intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp hướng dẫn giáo viên trang trí và sử dụng công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN

Chia sẻ: Hòa Phát | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:32

49
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu mà đề tài cần đề cập là mục đích và tác dụng của việc trang trí lớp học. Trang trí để làm gì? Vì sao phải trang trí và trang trí như thế nào? Thời điểm nào thì bắt đầu thực hiện? Quan trọng nhất là cách sử dụng. Nếu sử dụng không đúng mục đích, không phù hợp đối tượng thì kết quả sẽ không như mong muốn. Vì vậy, nhiệm vụ của đề tài là tìm ra các giải pháp giúp giáo viên năm rõ cách trang trí và biết vận dụng linh hoạt vào bài dạy. Điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Giáo viên – học sinh – cha mẹ và cộng đồng. Tất cả phải có cùng quan điểm, có sự đồng thuận và nhất trí cao mới đem lại thành công.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp hướng dẫn giáo viên trang trí và sử dụng công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN

  1.  M   ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN MỤC LỤC STT NỘI DUNG TRANG 1 MỤC LỤC 1 2 I. PHẦN MỞ ĐẦU 2 3 1. Lí do chọn đề tài 2 4 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 3 5 3. Đối tượng nghiên cứu 3 6 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 3 7 5. Phương pháp nghiên cứu 4 8 II. PHẦN NỘI DUNG 4 9 1. Cơ sở lí luận 4 10 2. Thực trạng 5 11 2.1 Thuận lợi, khó khăn 5 12 2.2 Thành công, hạn chế 6 13 2.3 Mặt mạnh, mặt yếu 6 14 2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động 7 15 2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trang mà đề tài đã đặt ra. 8 16 3.Giải pháp, biện pháp 8 17 3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp 8 18 3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp 9 19 3.3 Điều kiện để thực hiện giải pháp biện pháp 23 20 3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp 24 21 3.5 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu 24 22 4. Kết quả  thu được qua khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn đề  25 nghiên cứu. 23 III.PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 26 24 1. Kết luận 26 25 2. Kiến nghị 26 MỘT SỐ BIỆN PHÁP  HƯỚNG DẪN GIÁO VIÊN TRANG TRÍ VÀ SỬ  DỤNG CÔNG CỤ HỖ TRỢ HỌC TẬP TRONG LỚP HỌC THEO MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI VNEN I. Phần mở đầu:    1. Lý do chọn đề tài.   Như chúng ta đã biết, Dự án Mô hình trường học mới tại Việt Nam   (Dự  án GPE­VNEN, Global Partnership for Education – Viet Nam Escuela Nueva) là  1 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
  2.  M   ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN một Dự  án về  sư  phạm nhằm xây dựng và nhân rộng một kiểu mô hình nhà  trường tiên tiến, hiện đại, phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo  dục Việt Nam.    Mô hình trường học mới khởi nguồn từ  Côlômbia từ  những năm 1995­ 2000 để dạy học trong những lớp ghép ở  vùng miền núi khó khăn, theo nguyên   tắc lấy học sinh làm trung tâm. Mô hình này vừa kế  thừa những mặt tích cực  của mô hình trường học truyền thống, vừa có sự  đổi mới căn bản về  mục tiêu  đào tạo, nội dung chương trình, tài liệu học tập, phương pháp dạy – học, cách   đánh giá, cách tổ chức quản lí lớp học, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy học.           