intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi Khu Trại Quan, thông qua hoạt động nhận biết tập nói tại trường Mầm non Xuân Phúc

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:24

24
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Một số giải pháp nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi Khu Trại Quan, thông qua hoạt động nhận biết tập nói tại trường Mầm non Xuân Phúc" nhằm tìm ra một số giải pháp hay, hiệu quả để áp dụng vào thực tế khi giúp trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ một cách nhanh nhất. Thông qua “Lĩnh vực phát triển ngôn ngữ” giúp trẻ: Tăng thêm vốn từ cho trẻ; Giúp trẻ mở rộng tầm hiểu biết về thế giới xung quanh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số giải pháp nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi Khu Trại Quan, thông qua hoạt động nhận biết tập nói tại trường Mầm non Xuân Phúc

  1. Mục lục
  2. 1. Mở đầu 1.1. Lý do chọn đề tài Bác Hồ của chúng ta đã dạy “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn và bảo vệ nó”. Trong công tác giáo dục trẻ mầm non, chúng ta thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục trẻ thơ. Ngôn ngữ góp phần đào tạo các cháu trở thành những con người phát triển toàn diện. Hiện nay việc thực hiện đổi mới trong giáo dục mầm non đã và đang thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu nói chung, các cán bộ quản lý cũng như hầu hết giáo viên trong ngành học mầm non nói riêng. Chương trình giáo dục Mầm non đã triển khai thực hiện có hiệu quả việc đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới hình thức tổ chức nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ Mầm non. Tuy nhiên thực tế vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là việc đổi mới phương pháp giảng dạy chưa hiệu quả, sự lồng ghép tích hợp các hoạt động và các chuyên đề giáo dục cho trẻ còn nhiều hạn chế, nội dung còn đơn điệu, rườm rà, lúng túng chưa phù hợp với nội dung yêu cầu của chương trình. Giáo dục Mầm non có tác dụng cực kì quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam hiện đại. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang chuyển mình vươn lên đỉnh cao của thời đại Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước. Vì vậy để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển đi lên của xã hội thì việc cải tiến phương pháp giáo dục nhằm nâng cao chất lượng, khả năng nhận biết cho trẻ là một vấn đề hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên, mỗi đơn vị trường Mầm non. Để đảm bảo mục tiêu giáo dục thì trong trường Mầm non phải kết hợp song song việc chăm sóc thể lực và giáo dục trí tuệ cho trẻ. Để làm tốt được điều đó thì các hoạt động trong trường Mầm non cũng đóng một vai trò then chốt, trong đó không thể thiếu được hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Nó là một trong những hoạt động chính, giữ vị trí quan trọng trong giáo dục phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Ngôn ngữ chính là một trong những phương tiện thúc đẩy trẻ trở thành một thành viên của xã hội. Ở trẻ nhỏ nhu cầu giao tiếp của trẻ là rất lớn. Ngôn ngữ là công cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ nguyện vọng của mình để người lớn có thể chăm sóc, điều khiển và giáo dục trẻ. Ngôn ngữ là một điều kiện rất quan trọng để trẻ tham gia vào mọi hoạt động và trong hoạt động hình thành nhân cách. Sự phát triển chậm về mặt ngôn ngữ có ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của trẻ. Cho nên các nhà giáo dục cần phải đề ra nhiệm vụ, nội dung, phương pháp phát triển ngôn ngữ trẻ đúng lúc và phù hợp với lứa tuổi. Đối với trẻ 24-36 tháng tuổi vốn từ còn ít, mức độ hiểu nghĩa còn hạn chế, cách sử dụng từ chưa chính xác, trẻ còn nói ngọng, phát âm chưa chuẩn. Do đó việc phát triển làm giàu vốn từ cho trẻ, dạy trẻ nói năng lưu loát, phát âm đúng có kĩ năng trả lời một số câu hỏi, hiểu được yêu cầu đơn giản bằng lời nói là một điều rất quan trọng. Chính vì vậy người lớn cần phải chỉnh sửa uốn nắn kịp thời nhất là cô giáo. Ngày xưa ông cha ta có câu: “Trẻ lên ba cả nhà tập nói”. Là giáo viên mầm non, bản thân tôi nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ, trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ tôi có những suy nghĩ, trăn trở làm sao để phục vụ vào công tác giảng dạy các cháu phát âm chuẩn, chính xác tiếng việt. Xuất phát từ những yêu cầu trên tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng
  3. tuổi Khu Trại Quan, thông qua hoạt động nhận biết tập nói tại trường Mầm non Xuân Phúc” làm đề tài nghiên cứu của mình. 1.2. Mục đích nghiên cứu - Tìm ra một số giải pháp hay, hiệu quả để áp dụng vào thực tế khi giúp trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ một cách nhanh nhất. Thông qua “Lĩnh vực phát triển ngôn ngữ” giúp trẻ: + Tăng thêm vốn từ cho trẻ. + Giúp trẻ mở rộng tầm hiểu biết về thế giới xung quanh. + Luyện cho trẻ phát âm chuẩn, chính xác tiếng việt, nói được câu trọn vẹn đúng nghĩa. 1.3. Đối tượng nghiên cứu - Một số giải pháp nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi Khu Trại Quan, thông qua hoạt động nhận biết tập nói tại trường Mầm non Xuân Phúc. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Nhằm giúp có kiến thức một cách hệ thống về qui trình điều tra khảo sát trong thực tế. - Phương pháp thực nghiệm: Đưa ra một số yêu cầu khảo sát trên trẻ. - Nhóm phương pháp trực quan (Xem vật thật, quan sát tranh ảnh, tham quan, xem phim) - Nhóm phương pháp dùng lời (Trò chuyện, đàm thoại, giảng giải, đọc thơ, kể chuyện). - Nhóm phương pháp thực hành (Trò chơi học tập, lao động) - Phương pháp thống kê tổng kết rút kinh nghiệm: Tổng kết kinh nghiệm giáo dục là quá trình mô tả, phân tích so sánh, phân loại tổng hợp những kinh nghiệm giáo dục. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm Có thể nói nhân cách con người phải được đặt nền móng ngay từ buổi đầu tiên, chập chững bước vào đời. Ngày nay, chúng ta coi trọng Giáo dục mầm non, vì giáo dục mầm non là nền tảng của giáo dục, đó là những năm đầu cuộc đời của trẻ, nó có tầm quan trọng đặc biệt, vì thời kỳ này sự tăng trưởng và phát triển nhanh của cơ thể trẻ cũng như về trí tuệ, tình cảm, nhân cách được bắt đầu hình thành. Trẻ có phát triển tốt hay không là phụ thuộc vào người lớn xung quanh trẻ, đặc biệt là giáo viên mầm non, là người mẹ hiền thứ hai của trẻ. Giáo dục trẻ một cách toàn diện là một công việc vô cùng khó khăn, nó phải là cả một quá trình, đây là viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho việc xây dựng một tòa lâu đài trí tuệ. Chính vì vậy mà Bộ GD&ĐT đã đề ra mục tiêu của giáo dục Mầm non là phải trang bị cho trẻ những gì tốt nhất kể cả về vật chất và tinh thần nhằm phát triển toàn diện về nhân cách cho trẻ. Học thuyết Mác Lê-nin đã chỉ ra rằng: “Ngôn ngữ bắt đầu từ lao động, bắt nguồn từ nhu cầu giao tiếp giữa con người với con người trong lao động và trong cuộc sống”. Ở đứa trẻ ngôn ngữ phát triển trong nhu cầu giao tiếp giữa trẻ với thế giới xung quanh. Trẻ bắt chước mọi người và được mọi người dạy nói. Chính vì vậy trường Mầm non phải là nơi để phát triển lời nói chuẩn mực cho trẻ và cô giáo là tấm gương phản chiếu rõ nhất,
