intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp giúp trẻ 3-4 tuổi học tốt tiết khám phá khoa học

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:34

11
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non được hoàn thành với mục tiêu nhằm tìm ra những giải pháp thiết thực và có hiệu quả để giúp trẻ 3-4 tuổi học tốt tiết” Khám phá khoa học”.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp giúp trẻ 3-4 tuổi học tốt tiết khám phá khoa học

  1. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP TRẺ 3 ­ 4 TUỔI  HỌC TỐT TIẾT  KHÁM PHÁ KHOA HỌC
  2. Quảng Bình, tháng 05 năm 2020 2
  3.                                                   CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP TRẺ 3­4 TUỔI  HỌC TỐT TIẾT KHÁM PHÁ KHOA HỌC Họ tên:                Nguyễn Thị Lệ Ninh                               Chức vụ:              Giáo viên                                Đơn vị công tác: Trường Mầm non Hồng Thủy 3
  4. Quảng Bình, tháng 5 năm 2020                                                1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài:       Giáo dục Mầm Non là ngành học mở đầu trong hệ thống giáo dục quốc  dân, có nhiệm vụ xây dựng những cơ sở ban đầu, đặt nền móng cho việc hình  thành nhân cách con người. Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là  tương lai của mỗi dân tộc, việc bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ là trách  nhiệm của nhà  nước, của toàn xã hội và của mỗi gia đình       Đây là thời điểm mấu chốt và quan trọng nhất, thời điểm này tất cả mọi  việc đều bắt đầu: bắt đầu ăn, bắt đầu nói, bắt đầu nghe, nhìn và... Chính vì  vậy trẻ em như tờ giấy trắng mà cha mẹ các con rất kỳ vọng vào sự tô vẽ của  thầy cô. Bậc học mầm non là bậc học đầu tiên của trẻ, có thể nói việc hình  thành, rèn luyện ở trẻ những nhân cách ban đầu để trẻ trở thành công dân tý  hon hoàn thiện như: Cơ thể khỏe mạnh, thông minh nhanh nhẹn, ngoan ngoãn  lễ phép, Có những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống.... đó chính là trách nhiệm  của giáo viên mầm non.           Đối với trẻ nhỏ, mọi sự vật hiện tượng tự nhiên luôn là điều hấp dẫn  nhưng cũng thật lạ lẫm khó hiểu mà trẻ tò mò muốn biết, muốn được khám  phá trong suốt cuộc đời và C.Mác cho rằng “Tự nhiên là nguồn gốc của các tri  thức cụ thể đầu tiên của con người và nó thường để lại cho chúng ta cảm giác  sung sướng được lưu giữ suốt đời”. Chính vì vậy “khám phá khoa học” được  coi là một nội dung cơ bản trong chương trình giáo dục mầm non có ý nghĩa vô  cùng quan trọng và cần thiết  đối với trẻ, hoạt động này góp phần tích cực  4
  5. trong việc giúp trẻ phát triển toàn diện các lĩnh vực như nhận thức, ngôn ngữ,  tình cảm xã hội, thẩm mỹ và thể lực....Khám phá khoa học giúp trẻ mở rộng  vốn hiểu biết về sự vật hiện tượng tự nhiên, đây là cơ sở để trẻ giải quyết  những tình huống trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, tham gia vào các hoạt  động đa dạng và phong phú khác ở trường mầm non như hoạt động tạo hình,  hoạt động làm quen với toán..., đồng thời còn là những kiến thức khoa học sau  này ở trường phổ thông. Mặt khác “khám phá khoa học” còn giúp trẻ phát triển  các quá trình nhận thức như cảm giác, tri giác, các thao tác tư duy, cũng như  góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất của trí tuệ góp phần không  nhỏ vào việc hình thành và phát triển các kỹ năng nhận thức.           Đặc biệt đối với trẻ 3­ 4 tuổi “Khám phá khoa học” không chỉ giúp trẻ  phát triển các giác quan, kích thích nhu cầu và hứng thú nhận thức, mà còn thoả  mãn tính ham hiểu biết, tích cực tìm tòi, khám phá trải nghiệm nhằm phát hiện  những cái mới, những cái ẩn dấu bên trong các sự vật hiện tượng, từ đó giúp  trẻ hình thành  những khái niệm sơ đẳng ban đầu.  Do đó, nhiệm vụ của chúng  ta là phải hình thành củng cố mở rộng vốn tri thức của trẻ, đồng thời phải rèn  luyện và phát triển các năng lực và hành vi ứng xử đúng đắn với môi trường tự  nhiên.           Góp phần vào việc phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ sau này Vì vậy giáo viên là người đầu tiên tạo môi trường, điều kiện học tập tốt cho  trẻ, chủ  động sáng tạo trong việc tổ  chức các hoạt động nhằm giúp trẻ  húng thú  tham gia vào hoạt động, có như  vậy hiệu quả  của tiết khám phá khoa học đạt kết  quả cao. Trên thực tiễn cho thấy các tiết học khám phá khoa học cho trẻ 3­ 4 tuổi còn   nghèo nàn thiếu sự sáng tạo mới lạ nên trẻ chưa hứng thú vào tiết học.      Với tình hình thực tế tại lớp đang phụ trách tôi nhận thức sâu sắc và xác định rõ  những việc cần làm ngay đối với trẻ  để  giúp trẻ  3 ­ 4 tuổi học tốt loại tiết “Khám   phá khoa học” cho trẻ mầm non nói chung và trẻ lớp tôi đang phụ trách nói riêng. Vì   5