Mô hình trường học mới Việt Nam tập trung vào các phương pháp dạy học  lấy học sinh làm trung tâm, cho phép học sinh tương tác đến các yếu tố  trong   lớp học, đặc biệt là tương tác với các công cụ  hỗ  trợ  học tập để  tham gia các   hoạt động do giáo viên tổ chức. Qua đó, các em được giải đáp những băn khoăn ,  thắc mắc, phát triển tiềm năng, đam mê, sáng tạo, được rèn luyện các kĩ năng  hợp tác, các năng lực học tập, góp phần hình thành phát triển nhân cách con  người đáp ứng với yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo hiện   nay.  Năm học 2015­2016, có trên 3700 trường tiểu học triển khai áp dụng mô   hình Vnen trên cả  nước; toàn tỉnh Đắk Lắk đã có 74 trường tiểu học tham gia  dự án. Huyện Krông  Ana đang thực hiện chương trình giáo dục VNEN năm thứ  tư. Bước đầu thí điểm tại 4 trường, trong đó có TH Nguyễn Thị  Minh Khai.   Tính đến năm nay đã có thêm 4 trường nhân rộng. Điểm nổi bật của mô hình  VNEN là đổi mới về các hoạt động sư phạm, một trong những hoạt động đó là   đổi mới về  cách thức tổ  chức lớp học, đổi mới về  phương pháp dạy học, đổi  mới về cách trang trí và sử dụng các công cụ hỗ trợ học tập. Theo mô hình này,  quản lí lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh”, các “Ban” trong lớp do học sinh   tự  nguyện xung phong và được các bạn tín nhiệm. Bên cạnh đó, sự  hỗ  trợ  của  các công cụ trong lớp học góp phần không nhỏ vào chất lượng giáo dục theo mô  hình Vnen.  Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng và hiệu quả  của việc sử  dụng các  công cụ  học tập trong lớp học, Ban lãnh đạo đã thường xuyên hướng dẫn, chỉ  đạo các lớp cố gắng trong việc xây dựng các công cụ, tổ chức cho học sinh sử  dụng các công cụ hỗ trợ học tập dưới nhiều hình thức sáng tạo. Việc phát huy   và sử dụng đúng từng loại công cụ với mục đích thích hợp của mỗi bài học  đều  đem lại hiệu quả  nhất định cho việc đổi mới phương pháp dạy học theo mô   hình VNEN. Điều này đòi hỏi sự  sáng tạo, đổi mới trong công tác quản lí, chỉ  2 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
  3.  M   ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN đạo việc dạy học. Mặt  khác,  để  nâng cao chất lượng dạy học và đổi mới  phương pháp theo mô hình mới, đòi hỏi người lãnh đạo phải là người nhận thức  rõ về  “bản chất” của VNEN, từ đó thổi luồng gió mới cho tất cả  cán bộ, giáo  viên trong trường để cùng thực hiện. Đặc biệt, người quản lí phải hết sức tâm   huyết, phải tìm ra được những biện pháp tối  ưu nhất để  chỉ  đạo công tác dạy  học. Như  vậy mới đưa chất lượng nhà trường ngày càng đi lên.  Trong khuôn  khổ của bài viết này, tôi chỉ muốn chia sẻ cùng  đồng nghiệp một số biện pháp  về  Công tác hướng dẫn giáo viên cách trang trí và sử  dụng các Công cụ  hỗ  trợ  học tập trong lớp theo mô hình trường học mới (VNEN), để góp phần nâng cao   chất lượng dạy học của trường TH  Nguyễn Thị Minh Khai.  2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài Như chúng ta đã biết, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi  mới những vấn đề  lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ  quan điểm, tư  tưởng chỉ  đạo đến  mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ  chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực   hiện; đổi mới từ  sự  lãnh đạo của Đảng, sự  quản lý của Nhà nước đến hoạt  động quản trị  của các cơ  sở  giáo dục­đào tạo và việc tham gia của gia đình,   cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành  học. Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển   những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên   quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm  tính hệ  thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học;  các giải pháp phải đồng bộ, khả  thi, có trọng tâm, có lộ  trình và bước đi phù  hợp. Mục tiêu mà đề  tài cần đề  cập là mục đích và tác dụng của việc trang trí  lớp học. Trang trí để làm gì? Vì sao phải trang trí và trang trí như thế nào?  