  4. ngôn ngữ phải rõ ràng, chính xác, cô giáo và người lớn phải sử dụng những từ có văn hóa, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Để hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách có hiệu quả chúng ta phải dựa vào đặc điểm phát triển tâm sinh lí trẻ: + Đặc điểm phát triển sinh lí Như chúng ta đã biết, quá trình phát triển về ngôn ngữ của trẻ thì đây là giai đoạn ngôn ngữ chủ động của trẻ bắt đầu xuất hiện. Chính vì thế trong quá trình phát triển ngôn ngữ trẻ còn mắc một số hạn chế sau: Giai đoạn này tư duy trực quan là chủ yếu, lời nói luôn luôn gắn liền với mọi hành động, đồ vật cụ thể thì trẻ mới hiểu được. Khi trẻ nói chủ yếu trẻ dựa vào những đặc điểm bên ngoài để nói. Trẻ phát âm chưa chính xác, trẻ còn hay nói ngọng, nói lắp + Đặc điểm phát triển tâm lý Ở giai đoạn này trẻ rất thích bắt chước người lớn. Ví dụ: Mẹ đang nhặt rau trẻ sẽ ngồi xuống xin nhặt rau cùng mẹ. Trẻ thích được người lớn khen, động viên kịp thời và thích những màu sắc sặc sỡ.Trẻ thường hay đặt ra những câu hỏi để người lớn trả lời như: Vì sao ? Tại sao ? Làm thế nào ?... Trên đây là những cơ sở lý luận của đề tài và đã giúp tôi căn cứ vào đó để tìm ra những giải pháp dạy trẻ sao cho thật phù hợp đối với hoạt động này. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 2.2.1. Thực trạng chung Trong năm học 2020-2021, quá trình chăm sóc trẻ 24-36 tháng tuổi, tôi nhận thấy cơ thể của trẻ còn yếu, trẻ chưa nói rõ, vốn từ của trẻ còn ít, khả năng nhận thức còn hạn chế. Phần nhiều các cháu đang sống trong môi trường chăm sóc, âu yếm, chiều chuộng trong vòng tay của bà, của mẹ và của những người thân yêu trong gia đình. Trẻ chưa thể hoà nhập với bạn bè, chưa quen với cô, chưa quen với nề nếp sinh hoạt tập thể, chưa có thói quen vệ sinh tự phục vụ bản thân. Muốn làm được điều đó người giáo viên phải có ý thức trau dồi ngôn ngữ, tự học, tự rèn luyện cho mình cách nói cần rõ ràng, ngắn gọn, chính xác, nói chuyện với trẻ đúng đắn, thân ái, lịch sự, thân thiện, cởi mở với trẻ. Vì vậy trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ tôi gặp những thuận lợi và khó khăn như sau: 2.2.2.Thuận lợi Năm học 2020-2021, tôi được phân công đứng lớp trẻ 24-36 tháng tuổi khu Trại Quan trường Mầm non Xuân Phúc. Ngay từ đầu năm học lớp tôi được ban giám hiệu nhà trường quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học. Mua sắm đầy đủ trang thiết bị dạy và học cho cô và trẻ. Môi trường trong và ngoài lớp sạch, đẹp, thân thiện gần gũi và an toàn đối với trẻ. Đặc biệt nhà trường đã phối hợp rất tốt đối với ban đại diện cha mẹ học sinh mua sắm các trang thiết bị dạy và học cho trẻ. Với đội ngũ Ban giám hiệu có thâm niên trong nghề nên trong công tác và điều hành phân công nhiệm vụ cho từng giáo viên hợp tình hợp lý đúng người đúng việc một cách khoa học hợp lý. - Bản thân là một giáo viên có tuổi nghề lâu năm, có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác giảng dạy, không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để phục vụ trong quá trình đứng lớp, bản thân tôi luôn tham khảo tài liệu, dự giờ đồng nghiệp để rút ra kinh nghiệm cho bản thân mình.
  5. - Bản thân tôi là người nói đúng, chuẩn tiếng phổ thông. Trong lớp học vẫn còn có một số trẻ là người dân tộc phát âm chưa chuẩn tiếng phổ thông, còn phát âm nhiều tiếng địa phương nên tôi luôn phải uốn nắn kịp thời. Trẻ khỏe mạnh, tích cực học tập và hứng thú hoạt động. Một lớp có chung một độ tuổi nên nhận thức của trẻ tương đối đồng đều. 2.2.3. Khó khăn Trường mầm non Xuân Phúc khá rộng, khu lẻ phân bố thành 4 khu, cách nhau quá xa, do mới xác nhập với xã Phúc Đường cũ, khó khăn cho việc quản lý của nhà trường và việc tuyên truyền của giáo viên tới các bậc phụ huynh. Do dịch codvit-19 kéo dài làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc dạy và học của cô và trẻ trường Mầm non Xuân Phúc nói riêng và các trường trong toàn Huyện nói chung. Do dịch bệnh kéo dài nên các bậc phụ huynh không cho con em mình đến lớp dẫn đến không duy trì được sỉ số trẻ. Học sinh của miền núi cũng đang còn nhiều hộ khó khăn nên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc tuyên truyền đóng góp, hay vận động cho trẻ đến trường. Đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số nhiều nên phát âm chưa chuẩn tiếng việt nên việc dạy trẻ cũng là một vấn đề nan giải cần phải quan tâm đến trẻ nhiều hơn. Trẻ đến lớp học còn nói tiếng địa phương, phát âm sai lệch ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu bài, ngôn ngữ mạch lạc của trẻ còn hạn chế (nói chưa đủ câu, nói trống không, nói lắp, nói ngọng, nói tiếng địa phương) nên ảnh hưởng rất lớn đến việc giao tiếp giữa cô và trẻ, giữa trẻ với trẻ với những người xung quanh. - Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến giáo dục mầm non đặc biệt là nhóm trẻ nhà trẻ. Còn một số ít phụ huynh chưa quan tâm đến con em mình, chưa nhiệt tình ủng hộ trong việc gom các nguyên vật liệu để làm đồ dùng dạy học và hoạt động vui chơi cho trẻ. Chưa coi trọng việc học của trẻ, cho là trẻ đến trường để giữ cho trẻ khỏi khóc chứ không cần học. - Đa số trẻ em là con em vùng nông thôn nên bố mẹ đi làm ăn xa gửi con nhờ ông, bà trông ảnh hưởng đến việc chăm sóc và giáo dục trẻ. Đa số trẻ chưa qua nhà trẻ 18-24 tháng tuổi nên lần đầu tiên đến trường quấy khóc nhiều, nhút nhát, nói nhỏ, phát âm chưa chuẩn nặng tiếng địa phương. Đây là kết quả khảo sát đầu năm của đề tài năm học trước mà tôi đã được nghiên cứu về khả năng phát triển ngôn ngữ của các cháu trong lớp tôi như sau: * Bảng 1: Kết quả khảo sát đầu năm 2020 - 2021 Kết quả thực trạng Tổng số Nội dung trẻ Đạt Chưa đạt đánh giá Số trẻ Tỷ lệ % Số trẻ Tỷ lệ % Khả năng nghe hiểu 18 9 50 9 50 Khả năng phát âm 18 8 44,4 10 55,6 đúng từ
