ tiếp xúc. Ngoài ra, trẻ cũng nói được một số từ chỉ hành động, chỉ những công việc của bản thân và mọi người xung quanh, chỉ hành động của những con vật mà trẻ biết. Cụ thể: máy bay, tàu hoả, con cá; ba, mẹ, bà, máy bay bay, tàu hoả chạy, con cá bơi. Gv: Tăng Thị Cẩm Vân 3 Lớp: Nhà trẻ
  4. Một số giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tại trường Mầm Non 3 Khả năng ngôn ngữ của trẻ lớp tôi nói riêng, qua quá trình tìm hiểu thực tế, tôi nhận thấy sự chênh lệch về vốn từ của trẻ ở cùng một độ tuổi trong lớp là khá lớn. Vốn từ của trẻ không phụ thuộc vào điều kiện vật chất, kinh tế của gia đình mà liên quan rất nhiều đến thời gian giao lưu trò chuyện với trẻ. Cô và cha mẹ có lắng nghe trẻ kể chuyện về sinh hoạt và bạn bè hay không? Có thường xuyên kể chuyện cho bé nghe và hướng dẫn bé kể lại không? Ngày nghỉ bé có được đi chơi công viên hay đi thăm họ hàng hay không?... Tất cả những điều đó không chỉ làm tăng số lượng vốn từ của trẻ, sự hiểu biết nghĩa của từ, cách dùng từ của trẻ mà còn làm phong phú hiểu biết và xúc cảm của trẻ. Đa số phụ huynh ít có thời gian trò chuyện với trẻ, giờ rảnh rỗi thì cho trẻ xem ti vi, xem điện thoại, chơi đồ chơi một mình; Vì thế trẻ còn nhút nhát trong giao tiếp do ngôn ngữ hạn chế, vốn từ nghèo nàn. Sau khi hiểu rõ đặc điểm của từng bé, tôi từng bước áp dụng các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển ngôn ngữ và vốn từ cho trẻ một cách hệ thống hơn. 2. Tạo cơ hội cho trẻ được giao tiếp, học từ mới mọi lúc, mọi nơi. Như chúng ta đã biết, lứa tuổi nhà trẻ nói riêng và trẻ mầm non nói chung, đang ở giai đoạn phát triển và hoàn thiện các hệ cơ quan, trong đó có các cơ quan phát âm. Vì thế mà trẻ rất hay mắc lỗi khi phát âm. Vậy nên giáo viên và các bậc phụ huynh đều cần xác định được các lỗi đó để sửa kịp thời cho trẻ. Muốn vậy chúng ta cần quan sát lời nói của trẻ, nghe xem trẻ nói gì và cho trẻ nhắc lại những từ, những câu nói chưa chuẩn của trẻ. Khi nhắc lại chúng ta cần khẳng định những câu nói đúng. Khi cần người lớn phải đưa ra các mẫu câu để cho trẻ biết và nói theo. Cụ thể: Khi cho trẻ dạo chơi trong sân trường, trẻ nhìn thấy con chim bồ câu. Có trẻ nói: “Con chim”, trẻ khác lại nói: “Chim bồ câu”. Cô phải cho trẻ nhắc lại đầy đủ: “Con chim bồ câu”. Như vậy cô đã sửa từ sai cho trẻ mà còn giúp trẻ khác cũng phát âm được đúng từ: “Con chim bồ câu”.Hay trong giờ đón trẻ. Có một trẻ muốn nhờ cô cởi áo khoác, trẻ nói: “Cô cởi áo”. Tôi liền nhắc lại: “Cô cởi áo dùm con” và cho trẻ nhắc lại. Có những trẻ đứng bên cạnh thấy thế cũng bắt chước nói theo bạn. Như vậy vừa giúp trẻ có thói quen cởi áo khi nóng mà còn giúp trẻ nói được câu lễ phép,đúng mực. Khi trẻ đang chơi một đồ chơi nào đó, tôi gợi ý hỏi trẻ: Con đang chơi trò gì ? Đồ chơi này dùng để làm gì?...Có thể trẻ nói, kể chưa đúng, chưa lưu loát, đôi khi còn ngọng thì tôi đưa ra mẫu câu đúng và đề nghị trẻ nhắc lại. Như vậy ở mọi lúc mọi nơi tôi đều có thể luyện phát âm và phát triển ngôn ngữ cho trẻ: Khi tập