Thời   điểm nào thì bắt đầu thực hiện? Quan trọng nhất là cách sử dụng. Nếu sử dụng   không đúng mục đích, không phù hợp đối tượng thì kết quả sẽ không như mong  muốn. Vì vậy, nhiệm vụ của đề tài là tìm ra các giải pháp giúp giáo viên năm rõ   cách trang trí và biết vận dụng linh hoạt vào bài dạy. Điều đó phụ  thuộc vào  nhiều yếu tố: Giáo viên – học sinh – cha mẹ và cộng đồng. Tất cả phải có cùng  quan điểm, có sự đồng thuận và nhất trí cao mới đem lại thành công.   Thực tế  lâu nay chúng ta chưa thật sự  quan tâm nhiều đến vấn đề  này,  nhiều người vẫn nghĩ rằng các công cụ  chỉ  để  trang trí cho đẹp, hoặc nếu có  cũng chỉ dừng lại mức độ  tự học sinh trao đổi với nhau  cho vui, chưa phát huy  hết tác dụng như Mô hình VNEN mong đợi. Qua quá trình ba năm thực hiện, từ  thực tế  giải quyết những khó khăn của học sinh, lớp nào  ở  tr ườ ng  Tiểu học  Nguyễn Thị Minh Khai cũng ch ọ n đ ượ c m ộ t s ố  công c ụ  phù h ợ p đ ể  th ự c  hi ệ n. Đó là  Góc Cộng đồng, Góc Học tập, Góc Thư  viện, Góc Thiên nhiên…  3 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
  4.  M  ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN Tất cả  hiện ra dưới bàn tay khéo léo, cần cù, sáng tạo của thầy trò và cha mẹ  học sinh. Các công cụ  lớp học đã góp phần không nhỏ   trong việc rèn kĩ năng   sống và giáo dục đạo đức, phẩm chất, năng lực của các em.  3. Đối tượng nghiên cứu ­ Một số biện pháp hướng dẫn  giáo viên trang trí và sử d ụ ng các công c ụ  h ỗ  tr ợ  h ọ c t ậ p trong l ớ p h ọ c. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu    ­ Nghiên cứu về vai trò người quản lí trong công tác quản lí, chỉ đạo dạy   học theo mô hình trường học mới (VNEN).   ­ Nghiên cứu về  cách trang trí,  tác dụng và cách sử d ụ ng các  công c ụ  h ỗ  tr ợ  h ọ c t ậ p.  ­  Nghiên cứu giáo viên và học sinh khối VNEN  của trường TH Nguyễn   Thị Minh Khai (về cách sử dụng các công cụ trong mỗi lớp học). 5. Phương pháp nghiên cứu   ­Sưu tầm, nghiên cứu tài liệu: Thường xuyên sưu tầm tra cứu sách báo tài  liệu có liên quan đến nội dung đề  tài, qua đó phân tích tổng hợp hệ  thống hóa  theo mục đích nghiên cứu. ­ Điều tra, khảo sát thực tiễn: Tiến hành kiểm tra, khảo sát chất lượng và  thiết lập một số  câu hỏi dạng trắc nghiệm, qua đó nắm bắt được thực trạng   chung. ­ Tư  vấn, so sánh: Dựa vào kết quả  học tập của học sinh qua từng giai   đoạn để  so sánh chất lượng. Tư  vấn, chỉ  đạo, hướng dẫn  trực tiếp cho từng  giáo viên sau mỗi đợt kiểm tra. ­ Tổng kết kinh nghiệm: Qua các cuộc họp đột xuất và định kì, đúc rút kinh  nghiệm được hoặc chưa được để tổng hợp đi đến kết luận. II. Phần nội dung   1. Cơ sở lý luận Những năm qua ngành giáo dục nước ta có nhiều giải pháp nâng cao chất   lượng nhằm đáp  ứng mục tiêu mà Đảng đề  ra: nâng cao dân trí, đào tạo nhân  lực, bồi dưỡng nhân tài. Tuy vậy vẫn chưa đáp ứng được mục tiêu mà Đảng ta   đã chỉ ra. Nguyên nhân có nhiều, song vấn đề mấu chốt hiện nay vẫn là Phương   pháp dạy học. Định hướng đổi mới giáo dục của Đảng được thể hiện trong luật   giáo dục. Qua đó cho thấy việc đổi mới phương pháp dạy học không còn là vấn  đề  chung chung mà đã có định hướng rõ ràng, phải phát huy tính tích cực, chủ  động, sáng tạo, năng lực tự  học, tự  nghiên cứu, cùng nhau   thảo luận để  làm  sáng tỏ vấn đề  đặt ra. Rèn  kỹ năng, đem lại hứng thú học tập cho học sinh và  khắc phục kiểu dạy lấy giáo viên làm trung tâm; Hạn chế  tối đa lối dạy học  truyền đạt một chiều . . .  4 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