  6. Khả năng diễn đạt 18 8 44,4 10 55,6 ngôn ngữ giao tiếp Nhìn vào bảng kết quả khảo sát thực trạng trên cho ta thấy tình hình thực tế về chất lượng của hoạt động nhận biết tập nói chưa cao, cháu yếu vẫn còn, tỷ lệ cháu trung bình rất cao. * Nguyên nhân - Các trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho giảng dạy còn hạn chế, đồ dùng chưa đẹp, chưa sinh động sáng tạo vì vậy chưa thu hút được trẻ tham gia hoạt động. - Việc tạo môi trường (nhất là môi trường mở) cho trẻ hoạt động có nhiều hạn chế, hình thức chưa thu hút được nhiều trẻ tham gia hoạt động. - Trẻ còn sử dụng tiếng địa phương nhiều, một số trẻ chưa nói rõ từ hoặc đa số còn nói ngọng, nói chưa rõ lời. Do đó việc trẻ nói đủ câu, từ rõ ràng mạch lạc còn gặp nhiều khó khăn là do cô chưa phối kết hợp tốt giữa gia đình và nhà trường. - Còn hạn chế trong việc phát triển vốn từ cho trẻ, chưa phát huy được tính tích cực của trẻ trong các hoạt động - Nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ còn đơn điệu, chưa có một hệ thống lô gíc nhất định. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 2.3.1. Giải pháp 1. Rèn luyện nề nếp thói quen sử dụng ngôn ngữ tích cực cho trẻ ngay từ đầu năm học Nề nếp thói quen là tính tất yếu chi phối đến việc sử dụng ngôn ngữ của trẻ, xã hội càng văn minh thì vấn đề giáo dục hành vi văn hóa trong giao tiếp càng trở nên quan trọng. Nề nếp học tập là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến thành công của tiết học, vì vậy ngay từ lứa tuổi Mầm non, người lớn, đặc biệt là giáo viên Mầm non, tôi luôn chú trọng rèn luyện các nề nếp thói quen, hành vi lễ giáo cho trẻ, uốn nắn trẻ mạnh dạn, tự nhiên khi giao tiếp với người khác, không rụt rè, e sợ, âm lượng phát ra đủ nghe, không la hét, nói tục, chửi bậy, biết dùng ngôn ngữ êm dịu, nhẹ nhàng, tình cảm để thể hiện tình cảm yêu thương đối với bạn bè, cô giáo và người thân. Vì vậy trong công tác giáo dục, cô giáo và người lớn phải thực sự gương mẫu về lời ăn tiếng nói, nghiêm khắc và uốn nắn kịp thời khi trẻ nói sai, nói trống không, nói thiếu chủ ngữ, vị ngữ, nói ngược vị trí câu. Ví dụ: Khi trẻ muốn lấy quả bóng của bạn trẻ sẽ nói: “Đưa đây” tôi sẽ sửa cho cháu nói lại “Bạn cho tôi mượn quả bóng”….Giáo dục các cháu biết cảm ơn, xin lỗi, không nói dối, lễ phép với người lớn khi giao tiếp, biết chào hỏi cô khi đến lớp, chào hỏi ông bà, bố mẹ và người lớn. Trong sinh hoạt hằng ngày tôi chú ý rèn luyện cho các cháu có thói quen vệ sinh cá nhân, vệ sinh công cộng, tập cho trẻ có thói quen tự phục vụ như: Tự đi dép, đội mũ. + Giờ đón trẻ, khi trẻ đến lớp tôi dạy trẻ chào cô, chào bố, mẹ rồi vào lớp. + Dạy trẻ cất đồ dùng cá nhân đúng nơi qui định. + Giờ học, vào bài cô kể cho trẻ nghe một đoạn truyện, đọc cho trẻ nghe một bài thơ, câu đố hay là tổ chức tiết học dưới hình thức trò chơi, chương trình của bé (tùy vào nội dung) để gây sự hứng thú khi vào bài.
  7. + Giờ chơi, giáo dục trẻ khi chơi xong cất đồ chơi ngăn nắp gọn gàng, vừa cất đồ chơi vừa đọc đoạn thơ: “Giờ chơi hết rồi, nhanh tay cất đồ chơi, nhẹ tay thôi bạn ơi” + Giờ ăn, tôi giáo dục trẻ trước khi ăn phải rửa tay, cho trẻ đọc bài thơ “giờ ăn” sau đó mời cô giáo, mời các bạn rồi mới ăn. Khi ăn không nói chuyện, không làm cơm rơi, cơm vãi. Ăn xong lau miệng, uống nước, rửa tay. + Giờ ngủ trưa cô cho trẻ đọc bài thơ: “Giờ đi ngủ” trẻ lên giường nằm ngủ không nói chuyện. Trong tiết học tôi chú ý rèn cho các cháu ngồi học ngay ngắn, không nằm ra chiếu, không được chạy lung tung trong khi học, biết lắng nghe và trả lời các câu hỏi của cô. Qua quá trình thực hiện các biện pháp trên, tôi đã đưa trẻ vào nề nếp và thói quen hằng ngày của trẻ, sau một thời gian trẻ thực hiện rất tốt. Từ đó tôi nhận thấy trẻ tự tin, thoải mái và thích đến trường được học, được chơi, được giao lưu với bạn. Sau một thời gian áp dụng biện pháp, tôi thấy hiệu quả của giờ học được nâng lên rõ rệt. Nề nếp các cháu đã đi vào ổn định và được BGH Nhà trường đánh giá cao. Trẻ rất hứng thú trong mọi hoạt động. 2.3.2. Giải pháp 2. Xây dựng nội dung hoạt động phù hợp với chủ đề để phát triển ngôn ngữ - Giáo viên cần xác định chủ đề và nội dung của chủ đề được thực hiện trong thời gian đó. - Trang trí nhóm lớp phù hợp với chủ đề. - Lựa chọn nội dung cho các hoạt động ngôn ngữ phù hợp với chủ đề đó. - Xây dựng môi trường phù hợp với chủ đề. - Chuẩn bị các phương tiện học liệu theo chủ đề. - Lên lịch hoạt động theo tuần, ngày và tích hợp nội dung PTNN với các hoạt động của các lĩnh vực khác. Ví dụ + Với chủ đề “Bé thích đi bằng phương tiện gì” ở nhánh “Phương tiện giao thông đường bộ” tôi lựa chọn nội dung cho các hoạt động ngôn ngữ như sau: + Trò chuyện: Tôi và trẻ cùng trò chuyên về các phương tiện giao thông như : Ô tô, xe đạp, xe máy, xích lô... (Hàng ngày ai đưa con đi học? Bố (Mẹ) chở con đi học bằng xe gì? Đi đường con thấy những xe gì? Tiếng kêu của xe đó như thế nào? - Đọc thơ: Bài thơ: “Bé và mẹ”, tác giả Lương Thị Xiêm, “Đèn đỏ đèn xanh”, Định Hải. + Các bài ca dao - Đồng dao: “Bà còng đi chợ trời mưa” + Kể chuyện “Ô tô con học bài”... + Trò chơi phát triển ngôn ngữ: Chơi “Ô tô chim sẻ, Chơi đèn tín hiệu…” + Làm sách tranh truyện về các phương tiện giao thông đường bộ. - Tôi xây dựng môi trường phù hợp với chủ đề nhánh “Phương tiện giao thông đường bộ”. Ví dụ + Ở góc hoạt động với đồ vật tôi cho trẻ xếp “Ga ra ô tô” + Ở góc phân vai: Cho trẻ chơi bán hàng, nấu cho em ăn
  8. + Ở góc nghệ thuật: Hát các bài hát về phương tiện giao thông, tô màu xe máy, ô tô… + Ở góc đóng vai tôi cho trẻ chơi trò chơi đóng vai chú cảnh sát. - Với chủ đề này, tôi chuẩn bị đồ dùng trực quan phục vụ cho các tiết học là các phương tiện do nhà trường mua sắm, các đồ chơi do chính tay các cô tự taọ bằng các phế liệu dễ sử dụng và an toàn cho trẻ. Sử dụng máy tính, băng đĩa có hình ảnh các phương tiện giao thông, cho trẻ quan sát và đàm thoại. - Tôi trang trí nhóm lớp phù hợp với chủ đề: Trang trí nhóm lớp bằng tranh ảnh các phương tiện có liên quan đến chủ đề “Bé thích đi bằng phương tiện gì ” ở các góc trong nhóm lớp sao cho trẻ dễ quan sát và đàm thoại. - Lên lịch cho các hoạt động theo tuần: Mỗi tuần tôi lên kế hoạch cung cấp kiến thức cho trẻ về 2-3 phương tiện giao thông. 