  6. vậy tôi mạnh dạn đưa ra " Một số  giải pháp giúp trẻ  3­4 tuổi học tốt tiết khám   phá khoa học” trong lỉnh vực phát triển nhận thức.     *1.2.Điểm mới của sáng kiến :            Sáng kiến kinh nghiệm “Một số giải pháp giúp trẻ 3­ 4 tuổi học tốt tiết: Khám   phá khoa học” là sáng kiến mới lần đầu tiên tôi nghiên cứu để tìm ra những giải pháp  thiết thực và có hiệu quả  để  giúp trẻ  3­4 tuổi học tốt tiết” Khám phá khoa học”.   Trong quá trình thực hiện ngoài những mặt mạnh vẫn còn bộc lộ một số hạn chế và  bất cập trong việc cho trẻ khám phá khoa học trong độ  tuổi 3­ 4 tuổi. Chính vì vậy   cần tiếp tục đi sâu vào việc nghiên cứu các giải pháp mới có tính hệ  thống để  giúp   trẻ học tốt tiết khám phá khoa học. Trong đó tập trung vào các nội dung:           ­ Tìm hiểu đặc điểm nhận thức của trẻ. ­ Tạo điều kiện cho trẻ tìm tòi, khám phá, trải nghiệm, học hỏi. ­ Tổ chức hoạt động nhận thức về khám phá khoa học thông qua tiết học. ­ Làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt động.           ­ Làm tốt công tác phối kết hợp với phụ huynh và cộng đồng  ­ Tăng cường trò chuyện với những trẻ còn rụt rè, thiếu mạnh dạn nhằm giúp  trẻ tự tin hơn trong giao tiếp với mọi người xung quanh.            Đây là những vấn đề trọng tâm mà bản thân tôi muốn tiếp tục đi sâu nghiên   cứu. 1.3. Phạm vi áp dụng đề tài:  Phạm vi mà đề tài đề cập đến là độ tuổi 3­4 tuổi ở trường Mầm non tôi đang  công tác giảng dạy.   Đề  tài này đã được ban giáo hiệu nhân rộng cho toàn trường thực hiện năm  học 2019 ­ 2020 và sẽ thực hiện cho các năm học kế tiếp.  Đề  tài nêu ra những giải pháp giúp trẻ  3­4 tuổi học tốt tiết "Khám phá khoa   học".                                               2. PHẦN NỘI DUNG: 6
  7. 2.1. Thực trạng trước khi nghiên cứu các biện pháp.         Thực tế trong quá trình chăm sóc các cháu hằng ngày với độ tuổi 3 ­ 4 tuổi bản   thân tôi ngoài việc nắm vững những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, xác định  những mục tiêu và nội dung chương trình về chương trình giáo dục mầm non làm cơ  sở, tôi còn phải hiểu được tình hình thực tiễn của địa phương, của trường và lớp  mình đang công tác, để khai thác những cái hay, cái đẹp nhằm giáo dục tinh thần cho   các cháu. Khi được khám phá khoa học, giúp trẻ  say mê khám phá, phát triển tính sáng tạo và   mở  rộng kiến thức cho trẻ, phát triển tư  duy, ngôn ngữ, củng cố  các kĩ năng nhận  thức, rèn khả  năng tri giác, phân tích, so sánh, tổng hợp, hình thành những xúc cảm,  tình cảm tích cực cũng như cung cấp kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi cho   trẻ.  Từ  đó ngôn ngữ  của trẻ  phát triển trẻ  nói năng mạch lạc hơn, vốn từ  của trẻ  phong phú và đa dạng hơn, trẻ biết sử dụng từ chính xác, biết mạnh dạn hơn, nhằm  phát triển ở trẻ tình cảm kỷ năng xã hội và kỷ năng giao tiếp tốt hơn. Hình thành cho  trẻ hành vi văn minh trong cuộc sống, trong quan hệ với mọi người. Vì vậy, giáo viên  là người đóng vai trò chủ đạo, người tổ chức, hướng lái dẫn dắt trẻ khám phá khoa   học  một cách chủ  động, sáng tạo. Đồng thời giáo viên cũng cần hòa nhập với trẻ,  tham gia các hoạt động với trẻ lôi cuốn trẻ tích cực, hứng thú  tham gia vào các hoạt   động, tổ chức tốt các hoạt động cho trẻ. Để thực hiện được điều đó, giáo viên mầm  non phải có kiến thức khoa học về nuôi dạy trẻ hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ,  có vốn kiến thức phong phú phải nắm được mục đích, yêu cầu về  kiến thức, kỷ  năng, giáo dục của từng bài để  truyền thụ cho trẻ  có hệ  thống, chính xác, đảm bảo  được yêu cầu của bài học và khả  năng nhận thức của trẻ. Trẻ  sinh ra được sống  trong nền văn minh nhân loại. Môi trường xã hội vô cùng phong phú, đa dạng hấp  dẫn trẻ, bao bọc quanh trẻ. Trong khi đó khả năng vận động, hoạt động của trẻ còn   nhiều hạn chế, ngôn ngữ  của trẻ chưa phát triển, vốn từ  của trẻ còn nghèo. Vì vậy   cô giáo phải thường xuyên  tổ chức cho trẻ khám phá khoa học xung quanh trẻ. 7