thể dục, khi dạo chơi, khi đón trả trẻ... không nhất thiết là chỉ trong tiết học, quan trọng là cô phải nắm được khả năng phát âm của từng trẻ để lựa chọn thời điểm thích hợp luyện phát âm và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở độ tuổi 24 - 36 tháng tôi đã luôn áp dụng các biện pháp khác nhau. Do đó tất cả những gì liên quan đến trẻ tôi luôn chú ý phải diễn đạt bằng lời để cho trẻ dễ hiểu và nói theo. Song chỉ hiểu đúng một tên gọi đơn giản thì chưa đủ. Vì thế tôi đã đưa ra lời giải thích tỉ mỉ để chỉ ra ý nghĩa của đồ vật (để làm gì ?) so sánh cái trẻ đang nhìn thấy với cái trẻ đã nhìn thấy từ trước để giúp trẻ có tư duy lôgic và phát triển trí nhớ. Từ đó phát triển khả năng phát âm, hiểu ý nghĩa của lời nói, khả năng khái quát hóa và khả năng giao tiếp ngôn ngữ ở trẻ. Cung cấp vốn từ cho trẻ qua hoạt động học - Đối với các giờ học cô phải sử dụng đồ dùng trực quan, đồ dùng trực quan và hệ thống câu hỏi của cô là nền tảng để tổ chức việc phát triển ngôn ngữ và vốn từ của trẻ. Trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu, không nói cụt lủn hoặc cộc lốc. Gv: Tăng Thị Cẩm Vân 4 Lớp: Nhà trẻ
  5. Một số giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tại trường Mầm Non 3 Ví dụ: Nhận biết tập nói Bài “ Quả khóm, quả đu đủ”. Tôi chuẩn bị đầy đủ các loại quả thật để trẻ được nhìn, được sờ, được nếm. Tôi đặt câu hỏi : + Đây là quả gì? (Đây là quả khóm ạ!) + QuẢ có màu gì? (màu cam) + Vỏ quả khóm như thế nào? (Vỏ khóm “ Sần sùi”) + Quả khóm có “Vị” chua hay ngọt? (có quả ngọt , có quả chua) + Con hãy sờ xem vỏ của quả đu đủ có “Sần sùi” không? Vỏ đu đủ “nhẵn” (hay láng) Việc cho trẻ quan sát, sờ, nếm vật thật có ý nghĩ vô cùng to lớn đối với sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Điều này khêu gợi và duy trì sự chú ý có chủ định ở trẻ , lôi cuốn sự chú ý, hứng thú của trẻ vào đối tượng, kích thích trẻ nói nhiều hơn. Mặt khác khi quan sát vật thật trẻ được trực tiếp tiếp xúc với vật cụ thể (Trẻ được nhìn, nghe, được sờ vật ngay trước mặt). Quan sát vật thật giúp trẻ nhận biết, tri giác một cách khái quát và cụ thể từng chi tiết. Vì vậy tôi đã tổ chức cho trẻ quan sát vật thật ( tùy theo đối tượng) trong các giờ học để phát triển ngôn ngữ cho trẻ . Cung cấp vốn từ cho trẻ qua hoạt động vui chơi Ví dụ: Khi hoạt động ngoài trời cho trẻ quan sát xe đạp. Tôi đưa ra những câu hỏi: + Xe gì đây? (xe đạp) + Xe đạp có mấy bánh? (Xe đạp có 2 bánh) Sau đó tôi gợi mở cho trẻ kể lại những gì trẻ quan sát được. Nếu trẻ không kể được, tôi đưa ra các câu hỏi hướng trẻ quan sát và trả lời (cái yên xe, tay cầm, giỏ xe, bánh xe…). Sau đó tôi cho trẻ chơi mô phỏng động tác lái xe và kêu kính coong, kính coong giả làm tiếng chuông xe đạp (qua đó rèn luyện phát âm từ “kính coong” cho trẻ). Tôi tổ chức rộng rãi cho trẻ chơi nhiều trò chơi khác nhau để sử dụng những loại câu đơn giản khi dạo chơi, hoạt động ngoài trời, hay tận dụng những tình huống có sẵn (như trời mưa, gió, tiếng chim hót...) để cung cấp