2.3.3. Giải pháp 3. Lấy trẻ làm trung tâm của các hoạt động dạy và học Thực tế hiện nay quan điểm “Giáo viên làm trung tâm cho mọi hoạt động giáo dục” Đã chuyển sang quan điểm “Lấy trẻ làm trung tâm”. Trẻ phải được coi là trung tâm của mọi hoạt động giáo dục. Giáo viên cần phải dựa vào đặc điểm tâm sinh lý và đặc điểm nhận thức của từng trẻ, từ đó lập kế hoạch giáo dục phù hợp. Bên cạnh đó giáo viên Mầm non cần hiểu rằng việc đặt câu hỏi “Trẻ học gì?” chỉ là hình thức bề ngoài của một vấn đề. Mà cần phải đặt câu hỏi “Trẻ học như thế nào?” đó mới là điều cốt lõi của quá trình giáo dục trẻ. Như chúng ta đã biết, phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm là phương pháp phát huy được tối đa tính tích cực, khả năng tiếp thu và trí tưởng tượng của trẻ. Vì vậy khi sử dụng phương pháp này trong quá trình dạy trẻ cô chỉ nên gợi mở, kích thích sự sáng tạo của trẻ, hướng dẫn trẻ để trẻ được chủ động tư duy từng chi tiết các nhân vật qua các câu chuyện, không sử dụng câu hỏi đóng mà sử dụng câu hỏi mở. Ví dụ: Thơ “Yêu mẹ” Tôi đưa ra câu hỏi. + Bài thơ nói về ai? + Trong bài thơ mẹ của bé đã vất vả như thế nào ? + Mẹ dậy sớm để làm gì? + Ai đã kề vào má của mẹ? + Em bé có yêu mẹ không? + Còn các con thì sao? Yêu mẹ thì các con phải như thế nào? Hay: Truyện “Thỏ con không vâng lời” + Mẹ dặn Thỏ con như thế nào? + Thỏ con có nghe lời mẹ không? + Vì sao Thỏ con lại bị lạc đường? + Ai đã đưa Thỏ về nhà? Từ những câu hỏi cô đưa ra kích thích được sự tư duy của trẻ giúp trẻ nhớ lại, khắc sâu hơn nội dung truyện một cách chính xác và sâu sắc. 2.3.4. Giải pháp 4. Luyện phát âm cho trẻ *Rèn luyện thính giác ngôn ngữ cho trẻ Trẻ học nói được là nhờ vào sự vận động của thính giác (Trẻ bị điếc sẽ không thể học nói được). Vì vậy việc rèn luyện thính giác ngôn ngữ cho trẻ là nội dung hàng đầu trong quá trình dạy trẻ nói. Rèn luyện thính giác ngôn ngữ là rèn luyện khả năng tri giác âm thanh ngôn ngữ, giúp trẻ phân biệt được âm thanh nói chung.
  9. Ví dụ: Âm thanh của từ “Hoa” khác âm thanh của từ “Lá” Muốn trẻ rèn luyện khả năng tri giác âm thanh ngôn ngữ được tốt cần đặt trẻ vào trong môi trường âm thanh (Bao gồm âm thanh nói chung và âm thanh ngôn ngữ nói riêng). Trẻ càng thu nhận được tín hiệu ngôn ngữ bao nhiêu thì sự phát triển lời nói càng nhanh chóng bấy nhiêu vì vậy chúng ta cần phải lặp đi lặp lại nhiều lần giúp trẻ phát âm đúng. Ví dụ: Khi dạy bài thơ “Hoa nở ” khi trẻ đọc đến từ “xinh xinh” một số trẻ sẽ phát âm sai, vì vậy cô giáo cần chú ý kiên trì sửa sai cho trẻ bằng cách (không lặp lại lỗi mắc sai của trẻ), không cáu gắt làm trẻ mất hứng thú mà cô sẽ phát âm lại chậm, rõ và cho trẻ phát âm theo cô nhiều lần. * Luyện cơ quan phát âm cho trẻ - Cơ quan phát âm đóng vai trò quan trọng trong quá trình trẻ nói, nó điều khiển bộ máy phát âm của trẻ. Quá trình giáo dục sẽ tác động đến bộ máy phát âm của trẻ. Vì vậy chúng ta cần luyện cơ quan phát âm cho trẻ theo 2 nội dung sau: Luyện vận động tự do nhằm giúp các bộ phận môi, răng, lưỡi chuyển động nhịp nhàng, linh hoạt. Đối với trẻ Mầm non “Trẻ học mà chơi, chơi mà học” vì vậy giáo viên cần vận dụng khéo léo và kinh hoạt các phương pháp, biện pháp phù hợp để lôi cuốn trẻ. Tôi đã suy nghĩ và lựa chon phương pháp sử dụng trò chơi để luyện bộ máy phát âm cho trẻ. Ví dụ: Cô nói: Trời sắp tối rồi các con hãy “Gọi gà” để cho gà ăn nào! cô hướng dẫn cho trẻ bặm 2 môi vào nhau thật chặt và phát âm (Bập… Bập...Bập) Như thế tôi đã luyện tập cho trẻ biết điều khiển hoạt động của môi và hàm. Hoặc cho trẻ làm động tác “Nhai kẹo cao su”, hay cho trẻ “Chậc lưỡi”…tôi đã luyện tập cho trẻ biết điều khiển hàm theo 2 hướng… *Luyện thở ngôn ngữ cho trẻ - Qua quá trình quan sát và tiếp xúc với trẻ tôi nhận thấy đặc điểm của trẻ là chưa biết điều khiển nhịp thở của mình khi nói cho phù hợp, có nhiều trẻ nói rất nhanh vừa nói vừa thở. Hoặc ngược lại có những trẻ nói rất chậm ê..a..vừa nói vừa thở. Vì vậy điều khiển sự thở là không thể thiếu được trong quá trình rèn luyện phát âm cho trẻ. Trò chơi được sử dụng rất nhiều, đa dạng phong phú trong quá trình giáo dục ngôn ngữ cho trẻ. Ví dụ: Để luyện thở ngôn ngữ cho trẻ, trong khi cho trẻ tập thể dục tôi có thể cho trẻ khởi động bằng các trò chơi như: Thổi nơ bay cao, xa; thổi chong chóng; gà gáy…Thông qua các trò chơi này giúp cho trẻ hít thở được đều đặn dần dần trẻ sẽ biết cách lấy hơi khi nói. *Luyện giọng - Giọng nói giúp trẻ thể hiện thái độ, tình cảm của mình trong từng lời nói như: âu yếm, thủ thỉ, to, nhỏ… Ví dụ: Khi cho trẻ đọc bài thơ: “Yêu mẹ” - Giáo viên cần đọc mẫu bài thơ cho trẻ nghe 2-3 lần, cô đọc chậm và rõ thể hiện sắc thái tình cảm của mình trong bài thơ, sau đó cho trẻ đọc theo cô. Trong khi trẻ đọc cô sẽ giúp trẻ điều chỉnh giọng đọc để thể hiện tình cảm của mình đối với mẹ. 2.3.5. Giải pháp 5. Sử dụng hệ thống câu hỏi phù hợp - Để phát triển tư duy sáng tạo của trẻ.Trong quá trình trò chuyện, đàm thoại, chúng ta nên sử dụng các loại câu hỏi khác nhau. Câu hỏi kích thích trẻ
  10. nhận biết phân biệt sự vật hiện tượng, tình huống mà trẻ đang trực tiếp tri giác, gợi ý trẻ đến hoạt động: - Ở mỗi hoạt động học tôi đã bám sát vào mục đích yêu cầu về kiến thức, kĩ năng cần đạt của hoạt động đó để tôi đưa ra một hệ thống câu hỏi phù hợp với nhận thức của lứa tuổi. Câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, là những câu hỏi mở để phát triển tư duy sáng tạo cho trẻ. Ví dụ 1: Với hoạt động nhận biết phân biệt: “To - nhỏ”. Tôi chuẩn bị đồ dùng trực quan là vật thật đủ cho cô và trẻ Hai loại quả (một quả táo, một quả cam). Hai cái đĩa nhựa (một cái màu màu sắc khác nhau). Đồ dùng của cô to hơn đồ dùng của trẻ. Khi tổ chức cho trẻ nhận biết tôi giới thiệu cho trẻ biết được quả cam màu vàng và cái đĩa màu vàng to hơn quả cam màu xanh và cái đĩa màu xanh. Trong quá trình tổ chức cho trẻ quan sát và nhận biết, phân biệt to - nhỏ tôi đưa ra những câu hỏi để nhận biết và nói được những từ to - nhỏ, quả cam màu vàng, quả cam màu xanh. Ngoài ra tôi còn đưa ra những hệ thống câu hỏi khi cho trẻ phân biệt quả cam to - quả táo nhỏ. - Các con nhìn xem cô có quả gì đây? - Quả cam có màu gì? - Quả táo có màu gì? - Quả nào to - quả nào nhỏ? Sau đó tôi sẽ gọi nhiều trẻ trả lời để trẻ ôn lại màu sắc cũng như biết cách phân biệt to - nhỏ, khắc sâu các biểu tượng về độ lớn cho trẻ đồng thời phát triển ngôn ngữ, tăng thêm vốn từ cho trẻ. Sau mỗi lần trẻ trả lời tôi thường động viên khen trẻ kịp thời. Ảnh minh họa: Đang cho trẻ phát âm to nhỏ Ví dụ 2: Với tiết kể chuyện: “Đôi bạn nhỏ” Tôi đã sử dụng hệ thống câu hỏi để đàm thoại với trẻ hiểu nội dung câu chuyện, nhớ tên chuyện. Cô kể câu chuyện gì? Trong câu chuyện có những ai? Ai đã đuổi bắt gà con?
  11. Gà con kêu như thế nào? Ai đã cứu gà con? Thông qua các câu hỏi trẻ hiểu nội dung, tình tiết của câu chuyện, nhớ tên chuyện, các nhân vật trong câu chuyện qua đó rèn thêm ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, trẻ phát âm chính xác hơn các từ. Ví dụ 3: Khi tôi cho trẻ “Xếp đường đi”, tôi đưa ra câu hỏi. Con đang xếp gì đấy? Con xếp các khối gỗ như thế nào? Cô hỏi trẻ để trẻ nhớ lại cách xếp các khối gỗ sát cạnh nhau, khít nhau để tạo thành đường đi thẳng không vấp ngã => tạo sự khéo léo cho trẻ => làm tăng thêm vốn từ cho trẻ. Ví dụ 4: Với tiết nhận biết tập nói: “Con cá vàng” Tôi đưa ra hệ thống câu hỏi phù hợp với nhận thức của trẻ, ngắn gọn, rõ ràng, bám sát vào các đặc điểm của con cá vàng. Đây là con gì? Cá nhìn bằng gì? Cá dùng mắt để làm gì? Các con có biết cá ăn bằng gì không? Đuôi cá vàng đâu? Vây đâu? Cá dùng vây và đuôi để làm gì? Trẻ tri giác, tư duy để trả lời câu hỏi của cô đưa ra, qua đó trẻ nắm được các đặc điểm đặc trưng của con cá vàng => phát triển ngôn ngữ cho trẻ Qua một thời gian áp dụng biện pháp sử dụng đa dạng các loại câu hỏi với trẻ, tôi thấy vốn từ của trẻ tăng, trẻ nói rõ ràng, mạch lạc. Trẻ tiến triển về nhận thức, ngôn ngữ và tình cảm.Trẻ giao tiếp dễ dàng hơn. 2.3.6. Giải pháp 6. Dạy trẻ nói qua vật thật, đồ chơi, tranh minh họa Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua đồ chơi, vật thật, tranh minh họa là rất cần thiết và bổ ích. Khi tổ chức cho trẻ hoạt động cô cần phải xác định rõ mục đích yêu cầu của đề tài, các hoạt động để áp dụng hình thức nào cho phù hợp với trẻ, chuẩn bị đồ dùng đồ chơi cho tốt, đảm bảo an toàn vệ sinh, chính xác linh hoạt. Ở lứa tuổi này trẻ thường hay trả lời trống không hoặc nói những câu không có nghĩa, vì vậy tôi luôn thường xuyên nhắc nhở trẻ và nói mẫu cho trẻ nghe, động viên khuyến khích trẻ nhắc lại theo cô. Tôi tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu của trẻ một cách tỉ mỉ, chu đáo, ngắn ngọn dễ hiểu, chính xác để mọi hoạt động của trẻ trong giờ hoạt động chung đạt hiệu quả nhất. Trong khi dạy cháu, không nhất thiết cứ phải sử dụng tranh, vật thật hoặc cho trẻ dạo chơi thăm quan mà tùy vào từng nội dung của đề tài để tôi chọn giáo cụ trực quan cho phù hợp. Ví dụ 1: Khi dạy bài “Quả cam” tôi đã suy nghĩ và nêu câu hỏi: Nên chọn giáo cụ trực quan nào để cháu học có kết quả tốt hơn? Nếu tôi sử dụng tranh minh họa thì trẻ sẽ không có cơ hội để sử dụng các giác quan của mình, giờ học sẽ không sinh động, trẻ dễ chán, chóng quên. Vì vậy tôi đã quyết định phải dạy bằng vật thật “Quả cam thật” sau đó mới cho trẻ quan sát tranh. Bởi vì khi trẻ được học bằng quả cam thật trẻ sẽ được sử dụng các giác quan của mình như: Xúc giác, vị giác, thính giác…giờ học sinh động gây hứng thú đối với trẻ, trẻ tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng và vững chắc hơn.
  12. Hình ảnh minh họa Thực tế qua quá trình tiếp xúc dạy các cháu, tôi nhận thấy trong một lớp không phải cháu nào cũng nhận thức được như nhau, nếu tôi đặt những câu hỏi dễ thì với những cháu nhận thức nhanh cháu đó sẽ không phát triển được trí thông minh, còn nếu đặt câu hỏi khó thì với những cháu nhận thức chậm hơn sẽ không tiếp thu được. Ví dụ: Khi dạy bài “Quả táo, đu đủ” tôi sử dụng các câu hỏi sau: Với những cháu có khả năng nhận thức bài dễ dàng tôi dùng câu hỏi: Quả gì đây? Cái gì đây? (Đồng thời chỉ vào vỏ, hạt) Với những cháu có khả năng nhận thức nhanh, ngoài những câu hỏi đã dùng cho các cháu trên, tôi đã sử dụng thêm các câu hỏi nhằm cho trẻ phân biệt được mùi vị, hình dáng bên ngoài của các loại quả đó. Ví dụ: Khi tôi hỏi: “Quả táo và quả đu đủ” quả nào ăn ngọt, quả nào ăn vừa chua vừa ngọt? Khi nghe tôi hỏi như vậy, một số cháu sẽ trả lời ngay là “quả đu đủ ăn ngọt , còn quả táo ăn vừa chua vừa ngọt ạ!” Nhưng cũng có cháu chậm tiếp thu và nói ngọng vì vậy trong quá trình dạy tôi thường đặt câu hỏi để trẻ trả lời nhiều hơn. Đặc biệt với những cháu nói ngọng hoặc phát âm chưa rõ, chưa đúng tôi luôn kiên trì tập nói cho các cháu, không cáu gắt làm trẻ mất hứng thú mà cô sẽ nói mẫu chậm, rõ chính xác và cho trẻ phát âm theo cô nhiều lần. Trong khi trẻ chơi, tôi luôn quan tâm và chơi cùng trẻ, chú ý tới các cháu và tập nói cho các cháu nhiều hơn. Trong quá trình dạy trẻ tập nói tôi còn nhận thấy sự hiểu biết của trẻ còn rất hạn chế vì thế khi giáo viên đặt câu hỏi mang tính tổng quát, nhiều khi trẻ sẽ không trả lời được ý của câu cô hỏi. Vì vậy ngay sau khi đặt câu hỏi tổng quát cho trẻ suy nghĩ tôi lại gợi ý cho trẻ tiếp bằng những câu hỏi phụ để trẻ có thể trả lời được dễ dàng câu hỏi của cô. Ví dụ: Khi dạy bài “Hoa hồng, hoa cúc” khi cho trẻ so sánh 2 loại hoa này nếu tôi hỏi: Hai loại hoa này giống nhau và khác nhau như thế nào? thì trẻ sẽ khó trả lời nên tôi sẽ dùng những câu hỏi phụ để hỏi cháu: Hoa hồng và hoa cúc đều có mùi gì? Hoa hồng màu gì? Hoa cúc màu gì? khi dùng các câu hỏi như thế này trẻ sẽ so sánh và trả lời dễ dàng hơn.