  8.        Từ  khi trẻ  ra đời đã muốn ngắm nhìn xung quanh như    khi chỉ  mới 2 tháng tuổi  trẻ đã hứng thú đưa mắt nhìn theo những quả bóng bay xanh – đỏ  treo trước mắt và   tò mò đưa tay với, ….. Càng lớn, nhu cầu đó càng tăng lên bằng việc bắt chước  giọng điệu người lớn (thích mặc quần áo, đeo dép của mẹ…), làm những công việc  của người lớn hay với trẻ 3­ 4 tuổi  đã có trẻ liên tục hỏi những câu hỏi về thế giới   xung quanh như: “Tại sao lại có trời ? gió  ở  đâu đến? con sinh ra như  thế  nào?....”   chính là lúc nhu cầu khám phá thế  giới xung quanh của trẻ càng cao.   Nhưng vì trẻ   nhỏ   chưa   có   vốn   sống,   vốn   kinh   nghiệm, sự  trải nghiệm còn ít,   trẻ   chưa   tự   khám  phá  về  thế  giới xung quanh nên người lớn phải giúp đỡ  trẻ,  phải tổ  chức,  hướng dẫn trẻ tham gia vào các hoạt động nhằm cho trẻ làm quen, khám phá về môi  trường xung quanh.  Khi  trẻ  được  làm  quen  với  thế  giới  xung  quanh  sẽ  giúp   trẻ  tích  lũy được  kiến thức,  kĩ năng về tự nhiên và xã hội,   giúp trẻ được phát triển  về các mặt: Đức – Trí ­ Thể ­ Mĩ ­ Lao động. Thông qua việc tổ chức cho trẻ được  hoạt động khám phá, trẻ sẽ được phát triển toàn diện các mặt,   nhân cách được hình  thành và phát triển. Đây là mục đích hàng đầu của giáo dục nói chung và Giáo dục   mầm non nói riêng.  Với ý nghĩa thiết thực và quan trọng như vậy, bản thân tôi đã trải qua một quá   trình nghiên cứu tìm tòi, học hỏi và vận dụng "Một số giải pháp giúp trẻ 3­4 tuổi học   tốt tiết khám phá khoa học"        * Thực hiện nhiệm vụ năm học 2019­2020, bản thân tôi được BGH  nhà trường  phân công đứng lớp 3­4 tuổi với tổng số 33 cháu. Qua quá trình thực hiện bản thân tôi  nhận thấy một số thuận lợi và khó khăn như sau:          *.Thuận lợi:    ­ Được sự quan tâm và chỉ đạo của các cấp lãnh đạo như Sở GD&ĐT, Phòng   GD&ĐT Lệ  Thủy, đặc biệt là Ban giám hiệu nhà trường luôn bồi dưỡng chuyên  môn, nghiệp vụ  cho giáo viên. Nhà trường đã xây dựng tất cả  các lớp về  tạo môi   8
  9. trường thân thiện trong và ngoài lớp. Đồ dùng đồ chơi trang thiết bị phục vụ cho lỉnh   vực phát triển nhận thức loại tiết “ khám phá khoa học” khá đầy đủ.  ­ Giáo viên: Hai giáo viên đứng lớp đều có trình độ Đại học, nhiệt tình, yêu trẻ. ­ Bản thân được tham dự lớp tập huấn, các tiết thao giảng của cụm, của trường   tổ  chức nên nắm chắc phương pháp về  MTXQ Khám phá khoa học khá vững vàng,  luôn trau dồi kiến thức học hỏi kinh nghiệm của chị em trong tr ường để  nâng cao  trình độ  chuyên môn, có ý thức phấn đấu và rèn luyện tác phong sư  phạm của một  người giáo viên. ­ Phụ  huynh  ở  đây có truyền thống hiếu học, luôn quan tâm đến con em mình  đưa đón trẻ thường xuyên tạo điều kiện cho việc tuyên truyền phối kết hợp với gia  đình­ nhà trường trong việc chăm sóc giáo dục trẻ  tốt hơn. Luôn  ủng hộ  nhiệt tình  các hoạt động, phong trào của trường, lớp. Kết hợp với giáo viên để  giúp trẻ khám  phá khoa học cho trẻ đạt kết quả tốt. Tuy vậy nhưng khi bước vào thực hiện bản thân tôi cũng gặp phải những khó   khăn như sau:            * Khó khăn:  ­ Trình độ  nhận thức của trẻ  không đồng đều, một số  trẻ  chưa hứng thú vào  giờ học.  ­ Một số trẻ lần đầu tiên mới đến trường, chưa qua lớp nhà trẻ. ­ Một số trẻ còn rụt rè, nhút nhát, khả năng diễn đạt về ngôn ngữ và giao tiếp  còn hạn chế. ­ Đồ dùng tự tạo để trẻ khám phá khoa học còn nghèo nàn, chưa xây dựng khu  vui chơi để trẻ khám phá, trải nghiệm, quan sát... ­ Là địa bàn ven biển nên đời sống của phụ  huynh còn nhiều thiếu thốn suốt   ngày bận rộn với công việc đồng áng, nên một số  phụ  huynh chưa dành thời gian  thích đáng để tìm hiểu nắm bắt nhu cầu về ngôn ngữ của trẻ, ít trò chuyện với trẻ, ít  quan tâm chăm lo cho con cái.  9
  10. * Nguyên nhân:           ­ Trẻ ở độ tuổi này đặc điểm tâm sinh lý của một số trẻ phát triển chưa hoàn   chỉnh, trẻ  ít giao tiếp với mọi người xung quanh và khả  năng khám phá trải nghiệm  của trẻ còn rụt rè nên khi vào tiết học trẻ không hứng thú.            ­ Do phong tục tập quán của địa phương và  ngôn ngữ của phụ huynh còn sử  dụng rất nhiều tiếng địa phương, ít giao tiếp với trẻ  bằng tiếng phổ  thông cũng có  phần ảnh hưởng đến ngôn ngữ của trẻ.  ­ Do điều kiện kinh tế của địa phương còn nghèo nên đời sống của phụ  huynh   còn gặp nhiều khó khăn.            ­ Do nhận thức của một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học   của trẻ. Các tài liệu tham khảo về khám phá khoa học còn ít.         