từ mới cho trẻ. Khi cho trẻ đi dạo: tôi cũng rất chú ý việc phát triển vốn từ của trẻ, trẻ được quan sát, trò chuyện về sự vật, hiện tượng trong thiên nhiên, trò chuyện về các con vật cây cối trong sân trường, tôi dùng các câu hỏi kích thích tư duy của trẻ hoạt động như : + Con nhìn thấy con mèo đang làm gì? + Con mèo đang ăn gì đấy? Cho trẻ chơi trò chơi “Bắt chước tiếng kêu của con vật”: Cô nói: con mèo, trẻ kêu: meo meo; Cô nói: con vịt, trẻ kêu: cạp cạp; Cô nói: con chó, trẻ kêu: gâu gâu Qua vui chơi các góc, tôi gợi ý nội dung chơi cho trẻ giao tiếp với cô và giao tiếp với bạn, nhờ vậy vốn từ của trẻ được phát triển mạnh trong khi chơi. Ví dụ: Trò chơi bế em, cô hướng dẫn trẻ bế và cho búp bê bú, búp bê ăn, ru búp bê ngủ, trẻ sẽ bắt chước những từ cô nói như: “con của mẹ ngoan quá!”, biết hát ru “à ơi” cho em bé ngủ và như vậy vốn từ của trẻ cũng được phát triển theo. Gv: Tăng Thị Cẩm Vân 5 Lớp: Nhà trẻ
  6. Một số giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tại trường Mầm Non 3 Cung cấp vốn từ cho trẻ qua các hoạt động khác trong ngày Trong hoạt động đón và trả trẻ, tôi cũng tận dụng để dạy trẻ nói và phát âm các câu từ giao tiếp phù hợp: Đến lớp thì “Thưa cô, con mới đến”, “Thưa ba / mẹ con đi học”. Ra về thì” Thưa cô con về”, “Thưa ba / mẹ con đi học mới về”. Hình thành cho trẻ thói quen tốt trong giao tiếp ứng xử: lễ phép với người lớn. Trong họat động ăn, ngủ, vệ sinh, tôi hướng dẫn trẻ biết dùng từ ngữ để bày tỏ nhu cầu của bản thân. Ví dụ: Cô ơi, con muốn ăn thêm. Con khát nước, con muốn đi ị….. Tôi dùng tình cảm để khuyến khích, động viên và khen ngợi khi trẻ nói được câu, từ hoàn chỉnh, nói rõ ràng và mạnh dạn giao tiếp với cô với bạn. (Bạn Phúc Khang giỏi quá, bạn Phúc Khang biết gọi cô dẫn đi tiểu, không còn tiểu dầm nữa, mình vỗ tay khen bạn Phúc Khang đi nào!). Từng chút, từng chút một, tôi kiên nhẫn dạy trẻ, cung cấp vốn từ cho trẻ mọi lúc mọi nơi, trong mọi hoạt động nhờ thế mà ngôn ngữ của trẻ phát triển rõ rệt, trẻ phát âm rõ ràng hơn, nói được câu có 5-7 tiếng chỉ sự vật hiện tượng gần gũi, biết sử dụng từ phù hợp để bày tỏ nhu cầu của bản thân, đạt 23/25 trẻ, tỷ lệ 92%. 3. Linh hoạt trong phương pháp giáo dục, hình thức tổ chức hoạt động. Hiện nay, trong các hoạt động thì giáo viên cần phát huy tính tích cực của trẻ. Muốn thế thì cô giáo phải linh hoạt trong phương pháp giáo dục và hình thức tổ chức hoạt động nói chung và phát triển ngôn ngữ, vốn từ cho trẻ nói riêng. Dựa vào khả năng của trẻ để có phương pháp giáo dục phù hợp vì mỗi trẻ là một cá thể riêng biệt (không trẻ nào giống hệt trẻ nào), do đó cô không thể dùng phương pháp giáo dục áp đặt cho tất cả trẻ trong lớp. Hiểu được điều đó, tôi đã vận dụng linh hoạt phương pháp giáo dục cũng như hình thức tổ chức hoạt động phù hợp để phát triển ngôn ngữ, cung cấp vốn từ cho trẻ một cách có hiệu quả nhất. Ví dụ: Khi dạy trẻ đọc bài thơ: Miệng xinh của tác giả Phạm Hổ (bài thơ có 4 câu, mỗi câu có năm từ), đây là một bài thơ ngắn, tương đối dễ đọc đối với trẻ có khả năng phát âm rõ ràng , nhưng đối với trẻ hạn chế về ngôn ngữ thì đọc một lúc năm từ trong câu thì trẻ gặp khó khăn (Bé Duy Phương, bé Nhã Hân, bé Hào, bé Trọng Phước), trẻ chỉ đọc từ đầu và vuốt đuôi từ cuối, các từ ở giữa câu thì không thể hiện được. Vì thế, để giúp các bé đọc được bài thơ tôi không yêu cầu những bé này phải đọc cả câu giống như các bạn khác mà có thể ngắt câu ra làm hai. Ví dụ: Các cháu/ chơi với bạn. Cãi nhau/ là hết vui. Cái miệng/ nó xinh thế. Chỉ nói/ điều hay thôi. Sau đó, ngoài giờ học tôi hướng dẫn riêng cho những bé đó đọc lại và dần dần hoàn chỉnh câu có năm từ. Khi trẻ đã đọc được bài thơ, tôi mời trẻ đọc cho bạn nghe và tuyên dương trẻ trước các bạn, trẻ rất thích và mạnh dạn hơn trước trong giao tiếp với cô với bạn. Không phải hoạt động học nào cũng tổ chức ở môi trường trong lớp học, mà có những hoạt động tôi tổ chức ngoài trời, cô và trẻ cùng đi dạo, tôi trò chuyện cũng trẻ và dạy trẻ đọc thơ, cung cấp từ mới qua tìm hiểu khám phá, nhận biết phân biệt và hoạt động với đồ vật. Ví dụ: Nhận biết phân biệt “Đồ chơi quen thuộc của bé”. Tôi dẫn trẻ ra sân trường và cho trẻ phát hiện có món đồ chơi đang được cất giấu dưới một gốc cây (quả bóng, búp bê) để dạy trẻ gọi tên, cách sử dụng... Trẻ rất thích thú và tham gia tích cực, nhiều trẻ đã đặt câu hỏi: Cô ơi, sao đồ chơi lại ở đây? Con có được chơi với bóng không cô?... Và sau đó trẻ càng thích thú hơn khi những bạn trai thì được chơi cùng nhau, những bạn gái thì được bế Gv: Tăng Thị Cẩm Vân 6 Lớp: Nhà trẻ
  7. Một số giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tại trường Mầm Non 3 búp bê đi chơi trong sân trường. Tôi còn gợi ý cho trẻ đặt tên cho búp bê, vốn từ của trẻ vì thế được phát triển qua học bằng chơi, chơi mà học. Qua giải pháp trên, trẻ lớp tôi được phát triển vốn từ ngày một hiệu quả. Trẻ rất hứng thú bước vào hoạt động và tham gia tích cực cùng cô. Trẻ thích đặt câu hỏi vì trẻ đang tò mò trước sự việc mới (do tôi thường xuyên thay đổi hình thức tổ chức, không sao chép theo lối mòn), từ đó ngôn ngữ trẻ phát triển rất nhanh, trẻ mạnh dạn tự tin trong giao tiếp đạt 22/25 trẻ, tỷ lệ 88%. 4. Đảm bảo các nguyên tắc của giáo dục: tính vừa sức, hệ thống và liên tục. Đặc điểm nhận thức của trẻ ở lứa tuổi này là rất chóng quên nếu như ta chỉ cung cấp cho trẻ qua một lần rồi bỏ qua mà không được lặp đi lặp lại. Hơn nữa, việc cung cấp vốn từ cho trẻ cũng cần đảm bảo tính vừa sức, hệ thống, có nghĩa là vốn từ cung cấp cho trẻ phải đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ví dụ: những bài thơ dạy trẻ đầu năm thường là những bài thơ có câu ngắn, từ đơn giản, dễ hiểu như bài thơ: Đi dép; Cái bát!; Bạn mới; Chú gà con; Bà và cháu; Bắp cải xanh; Con cá vàng....Những bài thơ này có từ bốn đến sáu câu, mỗi câu có từ ba đến bốn chữ , giúp trẻ dễ đọc, dễ nhớ. Vào giữa năm học trở đi, từ ngữ cung cấp cho trẻ dần khó lên. Câu chuyện, bài thơ dạy trẻ có nhiều câu, nhiều tình tiết hơn. Ví dụ: Bài thơ Lời chào; Cô và