  13. Trẻ mầm non nói chung và trẻ nhà trẻ nói riêng, tư duy trực quan hành động phát triển mạnh. Khi trẻ nhìn vào tranh trẻ làm quen được với các đồ vật, con vật và trẻ nói được đồ vật con vật đó, tạo điều kiện để trẻ nói đúng và rõ hơn. - Với chủ đề “Các con vật” Ví dụ: Khi dạy bài “con gà trống”, tôi cho trẻ quan sát tranh và hỏi trẻ: - Đây là con gì các con? Trẻ trả lời: con gà trống - Con gà trống có gì đây? (Có đầu, thân, chân) - Gà trống gáy như thế nào? Nếu tôi chọn tiết dạy con gà trống bằng vật thật “Con gà trống” thì sẽ không giới thiệu được một cách tỉ mỉ những chi tiết của con vật được. Để các cháu tiếp thu giờ học thoải mái và đạt kết quả cao, ngoài những phương pháp dạy cho thích hợp với bài học, trong quá trình dạy cháu tôi còn phải tuỳ thuộc vào đối tượng cháu để ra các loại câu hỏi cho phù hợp với nhận thức của trẻ. Để lôi cuốn sự chú ý của trẻ vào tranh thì khi cho trẻ quan sát tranh minh hoạ, tranh minh hoạ phải rõ nét, màu sắc và nét vẽ hình ảnh phù hợp với tư duy trực quan trừu tượng của trẻ. Nên là một giáo viên tôi phải chọn lọc tranh cho phù hợp. Ảnh minh họa quan sát gà trống Khi cho trẻ quan sát các con vật nuôi trong gia đình, tôi cho trẻ quan sát mô hình, tranh, tôi hỏi trẻ: Tên con vật? Các đặc điểm của con vật? (màu sắc, mấy chân, tiếng kêu, môi trường sống, ...) Tôi cố gắng gọi nhiều cá nhân trẻ nói sau đó đến tập thể trẻ trả lời. Qua đó trẻ phải tư duy, suy nghĩ trả lời các câu hỏi => rèn sự phát âm, cung cấp thêm các vốn từ cho trẻ.. Ví dụ: Ở tiết nhận biết tập nói: “Con cá vàng” tôi đã cho trẻ được quan sát bể cá vàng, trẻ được quan sát cá vàng bơi, đớp mồi, các hoạt động trong môi trường nước trẻ rất thích thú hăng say quan sát => qua đó trẻ biết được con cá vàng gồm những gì, hoạt động như thế nào, sống ở đâu? => làm tăng thêm vốn từ, phong phú thêm về tầm hiểu biết của trẻ về các loài vật.
  14. Ví dụ: Dạy tiết nhận biết các con vật sống trong rừng như con voi, con hổ thì tranh vẽ phải rõ nét đúng màu sắc, bố cục tranh hợp lý để cô chỉ vào trẻ có thể trả lời được, cụ thể như: - Đây là cái gì của con voi? (Con thưa cô cái vòi ạ.) - Còn gì đây nữa các con? (Cái chân ạ.) Ví dụ :Ở tiết kể chuyện, tôi đã sử dụng hệ thống tranh minh họa, sa bàn minh họa nội dung câu chuyện, trẻ được quan sát, tri giác tranh theo lời kể của cô làm cho trẻ thêm nhớ, khắc sâu nội dung của câu chuyện, nhớ các nhân vật trong câu chuyện làm cho trẻ dễ thuộc chuyện hơn. 2.3.7. Giải pháp 7. Cho trẻ nhận biết tập nói ở một số hoạt động trong ngày Muốn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách có hiệu quả, tôi đã dạy trẻ ở các hoạt động có chủ định như: Âm nhạc, kể truyện, đọc thơ và dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Ngoài ra tôi còn áp dụng lồng hoạt động học này để tích hợp cho hoạt động học khác cho tiết học thêm sinh động kích thích sự hứng thú của trẻ. *Phát triển ngôn ngữ thông qua giờ đón trẻ Tôi đón trẻ với cử chỉ yêu thương và gần gũi và hỏi trẻ. - Con đã chào cô và các bạn chưa? - Con chào mẹ rồi vào lớp với cô, chiều mẹ đến đón. - Hôm nay ai đưa con đi học? - Mẹ đưa con đi học bằng phương tiện gì? - Sáng nay con được mẹ cho ăn gì? - Trước khi đi học con chào ai ở nhà nữa nhỉ? Sau khi đón trẻ xong tôi cho trẻ về các góc chơi mà trẻ thích, trẻ được chơi tự do. Trẻ có thể quan sát các bức tranh xung quanh lớp theo chủ đề đang học và tự mình khám phá.Trẻ có thể trò chuyện cùng cô và các bạn về bức tranh mà trẻ thấy.(tôi chú ý quan sát để nắm được tâm tư nguyện vọng của trẻ sau đó nhằm thỏa mãn nhu cầu tò mò ham học hỏi chủ trẻ). Từ đó trẻ sẽ được nói nhiều và ngôn ngữ cũng sẽ phát triển theo hướng tích cực. *Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động góc Thông qua trò chơi, các biểu tượng mà trẻ thu nhận được trước đây được chính xác hóa bằng ngôn ngữ. Qua trò chơi trẻ còn tập trung vận dụng các tri thức đã thu nhận được. Trò chơi đã giúp trẻ nhớ ngôn ngữ. Đồng thời tạo ra các tình huống để trẻ sử dụng vốn ngôn ngữ đã tích lũy được. Ví dụ:- Thông qua trò chơi “Khám bệnh” cô là người gợi ý cho trẻ + Khi khám bệnh Bác sỹ phải đeo gì ? (ống nghe) + Thái độ của Bác sỹ đối với bệnh nhân phải như thế nào? - Thông qua trò chơi “Người bán hàng, em tập làm cô giáo...” , trò chơi dân gian như: “Nu na nu nống”,” Tập tầm vông”…trẻ được tự mình nói và đóng vai các nhân vật.