Vốn hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh còn nghèo nàn.          Kỹ năng quan sát, phân tích, so sánh, tổng hợp ở trẻ còn chưa đồng đều. Giáo viên còn nhiều hạn chế về phương pháp tổ chức  các hoạt động khám phá  khoa học đa dạng, phong phú cho trẻ. Xuất phát từ những thuận lợi và khó khăn trên, tôi luôn trăn trở mình phải làm   thế nào để giúp trẻ học thật tốt bộ môn khám phá khoa học, tôi đã không ngừng suy   nghĩ và sáng tạo, để  tìm ra những cách thức, phương pháp giảng dạy và tạo ra môi   trường học tập tốt nhất cho trẻ. Bằng tất cả  sự  nỗ  lực, cố gắng đó, tôi cảm thấy  một phần nào ý nguyện của mình đã thực hiện được,  mai này biết đâu đó những  “mầm non” ấy sẽ tiếp tục là những nhà khoa học khám phá ra những điều kì vĩ hơn  nữa. Để có biện pháp giáo dục tốt nhất trong quá trình giúp trẻ khám phá khoa học cho   trẻ nên tôi đã tiến hành khảo sát trên trẻ ở lớp tôi ở đầu năm học qua những tiêu chí   sau: 10
  11.           Bảng A: Đánh giá đầu năm học 2019 – 2020     Tổng số trẻ  khảo sát: 33 cháu, đạt 100% Nội dung Tốt Khá TB Yếu   Số  Tỉ lệ Số  Tỉ lệ Số  Tỉ lệ Số  Tỉ lệ trẻ trẻ trẻ trẻ  Trẻ tích cực tham gia khám phá 16 48,4% 8 24,2% 5 15,1% 4 12,1%   Trẻ  có khả  năng quan sát ghi  11 33,3% 10 30,3% 8 24,2% 4 12,1% nhớ   Trẻ   có   kỹ   năng: Phân   tích, so  9 27,2% 10 30,3% 7 21,2% 7 21,2% sánh, tổng hợp.            Kết quả thể hiện  ở bảng trên cho thấy kết quả hoạt động khám phá khoa học  ở trẻ chưa cao. Với khả năng, kinh nghiệm và sự hiểu biết của bản thân, tôi tin chắc  rằng mình sẽ giúp trẻ có được sự yêu thích, tích cực tham gia khám phá, có khả năng  quan sát, ghi nhớ và cao hơn nữa là trẻ có kĩ năng phân tích, so sánh, tổng hợp. . Chính vì vậy mà tôi đã tìm tòi nghiên cứu đưa ra "Một số giải pháp cho trẻ 3­4 tuổi   học tốt tiết khám phá khoa học" như sau:       2.2. Các giải pháp : 2.21:  Lập kế  hoạch tổ  chức cho trẻ  khám phá khoa học. Lựa chọn nội   dung khám phá ­ thí nghiệm phù hợp với khả năng của trẻ  Dựa trên kế hoạch năm học của nhà trường xây dựng và căn cứ vào nội dung trong   chương trình theo độ  tuổi, căn cứ  vào thời gian, thời điểm thực hiện bài tập  ở  vào  giai đoạn nào của chương trình năm học, căn cứ  vào mức độ  phát triển, khả  năng  thực tế  của trẻ, tôi đã xây dựng kế  hoạch nội dung khám phá cho trẻ, xác định độ  khó của từng bài tập và sắp xếp theo trình tự để đưa vào hướng dẫn trẻ cho phù hợp   đi từ  dễ  đến khó. Nội dung trong chương trình đã được trình phù hợp với từng chủ  11
  12. đề  chủ   điểm, phù hợp với các hoạt động khác và các sự   kiện. Khi lập được kế  hoạch tổ chức tôi thấy rất yên tâm và thực hiện rất hiệu quả. Để giúp trẻ khám phá khoa học đạt kết quả  tốt  thì việc lựa chọn nội dung khám phá  cũng như  những thí nghiệm phù hợp với khả  năng của trẻ  là rất cần thiết và quan  trọng. Do đó giáo viên cần quan sát và tìm hiểu khả năng của trẻ trong lớp để làm căn  cứ  xây dựng kế  hoạch hoạt động khám phá khoa học cho hợp lý và phù hợp với sự  nhận thức của trẻ. Đầu năm tôi chưa chú ý đến việc lựa chọn nội dung – thí nghiệm  cho trẻ  khám phá. Tôi thường chọn những nội dung khám phá quá cao so với    khả  năng nhận thức của trẻ  như: Hoạt động khám phá về  quy trình làm bánh trung thu  hay thí nghiệm pha màu nước.....để giao bài tập cho trẻ hoạt động dẫn đến đa số trẻ  trong lớp tôi không có kỹ năng khám phá, làm cho tiết học đạt kết quả không cao. Đứng trước tình trạng trên tôi đã đặt mục tiêu cho mình khi lập kế hoạch cho trẻ cần   có tính hệ  thống từ  đơn giản đến phức tạp, đồng thời mở  ra một hướng khám phá  mới cho các hoạt động tiếp theo. Ví dụ: Đầu năm tôi cho trẻ  làm thí nghiệm “Bong bóng bay” tôi cho trẻ  thổi những  quả  bóng rồi cho trẻ  cùng  chơi: Một bạn nói qua quả bóng còn một bạn bạn áp tai  vào quả bóng và nghe xem âm thanh bạn nói có gì thay đổi. Hay để biết được sự thay  đổi của âm thanh, tôi cho trẻ bịt tai lại hỏi trẻ có nghe thấy cô nói không và giọng nói   của cô có gì thay đổi không? Hình thức cho trẻ tự nói nên cảm nhận của riêng mình   giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn. Khi trẻ đã mạnh dạn hơn rồi tôi cho trẻ tham gia vào các thí nghiệm khó như ở chủ  đề bản thân tôi cho trẻ khám phá về các giác quan của trẻ (vị giác). Ví dụ: Khám phá  về  “vị  của nước” tôi chuẩn bị  cho mỗi trẻ  3 cốc nước, các đĩa đựng đường, muối,  một số  viên C sủi. Đầu tiên tôi cho trẻ quan sát và uống ly nước sôi cho trẻ  nói lên   cảm nhận của mình, có cháu nói nước không có vị gì, có cháu nói nước không có mùi,   cháu Gia Hân thì bảo nước không có màu gì. Tôi kết luận: Nước không màu, không  12