mẹ; Mười quả trứng tròn, Trăng;.... với những âm khó như âm “ tr”, âm “r”, âm ‘s”... Tôi cùng với cô giáo chung lớp phối hợp với nhau cung cấp, củng cố vốn từ cho trẻ đảm bảo theo nguyên tắc giáo dục, không bỏ qua một nguyên tắc nào trong quá trình giáo dục phát triển ngôn ngữ và vốn từ cho trẻ. Với giải pháp này, vốn từ cung cấp được trẻ nhớ lâu, trẻ biết vận dụng vào sinh hoạt hàng ngày, trẻ có thể trả lời các câu hỏi: Con đang làm gì? Cái gì đây? ... và cũng có thể thực hiện một hoặc hai yêu cầu của người lớn, đạt 23/25 trẻ, tỷ lệ 92%. 5. Đưa trò chơi, đồng dao, ca dao để phát triển ngôn ngữ , vốn từ cho trẻ. Với trẻ nhỏ thì việc tiếp thu một từ ngữ hay một nội dung mới nào đó thường qua trò chơi, bài hát, câu chuyện, bài thơ hơn là lý thuyết suông. Vì thế để cung cấp vốn từ và rèn phát âm cho trẻ tôi đã sưu tầm, chọn lựa một số trò chơi, bài đồng dao, ca dao, bài hát phù hợp với trẻ. Khi lựa chọn các trò chơi dân gian, các bài đồng dao cho trẻ, tôi tuân thủ theo nguyên tắc giáo dục: đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Dựa theo nguyên tắc này tôi soạn cho mình những trò chơi dân gian mà tôi sẽ cho trẻ chơi theo từng tháng, từng chủ đề cho phù hợp: Ví dụ: Chơi trò chơi " Lùa vịt" với bài đồng dao: (bài đồng dao này tôi đã cắt bớt một đoạn để phù hợp với trẻ Cạp cạp cạp/ Vịt lội dưới ao/ Vịt xào vịt xới/ Vịt bới tôm cua/ Đi lùa về nhốt. Bài đồng dao này luyện phát âm cho trẻ từ “Vịt” và âm “Cạp, cạp, cạp” Cách chơi: Trẻ đưa hai tay lên miệng làm mỏ vịt và kêu “Cạp, cạp, cạp”, làm động tác vịt lội. Cô giáo làm người lùa vịt, khi thấy người lùa vịt xuất hiện thì những chú vịt nhanh chân chạy về chuồng (được cô giới hạn là một vòng tròn). Khi trẻ chơi thạo, tôi cho trẻ đóng vai người lùa vịt. Trẻ vừa chơi vừa đọc đồng dao để luyện phát âm “Vịt”, âm “Cạp cạp cạp”. Gv: Tăng Thị Cẩm Vân 7 Lớp: Nhà trẻ
  8. Một số giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tại trường Mầm Non 3 Ví dụ: Với trò chơi “Kéo cưa lừa xẻ” ( bài đồng dao đi kèm với trò chơi này ngắn, trẻ dễ thuộc, qui mô chơi : chơi theo từng đôi trẻ, cách chơi: Hai trẻ ngồi xệp xuống đất hai tay nắm với nhau kéo qua kéo lại kết hợp với đọc đồng dao.) Lúc đầu tôi cho trẻ đọc bài đồng dao: Kéo cưa của Nam bộ. Kéo cưa lừa kít/ Làm ít ăn nhiều / Đụng đâu ngủ đó/Nó lấy mất cưa / Lấy gì mà kéo. Trẻ được cung cấp từ “Kéo cưa” kèm với hành động “Kéo cưa”, trẻ luyện phát âm “Kéo”, âm “Kít” Khi trẻ chơi đã thành thạo, bài đồng dao đọc cũng nhuần nhuyễn hơn, thì tôi cho trẻ đọc đồng dao: Kéo cưa của Bắc bộ: Kéo cưa lừa xẻ/ Ông thợ nào khỏe/ Thì ăn cơm vua/ Ông thợ nào thua/ Thì về bú mẹ. Với bài đồng dao này, trẻ luyện phát âm “Khỏe”, âm “Thợ”, âm “Thua”, âm “Thì” (vì trẻ lớp tôi đa số phát âm sai những âm này) Ví dụ: Chơi trò chơi và đọc đồng dao: Đi cầu đi quán. (Trò chơi này tôi cho trẻ chơi vào gần cuối năm học, do bài đồng dao có nhiều câu) Đi cầu đi quán/ Đi bán lợn con/ Đi mua cái xoang/ Đem về đun nấu/ Mua quả dưa hấu/ Về biếu ông bà/ Mua một đàn