  15. *Phát triển ngôn ngữ thông qua dạo chơi tham quan Dạo chơi thăm quan cũng là một hình thức bổ sung và cung cấp cho trẻ mở rộng thêm vốn từ mới, một số khái niệm mới cho trẻ. Đối với trẻ 24 -36 tháng, vốn từ của trẻ còn rất ít, nhiều khi trẻ muốn nói ra một sự việc nào đấy nhưng trẻ lại không biết dùng từ ngữ gì để diễn đạt, nên cháu thường e.. a hay đang nói giữa chừng lại không nói nữa vì không có từ để diễn đạt. Vì vậy giáo viên cần bổ sung và làm giàu thêm vốn từ cho trẻ. Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát cây nhãn, tôi sử dụng các câu hỏi đàm thoại với trẻ về tên gọi, đặc điểm, tác dụng của cây…để trẻ trả lời, cô lắng nghe bổ sung và tập nói cho trẻ. Ngoài ra tôi còn khéo kéo linh hoạt lồng nghép tích hợp các chuyên đề vào trong các hoạt động. Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát các loại cây ăn quả tôi hỏi trẻ: Con có biết vì sao “ lá xanh lại ở trên cây, lá vàng lại rơi xống đất” không? tôi sẽ giải thích cho trẻ hiểu vì lá vàng đã già rồi nên rụng xuống cho lá non mọc ra. Đồng thời tôi còn giải thích cho trẻ hiểu khi lá rụng xuống đất nếu không được con người quét dọn, nhiều lá rơi xuống sẽ gây ô nhiễm môi trường bẩn sân trường sẽ không đẹp, cô sẽ hướng dẫn tổ chức cho trẻ nhặt lá rụng bỏ vào thùng rác. Hoặc khi đang chơi khi nghe tiếng sấm trẻ sẽ nói đó là tiếng pháo nổ, tôi sẽ tranh thủ giải thích cho cháu hiểu đó là tiếng sấm báo hiệu trời chuẩn bị có mưa to đấy các con ạ! Như vậy các cháu đã có thêm từ mới, khái niệm mới về sự vật, hiện tượng trong tự nhiên… Khi cho trẻ đi tham quan trẻ biết thêm một số các khái niệm về các Địa danh. Hoặc trong khi cháu chơi tôi đến gần quan sát trẻ chơi, gần gũi cháu để tập trung nói cho cháu nghe khi cháu chơi với các đồ chơi ô tô, máy bay. Tôi lại gần gợi ý để cháu ôn lại một số bộ phận của ô tô, máy bay mà các cháu đã học, thông qua đó để giúp cháu nắm vững hơn các vấn đề đã được học và đồng thời phát triển ngôn ngữ cho trẻ được tốt hơn. *Phát triển ngôn ngữ trước giờ ăn và giờ đi ngủ Ngoài các giờ hoạt động có chủ đích, giờ hoạt động chơi, giờ hoạt động lao động… Trẻ còn có giờ ăn, giờ ngủ. Ở những giờ này tôi đã dạy nói thêm cho trẻ. Trong khi giúp trẻ tiến hành các công việc hàng ngày. Tôi lựa chọn những nội dung thích hợp và nói tên các công việc đó cho trẻ biết. Ví dụ: Ở giờ ăn trước khi trẻ ăn tôi hỏi trẻ tư thế ngồi, ăn uống như thế nào là vệ sinh và cho trẻ đọc bài thơ “Giờ ăn”. - Ở giờ ngủ: Tôi cho trẻ đọc bài thơ “Giờ đi ngủ” *Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động lao động Trẻ ở lứa tuổi mầm non chưa phải lao động để tạo ra cơ sở vật chất cho xã hội, nhưng chúng ta phải giáo dục trẻ ý thức lao động, cho trẻ tham gia váo các công việc lao động nhẹ nhàng, lao động tự phục vụ mình. Khi trẻ được tham gia vào các hoạt động lao động, trẻ được tiếp xúc với thiên nhiên, với đồ dùng lao động, đồ dùng sinh hoạt… Như vậy trẻ có điều kiện hình thành các biểu tượng chưa có và khắc sâu các biểu tượng đã có. Từ đó trẻ sẽ biết sử dụng ngôn ngữ trong các hoạt động lao động. Vốn ngôn ngữ của trẻ sẽ tăng lên.
  16. Ví dụ: Trẻ biết nói: Đi dép, Đội mũ, Cởi áo. *Dạy trẻ nói ở mọi lúc mọi nơi Hưởng ứng cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” Trong lớp, tôi luôn xây dựng mối quan hệ giữa trẻ với cô giáo, từ đó tạo được niềm tin ở trẻ, trẻ yêu quý cô, thích nghe cô nói, mong muốn được đến lớp, từ đó cô giáo thực hiện công tác giảng dạy được tốt hơn. Để giúp cháu nói được tốt hơn, tôi còn dùng các hình thức trò chuyện với trẻ trong tất cả các hoạt động, từ khi đón trẻ cho đến lúc trả trẻ. Cô có thể trò chuyện với trẻ như: Hôm nay ai đưa con đi học? Nhà con có những ai?... Qua đó cháu sẽ biểu lộ được những suy nghĩ của mình bằng ngôn ngữ đơn giản nói được câu nhiều từ hơn. Xây dựng mối quan hệ giữa trẻ với trẻ, trẻ biết quan tâm đến nhau như khi 1 trẻ vắng không đi học thì trẻ khác sẽ hỏi ví dụ như: Bạn Hà đâu? Cô sẽ trả lời: Hôm nay bạn Hà ốm không đi học được. Hay khi trẻ chơi, cô quan sát trẻ chơi và dạy trẻ biết nhường nhịn đồ dùng, đồ chơi, không tranh đồ chơi của bạn..v.v.. hay khi trẻ có những hành vi sai như đánh bạn, cô sẽ giải thích cho trẻ hiểu đánh bạn là sai, là không tốt con hãy xin lỗi bạn đi..v.v.. Như vậy trẻ sẽ có những hành vi, những thái độ đúng từ đó trẻ sẽ nói được những từ ngữ biểu lộ những tình cảm tốt đẹp trẻ biết nói lời hay làm việc tốt Việc giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở lứa tuổi 24 -36 tháng tuổi là một nhiệm vụ cơ bản, thực hiện tốt được nhiệm vụ đó thì những người làm công tác giáo dục trẻ ở mọi lứa tuổi mầm non phải biết tận dụng mọi hình thức dạy nói cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoạt động. 2.3.8. Giải pháp 8. Xây dựng góc tuyên truyền và phối hợp với phụ huynh trong công tác giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ “Lúc ở nhà Mẹ cũng là cô giáo Khi đến Trường cô giáo như Mẹ hiền” Gia đình là nơi gần gũi và quan trọng nhất đối với trẻ. Trẻ em là một tờ giấy trắng thì gia đình và nhà giáo dục là những cây bút màu vẽ lên những tác phẩm đầy màu sắc cho trẻ, vì thế công tác giáo dục phối hợp giữa gia đình và Nhà trường là một biện pháp quan trọng, góp phần nâng cao hoạt động phát triển ở trẻ đặc biệt là lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Vì vậy song song với việc dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi, tôi luôn chú trọng đến việc phối kết hợp chặt chẽ với gia đình để trao đổi mọi hoạt động của trẻ cụ thể bằng các hình thức sau: - Ở cửa lớp tôi xây dựng góc tuyên truyền “Những điều phụ huynh cần biết” để phụ huynh dễ quan sát. Tôi lên kế hoạch lịch dạy trẻ một tuần học để cha mẹ cần biết được rằng hôm nay trẻ sẽ học gì? Ngày mai con mình sẽ được học gì? Như vậy sẽ tiễn cho phụ huynh biết để dạy trẻ ở nhà và tôi thấy đây là biện pháp rất hữu ích. - Vận động phụ huynh hỗ trợ vật liệu mở: Thùng giấy, sách báo cũ, dụng cụ hóa trang, vỏ chai, lon bia sạch…