  13. mùi không vị. Và tôi hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta cho một thìa muối (đường,  viên C sủi) vào cốc nước, có trẻ  nói là nước sẽ  bị  mặn, có trẻ  lại cho rằng nước   ngọt, nước có vị chua,.... rồi yêu cầu trẻ cho 1 thìa muối vào ly nước và nếm thử. Lúc  này tôi thấy có trẻ thì nhăn mặt lại   Tôi hỏi tại sao? rất nhiều ý kiến khác nhau đưa  ra: Con thấy hơi mặn, con thấy rất mặn, con thấy chua vì con cho viên C sủi vào.......   Cuối cùng tôi đưa ra một kết luận: Nước có thể thay đổi về  vị tuỳ theo chúng ta cho  thêm đường hoặc muối hay nước cam, chanh...  Bên cạnh đó tôi luôn quan sát và tìm hiểu khả năng của từng trẻ trong lớp thông qua   quá trình trẻ  thực hiện các hoạt động. Từ  đó tôi đánh dấu những trẻ  cần được đưa  những câu hỏi và những trẻ sẽ trả lời những câu hỏi khó hơn hoặc thực hiện những   bài tập phức tạp hơn để  tránh tình trạng những trẻ  nhận thức hạn chế  cũng thực   hiện những bài tập khó giống như  những trẻ  có khả  năng nhận thức tốt, dẫn đến  những trẻ đó thường bị thụ động không mạnh dạn tự tin khi tham gia vào hoạt động  khám phá cùng bạn.  Như trong chủ đề “Bản thân” cháu Quốc Bảo sự nhận thức còn   hạn chế,  tôi đưa câu hỏi dễ như tác dụng của các giác quan (Mắt có tác dụng gì?Mũi  dùng để làm gì?...) để trẻ trả lời được, từ  đó tạo cho trẻ  cảm giác thành công trong   công việc giúp trẻ  bạo dạn và tự  tin vào bản thân mình hơn. Còn cháu Gia Bảo sự  nhận thức cũng như tư duy của trẻ phát triển tốt tôi đặt ra những bài tập hay câu hỏi   khó như: Tôi hỏi: Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta bịt mũi lại? hay tại sao con lại nghĩ   số  người và số  khăn mặt lại bằng nhau?... để  tránh  gây cho trẻ sự nhàm chán trong  quá trình khám phá.           Nhờ vào việc lựa chọn nội dung khám phá – thí nghiệm   cũng như việc đặt câu  hỏi phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ  mà tôi thấy các hoạt động khám phá tôi  đưa ra cho trẻ  đều được trẻ  hưởng  ứng nhiệt tình. Trẻ  lớp tôi đã mạnh dạn, tự  tin   hơn trong việc thảo luận cũng như  tìm ra kết quả  nhanh nhất để  hoàn thành công  việc mình đang làm.   2.2.2: Dạy trẻ khám phá khoa học trong giờ hoạt động chung: 13
  14.      Đầu năm ở các tiết học khám phá tôi tôi vẫn thường ôm đồm nhiều nội dung trong  một hoạt động khám phá và tôi vẫn nói nhiều. Điều này làm cho các hoạt động khám  phá trở  nên nặng nề, quá tải, trẻ  không được tham gia các hoạt động khám phá phù   hợp với khả năng. Vì vậy không có cơ hội phát triển ở trẻ khả năng nhận thức, khám   phá. Hơn nữa tôi chỉ sử dụng tranh ảnh  rồi đặt các câu hỏi và trả lời của trẻ, cũng có  khi tôi lại là người nói còn trẻ chỉ nghe một cách thụ động, dẫn đến giờ học trở nên  nhàm chán, không đạt kết quả  cao. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn sử  dụng vật thật  kích thích các giác quan của trẻ hoạt động, trẻ  được trực tiếp quan sát, phân tích so  sánh tự mình rút ra một kết luận theo ý hiểu của riêng mình. Điều đó thực sự làm trẻ  thích thú và hứng thú tham gia vào hoạt động khám phá.      Ví dụ:  Ở  chủ  đề  thế giới động vật với bài khám phá khoa học: Một số  con vật   sống dưới nước (con cá, con tôm, con cua). Tôi cho trẻ  trực tiếp quan sát các đặc  điểm của con vật theo từng nhóm (Nhóm 1: Quan sát con cua, Nhóm 2: Quan sát con   cá,  Nhóm 3: Quan sát con tôm. Sau đó tôi cho trẻ tự nhận xét về các đặc điểm của chúng thông qua các câu hỏi: Con  đang quan sát con gì? Con thấy con cua có đặc điểm gì? Cháu Ngọc Thanh trả  lời:   Con thưa cô con cua có 2 cái càng và nhiều chân? Tôi lại hỏi: Bạn nào có ý kiến   khác ? Và rất nhiều ý kiến khác nhau mà trẻ đưa ra như: Con cua có mai?  hay cháu  Trà My nói: Con cua dùng chân để bò, cô trẻ hỏi: vì sao con cua lại bò ngang? Câu hỏi  ấy khiến nhiều trẻ  tò mò muốn biết, lúc này tôi hỏi lại câu hỏi đó cho cả  lớp cùng   thảo luận. Rất nhiều ý kiến khác nhau được đưa ra: Vì con cua có nhiều chân, vì con   cua có 2 càng, vì chân con cua  ở  2 bên...Đây là lúc tôi giúp trẻ  giải thích để  đi đến  một kết luận: Vì do cấu tạo của con cua, chân nó nằm ngang ở  hai bên nên nó phải   bò đi theo hướng ngang sang hai bên.  Không chỉ dừng lại ở việc cho trẻ khám phá về  đặc điểm của con vật mà tôi còn hỏi trẻ về môi trường sống của chúng. Ví dụ: Con   cá sống  ở  đâu? Tôi luôn đặt ra tình huống để   kích thích trẻ  tham gia tích cực vào  hoạt động khám phá khoa học. Ví dụ: Tôi vớt một con cá đặt lên khay và 1 con cá để  14