gà/ Về cho ăn thóc/ Mua lược chải tóc/ Mua cặp cài đầu/ Đi mau về mau/ Kẻo trời sắp tối. Cách chơi: hai trẻ làm cổng nắm tay nhau giơ lên cao cho các bạn xếp hàng dọc lần lượt chui qua cổng, khi đọc đến câu cuối của bài đồng dao thì hai bạn làm cổng sẽ hạ tay xuống (đóng cổng), bạn nào còn rớt lại phía sau sẽ không được chơi tiếp. Vì thế muốn không bị rớt lại thì đến câu gần cuối, các bạn phải tăng tốc đi nhanh hơn. Qua bài đồng dao, trẻ luyện phát âm “Đun”, âm “Xoong”; hiểu được nghĩa của các từ: cái xoong là cái nồi; cặp cài đầu là cái kẹp tóc của các bạn gái. Bằng cách làm trên, từng bước tôi đã cung cấp từ mới, luyện phát âm cho trẻ một cách nhẹ nhàng. Trẻ rất thích được chơi, được đọc đồng dao mà qua đó trẻ được học từ mới một cách thoải mái, đạt hiệu quả 23/25 trẻ, tỷ lệ 92%. 6. Tuyên truyền, phối kết hợp với cha mẹ trẻ trong giáo dục, phát triển vốn từ cho trẻ. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trẻ nhỏ càng tham gia trò chuyện với người lớn nhiều thì vốn từ của các bé càng nhiều và rộng. Trò truyện với con là phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ đơn giản, dễ áp dụng nhưng nhiều cha mẹ vì quá bận bịu nên thường xuyên quên điều này. Mỗi ngày, cha mẹ nên nói chuyện cùng con bất cứ khi nào có thể, như trong lúc ăn hoặc khi tắm cho con,… ” Ngoài ra, khi nói chuyện, cha mẹ cũng nên đưa ra cho bé những câu hỏi đơn giản để bé có thể dễ dàng trả lời. Ví dụ như khi đi làm về, hãy hỏi trẻ: “Hôm nay con ở nhà có nghe lời bà không?” hoặc “Hôm nay ở nhà con đã làm những gì, hãy kể cho ba/ mẹ nghe nhé!”… Thực hành cho bé những câu hỏi như vậy sẽ rèn luyện cho bé cách hồi tưởng những việc đã diễn ra và cố gắng tư duy từ ngữ để nói cho cha mẹ biết những gì bé đã làm trong ngày”. Tôi đã dùng nội dung này để đưa vào nội dung tuyên truyền trên bản tin của lớp và khi trò chuyện với phụ huynh khi đón, trả trẻ kết hợp với trao đổi thông tin trong sổ liên lạc. Ví dụ: Bé Phúc Khang rất thích nghe kể chuyện, phụ huynh dành thời gian kể chuyện cho bé nghe. Hoặc: bé Duy Phương hay đặt câu hỏi, thích khám phá, phụ huynh nên dành Gv: Tăng Thị Cẩm Vân 8 Lớp: Nhà trẻ
  9. Một số giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tại trường Mầm Non 3 thời gian chơi và trò chuyện với bé, không nên cho bé xem ti vi nhiều. Bé Hào còn nhút nhát, ít chịu nói chuyện, ba mẹ hãy cùng chơi, đọc sách cho bé nghe, hỏi bé những điều bé được cô giáo dạy ở trường để giúp bé dạn dĩ, tự tin hơn.v.v… Bên cạnh đó, tôi dán các bài thơ, câu chuyện, bài đồng dao ở bảng tin lớp và nhờ phụ huynh về dạy cho bé đọc thêm, kể lại chuyện cho bé nghe để củng cố từ mới mà cô đã dạy trẻ ở lớp. Qua một thời gian áp dụng công tác tuyên truyền và phối hợp với phụ huynh như thế, các bé ở lớp tôi đã có sự tiến bộ rõ rệt về ngôn ngữ, bé dạn dĩ, hồn nhiên trong giao tiếp, thích khám phá, thích hỏi về sự vật quan sát được và cũng thích kể lại cho người lớn nghe những gì mình nhìn thấy. Phụ huynh rất phấn khởi khi thấy bé tiến bộ và bày tỏ với cô giáo