  17. - Trao đổi thêm với phụ huynh có cháu cá biệt: Nói ngọng, ít nói, để phụ huynh phối kết hợp cùng tôi trong công tác giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt hơn. Ảnh minh họa: Trao đổi với phụ huynh Muốn dạy trẻ mầm non nói đúng ngữ pháp, đặc biệt là trẻ ở độ tuổi 24-36 tháng tuổi cô giáo phải tuyên truyền tới các bậc phụ huynh hiểu được tầm quan trọng của việc nói đúng ngữ pháp và tác hại của việc nói lắp, nói ngọng. Ở độ tuổi này trẻ hay bắt chước người lớn, nên người lớn không nói xuyên tạc theo ý thích của mình khi giao tiếp với trẻ, không nên nói bậy, nói lóng, nói thiếu văn hoá trước mặt trẻ, không nói những lời không phù hợp với lứa tuổi ấu nhi làm trẻ khó hiểu, đặc biệt câu nói phải rõ ràng mạch lạc, biểu cảm, các từ ngữ đầy đủ, cụm từ gần gũi với trẻ để trẻ nghe rõ, hiểu nghĩa của từ. Sau khi phối kết hợp với phụ huynh một thời gian tôi thấy vốn từ của trẻ được phát triển khá rõ, đặc biệt là việc nói ngọng cũng giảm đi đáng kể, trẻ phát âm chuẩn, nói rõ ràng trẻ hoạt động một cách sôi nổi tự tin, giao tiếp trước mọi người không còn rụt rè, e sợ. Thực hiện biện pháp này mang lại hiệu quả rất cao. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường Qua thời gian áp dụng và thực hiện những biện pháp đến nay cô giáo đã thu thập được một số hiệu quả như sau: 2.4.1. Đối với trẻ - Có góc nghệ thuật, hoạt động với đồ vật phong phú và đa dạng, có nhiều đồ dùng đồ chơi xanh, đỏ, vàng và các nguyên liệu thiên nhiên, các chất liệu phế thải nhiều màu sắc để trẻ sử dụng rất lôi cuốn và thu hút hấp dẫn trẻ. Những kết quả khảo sát của năm học trước mà bản thân áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, đã đạt được khi áp dụng những giải pháp như sau: Bảng 2:Kết quả khảo sát cuối năm 2020-2021 như sau: Nội dung Tổng số Kết quả thực trạng đánh giá trẻ Đạt Chưa đạt
  18. Số trẻ Tỷ lệ % Số trẻ Tỷ lệ % Khả năng nghe hiểu 18 18 100 0 0 Khả năng phát âm 18 18 100 0 0 đúng từ Khả năng diễn đạt 18 18 100 0 0 ngôn ngữ giao tiếp 2.4.2. Đối với bản thân Trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ ở trường tôi đã tìm được cho mình những phương pháp và kinh nghiệm khá thành công trong việc nâng cao chất lượng giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động nhận biết tập nói đó là: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi khu Trại Quan, thông qua hoạt động nhận biết tập nói tại trường Mầm non Xuân Phúc” Tại trường mầm non Xuân Phúc được các cấp lãnh đạo, Ban giám hiệu nhà trường, đồng nghiệp và các bậc phụ huynh đánh giá rất cao về hiệu quả khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tế nhóm lớp mình phụ trách. Tôi đã sử dụng các phương pháp đó là: - Sử dụng phương pháp, biện pháp linh hoạt sáng tạo và kết hợp cho trẻ được hoạt động nhiều với đồ vật nhất là các giờ học nhận biết tập nói, hay thông qua giờ hoạt động vui chơi... - Lớp học được trang trí bằng các sản phẩm nhiều màu các loại đồ dùng trực qua có màu sắc sặc sở hấp dẫn trẻ để không những giờ học đạt kết quả cao mà làm cho trẻ hứng thú trong giờ chơi hoạt động ở các góc phù hợp đặc điểm lứa tuổi của trẻ. Qua nghiên cứu đề tài tôi nhận thấy rằng trẻ phát âm đúng ngữ pháp, nói rõ ràng mạch lạc hơn, hứng thú say mê trong học tập. Trẻ hoạt động không bị áp đặt, gò bó, phát huy được khả năng, năng lực của bản thân, giúp trẻ trở nên năng động hơn. - Trẻ mạnh dạn tự tin và hăng hái tham gia vào các hoạt động. - Nhận biết của trẻ được mở rộng, ngôn ngữ phát triển đúng đắn, vốn từ của trẻ phong phú. Trẻ nói được nhiều câu có nhiều từ, trẻ nói ngọng chiếm tỉ lệ thấp. - Kích thích trẻ hứng thú hoạt động nhận biết màu ở mọi lúc mọi nơi 2.4.3. Đối với đồng nghiệp và nhà trường - Đối với đồng nghiệp qua thao giảng dự giờ thăm lớp, được đồng nghiệp đóng góp ý kiến tôi thấy đa số các đồng nghiệp cũng tán thành với bài học của bản thân, từ đó bản thân cũng rút được những kinh nghiệm qua các ý kiến của chị em đồng nghiệp. Những kinh nghiệm này nó không chỉ áp dụng riêng cho riêng các nhóm trẻ mà còn phổ biến rộng rãi và áp dụng cho tất cả các độ tuổi Bé, Nhỡ, Lớn trong toàn trường. Đa số trẻ rất hứng thú khi được tham gia trải nghiệm, khi áp dụng hoạt động này. Không những trẻ hứng thú, mà còn cuốn hút được trẻ vào bài học một cách khoa học và đạt kết quả cao. - Qua hoạt động trải nghiệm, bản thân cũng được ban giám hiệu nhà trường đóng góp ý kiến, bổ sung những kinh nghiệm trong thực tiễn vào tiết dạy. Bản thân nên tôi thấy tiết học của tôi rất phong phú hơn nhiều và bản thân cũng
  19. thấy hài lòng khi được mọi người bổ sung đóng góp ý kiến cho mình. Đó cũng là những kiến thức, những kinh nghiệm để bản thân được hoàn thiện trong quá trình giảng dạy của mình trong nghiệm những năm những năm tiếp theo. 3. Kết luận, kiến nghị 3.1. Kết luận - Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ lứa tuổi 24-36 tháng rất quan trọng nó được thể hiện rõ ở các hoạt động trong ngày của trẻ ở trường mầm non, giúp trẻ hoàn thiện về nhân cách. Qua thời gian tìm tòi và thực hiện các biện pháp trên, kết quả khảo sát đầu năm so với kết quả cuối năm học của trẻ được tăng lên rõ rệt. Từ những kết quả trên tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm khi dạy trẻ phát triển ngôn ngữ. - Cô giáo phải yêu nghề, mến trẻ, tận tụy với công việc, luôn tìm tòi nghiên cứu các hình thức, biện pháp dạy trẻ phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ. Nắm được đặc điểm tâm sinh lý của từng trẻ. Cô giáo cần nắm vững tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ của cô phải mẫu mực chính xác, không nói ngọng, nói lắp, không nói tiếng địa phương. - Để có được một tiết dạy tốt giáo viên phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đầy đủ, bền đẹp, đảm bảo tính thẩm mỹ và khoa học thu hút trẻ vào tiết học đạt kết quả cao. - Là người giáo viên cần làm rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ, không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tự rèn luyện ngôn ngữ cho mình để phát âm chuẩn tiếng phổ thông. Xây dựng môi trường học tập phong phú thuận lợi, tạo cảm xúc để kích thích trẻ đến với môi trường học tập. - Giáo viên cần làm tốt công tác tuyên truyền để huy động trẻ độ tuổi từ 18-24 tháng tuổi ra lớp. 3.2. Kiến nghị - Đối với nhà trường: Làm tốt công tác tham mưu với các cấp lãnh đạo địa phương, với ban đại diện cha mẹ học sinh, bổ sung cơ sở vật chất cho nhà trường để có thêm phòng học huy động trẻ trong độ tuổi ra lớp. Đề nghị Ban giám hiệu nhà trường tham mưu với các cấp, các ngành, tổ chức các nhóm trẻ nhỏ 24-36 tháng tuổi, nhằm đưa trẻ có một nề nếp thói quen và tiếp cận, lắng nghe ngôn ngữ Tiếng Việt nhiều hơn. - Đối với phòng giáo dục: Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên tiếp thu học hỏi. Tổ chức các tiết học về chương trình nhà trẻ. Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân trong quá trình dạy học đối với hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi. Rất mong được sự góp ý của Hội đồng khoa học các cấp đóng góp ý kiến, để bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện và ứng dụng rộng rãi hơn. XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG Như Thanh, ngày 06 tháng 04 năm 2022 NHÀ TRƯỜNG CAM KẾT KHÔNG SAO CHÉP, COPPY
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2