  15. trong chậu nước và hỏi trẻ  xem có hiện tượng gì xảy ra. Trẻ quan sát và thấy hiện  tượng: Con cá  ở  dưới  nước thì bơi được còn con cá  ở  trên khay thì nhảy và quẫy.  Tôi  hỏi : Tại sao lại có hiện tượng đó. Cháu Nhật Linh trả lời: Con thưa cô: Con cá   có vây thì bơi được ở dưới nước còn khi ở trên cạn cá không bơi được nên nó nhảy   và quẫy. Sau khi tình huống đã được giải quyết tôi khái quát lại một cách ngắn gọn:  Đúng rồi con cá có vây và thở bằng mang nên khi có nước con cá thở được và chúng  ta nhìn thấy những bong bóng sủi lên, còn khi ở trên cạn con cá sẽ  khó thở và sẽ  có   hiện tượng cá nhảy và quẫy, nếu để  lâu trên cạn con cá sẽ  bị  chết. Tôi thả  ngay cá   vào chậu nước tránh để trẻ nhìn thấy cá bị chết.       Song với bài dạy trên nếu chúng ta chỉ dừng lại  ở việc cho trẻ quan sát thì mục   tiêu của bài dạy mà tôi đưa ra cho trẻ  là không hiệu quả  như  mong muốn . Bởi vì   hoạt động khám phá đòi hỏi trẻ  không chỉ  biết quan sát, mô tả  lại đặc điểm của  chúng  mà còn phải biết phân tích so sánh  và tôi cho trẻ so sánh giữa các con vật      Ví dụ: Con cá và con cua. Đây chính là hình thức để tôi kích thích trẻ tham gia vào   quá trình phân tích so sánh giữa 2 đối tượng với hệ thống câu hỏi như: Con cá và con  cua có điểm gì giống và khác nhau? Rất nhiều ý kiến khác nhau đã được đưa ra: Con   cua có mai và có chân, con cá có vây và có đuôi;   con cua biết bò còn con cá biết  bơi.....Cuối cùng tôi khẳng định lại cho trẻ nghe về sự giống và khác nhau của con cá  và con cua nhằm khắc sâu những kiến thức mà trẻ vừa khám phá.      Để  biết được trẻ  nắm được   kiến thức đến đâu trong quá trình khám phá,   tôi  khuyến khích trẻ  mô tả, kể  lại những điều trẻ  phát hiện được dưới dạng một câu   chuyện hoặc bằng hình vẽ  và trong nhóm có thể  bổ  sung cho nhau. Trong quá trình  thể hiện lại là trẻ đã đang tổng hợp lại những kiến thức mà trẻ  vừa được quan sát,  phân tích, so sánh. Trên cơ sở đó tôi phát hiện được khả năng quan sát, phân tích   của  từng trẻ để củng cố và bổ  sung cho trẻ ở những giờ hoạt động khác. Với hình thức  cho trẻ  được quan sát phân tích so sánh, giải quyết tình huống và trải nghiệm   như  15
  16. trên  tôi thấy trẻ lớp tôi sôi nổi hứng thú đưa ra những nhận xét đánh giá khác nhau,   giúp cho giờ học đạt kết quả cao.             Như  vậy trong một giờ  học trẻ  được tham gia vào các các dạng hoạt động    khám phá khác nhau: từ quan sát trải nghiệm, thảo luận trao đổi, nhận xét, so sánh,  tổng hợp....Điều đó giúp cho việc tích lũy kinh nghiệm và phát triển kỹ năng của trẻ  được hiệu quả mà lại không tạo sự nhàm chán và căng thẳng đối với trẻ.            Ngoài tiết học chính về hoạt động khám phá thì các tiết học khác tôi cũng có  thể lồng ghép cho trẻ khám phá khoa học như ở hoạt động làm quen với văn học tôi  cho trẻ  khám phá “Vòng tuần hoàn của nước” thông qua câu chuyện “Giọt nước tí   xíu”. Hay  ở hoạt động tạo hình cho trẻ  pha màu nước, trẻ  luôn đặt  ra câu hỏi: Tại  sao màu này pha với màu kia lại thành màu khác? Lúc này trẻ được pha màu nước để  tô vẽ bức tranh đồng thời trẻ đã phát hiện ra: màu vàng  pha với màu xanh nước biển  ra màu xanh lá cây; màu đỏ với màu vàng thì ra màu cam;......Với hình thức này trẻ sẽ  tích lũy được nhiều kinh nghiệm cũng như vốn hiểu biết về thế giới xung quanh sẽ  góp phần không nhỏ vào các hoạt động khám phá khoa học đạt kết quả tốt hơn.            Được trực tiếp làm các thí nghiệm với các vật mà mình đang học quả là điều   thích thú đối với trẻ. Nếu trước đây trên tiết học tôi chỉ dạy những bài khám phá đơn   giản, chỉ sử dụng tranh  ảnh, thì tiết học không đạt kết quả cao. Vì vậy tôi đã mạnh   dạn đưa những thí nghiệm nhỏ vào trong tiết dạy.           Ví dụ: Thí nghiệm1: Vật chìm vật nổi           Tôi chia trẻ  thành 2 nhóm và chuẩn bị  cho mỗi nhóm  một chậu nước, và các  đồ vật khác nhau: sỏi, cát, viên bi, lá cây, bóng nhựa, bông hoa,…Đầu tiên tôi yêu cầu   trẻ cầm, nắm, sờ các đồ vật tôi đó rồi tôi  thảo luận với trẻ những vật nào nổi, vật  nào chìm. Cháu Ngọc Tùng bảo bông hoa chìm, nhưng cháu Ánh Nguyệt lại bảo bông   hoa nổi. Sau đó tôi ghi lại các ý kiến của trẻ để xem trẻ nào nói đúng, trẻ nào nói sai.   Với tôi câu trả lời của trẻ đúng – sai không quan trọng bằng việc biết được trẻ  suy   16