sự hiệu quả về những nội dung mà mình áp dụng khi nghe tôi trao đổi. IV. KẾT QUẢ THU ĐƯỢC TỪ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: Trải qua một quá trình thực hiện bền bỉ, liên tục, trẻ ở lớp tôi đã có những chuyển biến rõ rệt, phần lớn số trẻ trong lớp đã có một số vốn từ rất khá, các cháu nói năng mạch lạc, rõ ràng, biết cách diễn đạt ý muốn của mình, mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp, vốn từ của trẻ đã phong phú hơn rất nhiều so với kết quả đầu năm tôi đã khảo sát. Kết quả của trẻ được đánh giá như sau: Stt Đầu năm Cuối năm Tỉ lệ Nội dung khảo sát tăng Số trẻ Tỉ lệ Số trẻ Tỉ lệ đạt đạt 1 Phát âm rõ tiếng 10/25 40% 23/25 92% 52% 2 Nói được câu đơn, câu 5-7 tiếng, có các từ thông dụng chỉ sự vật, 9/25 36% 24/25 96% 60% hoạt động, đặc điểm quen thuộc 3 Biết bày tỏ nhu cầu của bản thân( con muốn uống nước, đi tè, 7/25 28% 25/25 100% 72% …) 4 Trả lời các câu hỏi: Ai đây?, cái gì 8/25 32% 23/25 92% 60% đây?, làm gì? Thế nào? 5 Hỏi về các vấn đề quan tâm như: “Con gì đây?”, “Cái gì đây?” 6/25 24% 23/25 92 % 68% Qua kết quả khảo sát trên, ta nhận thấy mỗi nội dung khảo sát, số trẻ đạt đã tăng rõ rệt từ 55% đến 74%. Điều đó chứng tỏ những giải pháp trên đã góp phần phát triển vốn từ và khả năng ngôn ngữ cho trẻ lớp tôi đạt hiệu quả tốt. Đa số phụ huynh cũng hiểu về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ và có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ ở nhà, dành nhiều thời gian chơi và trò chuyện với trẻ hơn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tốt hơn. Gv: Tăng Thị Cẩm Vân 9 Lớp: Nhà trẻ
  10. Một số giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tại trường Mầm Non 3 Bản thân tôi cũng rút ra được một số kinh nghiệm rất quan trọng cho việc rèn ngôn ngữ và phát triển vốn từ cho trẻ như: Cô phải thường xuyên tạo cơ hội cho trẻ giao lưu, tiếp xúc, trò chuyện với cô và bạn thông qua các hoạt động hằng ngày; Luôn khuyến khích, động viên trẻ mạnh dạn nói, nêu rõ yêu cầu mong muốn và nhu cầu của bản thân với mọi người xung quanh; Thường xuyên cho trẻ nghe kể chuyện, đọc thơ, đồng dao, đọc chuyện trẻ nghe và yêu cầu trẻ lặp lại một số từ mới để mở rộng vốn từ cho trẻ; Thông qua âm nhạc cũng giúp vốn từ và ngôn ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ; Và điều quan trọng là giáo viên phải biết khơi gợi, khuyến khích, quan tâm, chia sẻ, hiểu và đồng cảm với trẻ thì quá trình phát triển vốn từ và ngôn ngữ ở trẻ sẽ đạt hiệu quả cao. V. PHẠM VI ỨNG DỤNG VÀ KHẢ NĂNG NHÂN RỘNG: Qua việc thực hiện đề tài này, kết quả trên trẻ cho thấy những giải pháp trên rất dễ áp dụng ở các khối lớp, chỉ cần điều chỉnh nội dung chút ít cho phù hợp độ tuổi là ta có thể thực hiện được ở lớp mình. Và hiện tại có một vài lớp đã vận dụng cho lớp mình như lớp Mầm 2 của cô An, lớp Mầm 1 của cô Lan. Những giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24-36 tháng của tôi được bạn đồng nghiệp ở trường bạn chia sẻ và vận dụng như cô Võ Thị Bích Tuyền và cô Dương Thị Hải Yến Nhóm trẻ của trường Mầm non Sơn Ca Tân Ngãi. Hy vọng những giải pháp trên sẽ còn được nhân rộng thêm ở các trường bạn trong thời gian tới. VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ: 1. Kết luận: Phát triển vốn từ cho trẻ ở trường mầm non và đặc biệt là ở lứa tuổi nhà trẻ là vấn đề rất quan trọng và cần thiết, mức độ phát triển vốn từ của trẻ còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Tôi nhận thấy việc rèn luỵên và phát triển vốn từ cho trẻ là cả quá trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bỉ, khắc phục khó khăn để tìm ra giải pháp, biện pháp thích hợp và điều kiện cần thiết cho sự phát triển ngôn ngữ của các bé. Trong quá trình thực hiện, bản thân tôi cũng rút ra cho mình một số bài học kinh nghiệm: - Giáo viên phải có năng lực, trình độ chuyên môn vững vàng. Giáo viên thường xuyên học hỏi kinh nghiệm, tự học, tự rèn để nâng cao trình độ chuyên môn. Giáo viên phải biết xây dựng kế hoạch phù hợp với tình hình thực tế của lớp. - Tạo cơ hội cho trẻ được trò chuyện giao tiếp cùng cô và các bạn. Lắng nghe trẻ nói và luôn có sự phản hồi với trẻ, không thờ ơ với ý kiến của trẻ, tỏ thái độ quan tâm trước vấn đề trẻ muốn nói để kích thích trẻ nói, điều trẻ muốn chia sẻ với cô. - Phối hợp tốt với phụ huynh để giúp trẻ phát triển về ngôn ngữ và vốn từ cũng như các mặt khác. 2. Kiến nghị: Bản thân tôi rất mong Ban giám hiệu tạo điều kiện cho giáo viên được giao lưu, tham quan học tập ở các trường bạn trong và ngoài tỉnh nhiều hơn nữa những phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục mới nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Những phương pháp và biện pháp, hình thức mà tôi thực hiện trên đây chắc chắn sẽ có những hạn chế, tôi mong được sự góp ý của Ban giám hiệu và các chị em đồng nghiệp để tôi hoàn thành tốt công việc mà tôi đang thực hiện . Phường 3, ngày 02 tháng 6 năm 2020 Người viết Gv: Tăng Thị Cẩm Vân 10 Lớp: Nhà trẻ
  11. Một số giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tại trường Mầm Non 3 Tăng Thị Cẩm Vân NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG Đề tài: “Một số giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tại trường Mầm Non 3” của Bà: Tăng Thị Cẩm Vân. Chức vụ: Giáo viên. SKKN này đã áp dụng trong nhà trường đạt hiệu quả cao và được thông qua Hội đồng khoa học của Trường Mầm Non 3 được đánh giá vào ngày 09/6/2020 Đạt ………điểm; Xếp loại:…….. TM. HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG HIỆU TRƯỞNG NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA HĐKH TP VĨNH LONG (Phòng GD&ĐT) SKKN: “Một số giải pháp phát triển vốn từ cho trẻ 24 – 36 tháng tại trường Mầm Non 3” Của Bà: Tăng Thị Cẩm Vân đã được thông qua Hội đồng khoa học của Phòng GD&ĐT TP Vĩnh Long:…………. đánh giá vào ngày..…/…../2020 Đạt ………điểm; Xếp loại:……….. TM. HỘI ĐỘNG KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT TRƯỞNG PHÒNG Ngô Thanh Sơn Gv: Tăng Thị Cẩm Vân 11 Lớp: Nhà trẻ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2