  17. nghĩ và tìm ra  kết quả đó bằng cách nào. Để biết được trẻ nào đúng trẻ  nào sai, tôi  yêu cầu trẻ  hãy lấy một số đồ  vật thả  vào chậu nước, và quan sát xem vật nào nổi  vật nào chìm? Tôi hỏi trẻ các con quan sát xem vật nào nổi lên mặt nước, trẻ trả lời :   Xốp, lá cây, quả  bóng nhựa, miếng gỗ, viên sỏi, hòn bi… Vì sao các vật đó lại nổi  được? Rất nhiều ý kiến trả lời khác nhau, có trẻ trả lời là do lá cây nhẹ, lá cây không  thấm nước, ….. Vậy các con hãy quan sát xem  những vật nào chìm và vì sao?  Bạn  Gia Hân nói : “Con thưa cô, Con thấy hòn sỏi bị chìm vì hòn sỏi nặng” hay “Con thấy   hòn bi cũng chìm vì hòn bi hình tròn và nặng hơn cái lá cây”… Với hình thức này tôi   thấy trẻ được trải nghiệm, được thử ­ sai và cuối cùng tự mình tìm ra được một kết  quả nào đó trẻ sẽ cảm thấy sung sướng.   Hay với bài dạy về “không khí”, Tôi cho trẻ làm thí nghiệm dưới hình thức tổ chức   các trò chơi.           Trò chơi 1: “Bịt mũi” tôi và cả lớp cùng làm động tác bịt mũi, miệng mím lại và   cho trẻ nói cảm nhận của mình  khi bịt mũi, đa số các cháu trả lời: thấy rất khó chịu,   không thở được. Vậy làm thế nào để thở được?  Cháu Minh Khang trả lời: Con thưa  cô muốn thở được phải bỏ tay ra, tôi nói: Chúng ta thở  được là nhờ  có không khí và   tôi đặt ra vấn đề cho trẻ giải quyết như: Không khí có ở đâu? cháu Huyền My thì nói   con không biết, cháu Hà My thì nói không khí ở đây? Tôi hỏi vì sao con biết là ở đây  có không khí thì cháu trả  lời: Vì con thở  được. Để  xem bạn nói có đúng không, tôi  cho trẻ đứng ở trong lớp, ngoài cửa, ngoài sân và hỏi trẻ có thở được không? Rồi tôi   kết luận: Không khí có ở xung quanh chúng ta. Tôi tiếp tục đặt ra tình huống “Chúng  ta có nhìn thấy không khí không?”   “Có bắt được không khí không?” có cháu nói  không bắt được, có cháu nói có bắt được, vậy làm thế  nào để  bắt được không khí?  rất nhiều ý kiến khác nhau đưa ra: Lấy ly, lấy chai, lấy   túi nilông.... để  bắt không  khí.           Trò chơi 2:  “Vợt không khí” 17
  18.            Tôi phát cho mỗi trẻ  một túi ni lông và yêu cầu trẻ  vợt không khí vào túi rồi  buộc lại và quan sát xem có hiện tượng gì xảy ra. Trẻ  nói: Túi phồng to giống như  quả bóng. Tôi hỏi: Vì sao túi lại phồng?... Tôi giải thích cho trẻ biết “Vì trong túi có   không khí”. Để biết điều đó có chính xác không, tôi chia trẻ làm 2 nhóm. Nhóm 1 tôi  cho trẻ dùng tăm chọc vào túi ni lông rồi áp vào má,   hỏi trẻ cảm thấy thế nào? (mát,  có gió...), Nhóm 2 tôi cho trẻ  dùng tăm chọc túi nilông và thả  xuống chậu nước và  thấy hiện tượng gì xảy ra (bong bóng nổi lên) Vì sao? Vì trong túi nilông có không  khí....... Cứ như vậy giờ thí nghiệm trở nên sôi động và trẻ rất vui, hứng thú say sưa  tìm hiểu để rút ra được kết luận: Không khí có tất cả xung quanh chúng ta, không khí  không có màu, không nhìn thấy được, nhờ không khí mà con người mới thở được .....   Như  vậy là trẻ đã được trực tiếp quan sát, tự  mình, trải nghiệm suy đoán, phân tích  và tìm ra một kết luận mà mình cho là đúng và khi thí nghiệm thành công, tôi thấy   trên khuôn mặt trẻ hiện rõ vẻ thích thú, phấn khởi vô cùng. Với thí nghiệm nhỏ này   tôi thấy vui và trẻ lớp tôi đã thực sự chủ động khi làm công việc thí nghiệm, giúp trẻ  tự  tin, tự  lập suy nghĩ , tự  tìm ra kết quả  nhanh nhất để  hoàn thành công việc mình  đang làm.   2.2.3: Khám phá khoa học ở moi luc, moi n ̣ ́ ̣ ơi: Không chỉ  cho tre khám phá khoa ̉  học vao cac gi ̀ ́ ờ hoat đông chung mà tôi còn cho ̣ ̣   trẻ khám phá khoa học  ở mọi lúc mọi nơi, những nội dung tôi cho trẻ  khám phá tùy  thuộc từng chủ đề       Ví dụ: Ở hoạt động ngoài trời với chủ đề “Thế giới thực vật”. Tôi cho trẻ khám  phá “sự  sinh trưởng của cây”, để  trẻ  thấy được quá trình lớn lên của cây. Ngay từ  đầu chủ đề tôi đã chuẩn bị sẵn những thùng chứa đất tơi xốp: Nhóm thì gieo hạt đỗ,   nhóm thì gieo hạt ngô, nhóm thì gieo hạt rau cải.....Tôi yêu cầu trẻ hàng ngày chúng ta  chỉ  tưới nước cho chậu gieo đỗ  và chậu gieo hạt ngô, còn chậu gieo cây rau cải thì  không tưới nước để vào gậm cầu thang?. để xem điều gì sẽ  xảy ra. Tôi thấy trẻ lớp  tôi rất tò mò, muốn biết điều gì sẽ xảy ra với 3 chậu cây vừa gieo hạt. Một tuần sau   18
  19. tôi mang 3 chậu cây ra cho trẻ  cùng quan sát, trẻ  nào cũng ngạc nhiên hỏi:  Tại sao  cây đỗ  mọc lên mà hạt vẫn  ở  trên rồi mới mọc ra 2 cái lá còn cây ngô thì lại mọc   thẳng lên và ra lá? Hay cháu Gia Hưng nói “Tại sao chậu hạt rau cải của mình lại   không mọc lên nhỉ?” Những câu hỏi này đã được trẻ  thảo luận rất sôi nổi, có cháu   bảo vì hàng ngày chậu hạt cải không được tưới nước giống như cây đỗ  và cây ngô,   có   cháu   lại   bảo:   Chắc   là   ông   mặt   trời   không   chiếu   ánh   sáng   cho   chậu   hạt   rau  cải,...Như vậy trong quá trình trẻ trải ngiệm quan sát, trẻ không chỉ nhận ra được sự  khác nhau giữa cây này và cây khác, mà còn hiểu được cây lớn lên và sống được cần   có ánh nắng mặt trời, không khí và sự  chăm sóc của con người như  tưới nước cho   cây......Điều đó chứng tỏ rằng trẻ đã có những kinh nghiệm ban đầu về quá trình sinh   trưởng của cây, cây cần gì để duy trì sự sống….        Cũng có khi tôi cho trẻ  làm những thí nghiệm nhỏ   ở  ngoài sân trường như  thí  nghiệm “Tan hay không tan”. Ở thí nghiệm này tôi chuẩn bị cho trẻ những chiếc cốc   đựng nước, các vật: muối, đường, cát, sỏi, vôi.....cũng giống như   ở  thí nghiệm “vật   chìm – vật nổi”, tôi cho trẻ sờ, cầm, nắm và dự đoán xem vật nào tan, vật nào không  tan rồi cho trẻ thực hành để  biết xem bạn nào nói đúng bạn nào nói sai. Sau khi trẻ  trải nghiệm trẻ đã rút ra được kết luận: những vật tan trong nước: Muối, đường,...,   còn những vật không tan được trong nước là: Cát, sỏi, .... Để  gây sự  hứng thú và tò   mò của trẻ tôi tập trung trẻ lại và thả  một cục vôi xuống nước xem điều gì sẽ  xảy   ra? đa số  trẻ  đều nói là dưới nước đang có hiện tượng sủi bọt, tôi cho trẻ  sờ  xung   quanh lọ  vôi và hỏi trẻ  cảm thấy thế  nào, trẻ  nói “Con thấy rất nóng”, lúc này tôi   mới giáo dục trẻ: khi thả  cục vôi xuống dưới nước sẽ  có hiện tượng sủi bọt, bên  ngoài bình vôi rất nóng vì vậy các con không chơi ở chỗ người ta tôi vôi. Đây là hình  thức tôi giúp trẻ  mở  rộng vốn hiểu biết về  bản chất của các sự  vật hiện tượng,  đồng thời giúp trẻ  giải quyết những tình huống diễn ra trong cuộc sống hàng ngày  một cách tự tin và biết tránh xa những nơi gây nguy hiểm cho bản thân. 19
  20.       Bên cạnh đó, hoạt động góc cũng góp phần không nhỏ  vào việc tích luỹ  cho trẻ  những kiến thức đơn giản, thực tế.           Các giờ  hoạt động chiều  tôi cho trẻ  khám phá khoa học thông qua những thí  nghiệm đơn giản      Ví dụ: Chỉ bằng 2 cốc nước tôi có thể thu hút trẻ  và giúp trẻ khám phá 1 số hiện   tượng đơn giản về nước thông qua 1 số  thí nghiệm như “Nước nóng – nước lạnh –   nước bốc hơi”, Thí nghiệm “Nhanh – chậm”, “Đổi màu”, hay thí nghiệm về “sự cần   thiết của không khí”. Tôi dùng 2 cây nến đang cháy và 1 chiếc cốc. Tôi hỏi điều gì sẽ  xảy ra khi cô úp chiếc cốc này vào cây nến để  cho trẻ  được phán đoán, có trẻ  nói:   Nến cháy to hơn, có cháu lại bảo nến tắt, có cháu lại bảo nến cháy nhỏ hơn... Sau đó   tôi làm cho trẻ  xem. Lúc này tôi mới đưa câu hỏi. Taị sao cây nến lại tắt để  trẻ  trả  lời, rồi tôi đi đến kết luận: Vì khi chiếc cốc úp vào bên trong đó kín không còn không  khí nữa nên cây nến không cháy được còn cây nến bên cạnh vẫn cháy bình thường   Hay trong giờ đón ­ trả trẻ  tôi tổ  chức trò chơi vừa dạy cho trẻ  những kinh nghiệm   nhỏ vừa tạo được hứng thú cho trẻ.       Ví dụ: Trò chơi “Gọi điện thoại”, cho trẻ  gọi điện thoại cho bạn bằng  ống bơ  sữa bò và hỏi trẻ khi được nghe qua ống bơ các con cảm nhận thế nào để trẻ đưa ra   những câu hỏi thắc mắc nhằm kích thích tính tò mò, ham hiểu biết nhằm phát triển  tư duy của trẻ.   2.2.4: Ứng dụng công nghệ thông tin vào các tiết dạy khám phá khoa học  Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, sự phát triển của hệ thống mạng cùng   với những tiện ích,  ứng dụng phong phú đã tạo nên một cuộc cách mạng trong mọi  người, mọi ngành và đặc biệt là giáo dục. Chính vì vậy ngay từ  cấp học mầm non   trẻ đã được làm quen với công nghệ thông tin như một phần của hoạt động giáo dục   không thể thiếu(chuyên đề công nghệ thông tin). Không chỉ với người lớn mà đối với  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2