  5.  M   ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN   Bắt đầu từ  năm học 2008 – 2009 ngành giáo dục  phát động phong trào thi   đua “ Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực ở Tiểu  học” . Đây là tín  hiệu đáng mừng cho những ai quan tâm đến giáo dục, là bước tiến vượt bậc   của ngành. Tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh làm việc trong bầu không  khí tích cực, thân thiện. Qua đó giáo dục tình cảm gia đình, tình yêu quê hương   đất nước cho học sinh. Xây dựng nền giáo dục hiện đại giúp học sinh chủ  động, thân thiện với bạn bè, thầy cô và với mọi người xung quanh hơn. Học   sinh biết tích cực hoạt động trong học tập, bước đầu rèn luyện kĩ năng sống:   “Học để  biết. Học để  làm. Học để  tự  khẳng định mình. Học để  cùng chung   sống”. Đối với mô hình trường học mới Việt Nam, việc tạo ra môi trường học   tập thân thiện là vô cùng quan trọng. Vì mô hình này tập trung   vào các phương  pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, cho phép học sinh tương tác đến các  yếu tố  trong lớp học, đặc biệt là tương tác với các công cụ  hỗ  trợ  học tập để  phát huy các hoạt động học do GV tổ chức. Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng  của việc sử dụng các công cụ hỗ trợ học tập trong lớp học, trường đã triển khai  cho GV hoàn thành các góc công cụ trong lớp một cách sáng tạo, đa số giáo viên   đã  tạo điều kiện cho các em tương tác công cụ dưới nhiều hình thức phong phú,   đa dạng, bước đầu đem lại hiệu quả nhất định. 2.Thực trạng 2.1. Thuận lợi­ khó khăn          * Thuận lợi:   Trường co hai phân hiêu đóng  ́ ̣ ở trung tâm ba thôn Hoa Tây – Hoa Trung – ̀ ̀   Hoa Đông thu ̀ ộc Xa EaBông. Tình hình an ninh tr ̃ ật tự trong khu vực tương đối  đảm bảo, người dân có mức sống tương đối ổn định.   Nhà trường thường xuyên được sự  quan tâm, chỉ  đạo của Đảng, Chính   quyền địa phương, của Phòng giáo dục và các ban ngành đoàn thể. Hội phụ  huynh học sinh tích cực và có nhiều đóng góp hỗ  trợ  cho các hoạt động phong   trào của nhà trường. Đặc biệt là việc trang trí lớp học theo mô hình VNEN. Đội ngũ CB­GV­NV có tinh thần đoàn kết và hướng phấn đấu tích cực để  từng bước xây dựng đơn vị vững mạnh về mọi mặt. Được PGD&ĐT quan tâm  tạo điều kiện trong mọi hoạt động như các đợt tập huấn các cấp và  chuyên đề  cấp trường.  Cơ  sở  vật chất tương đôi đây đu, h ́ ̀ ̉ ọc sinh được học 02 buổi/ngày. Hầu  hết học sinh ngoan, chăm chỉ học tập; có 100% học sinh lớp 1 đã qua lớp Mẫu   giáo 5 tuổi.  5 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
  6.  M   ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN        Đại bộ  phận giáo viên đã tích cực tìm hiểu, tham khảo để  nâng cao nhận   thức về chủ trương của Bộ GD&ĐT, của Sở GD&ĐT Đắk Lắk, Phòng GD&ĐT  Krông Ana trong việc dạy học theo mô hình VNEN. Bước đầu phụ  huynh, học sinh hào hứng tham gia, đã có sự  đồng thuận   trong cộng đồng xã hội. *  Khó khăn Đây là mô hình dạy học mới mẻ  nên còn nhiều khó khăn trong công tác   tuyên truyền. Một vài  PHHS chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em,   chưa quan tâm đến việc trang trí lớp học. Giáo viên chưa được trải nghiệm kĩ về phương pháp dạy học mới nên còn  nhiều lúng túng. Đặc biệt là cách trang trí và sử dụng các Công cụ trong lớp học. Trong quá trình thực hiện kế  hoạch đổi mới chương trình, một bộ  phận   nhỏ  giáo viên vẫn chưa tích cực cải tiến phương pháp, còn nặng nề  trong lối  dạy cũ, chưa chịu khó học hỏi nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, đặc biệt là việc   sử  dụng các Công cụ  vào giảng dạy. Họ mới chỉ dừng lại  ở hình thức, chưa đi  sâu vào nội dung. Một số học sinh chưa quen cách học mới nên còn nhiều bỡ ngỡ. 2.2. Thành công và hạn chế * Thành công:  Sau ba năm thực hiện mô hình thí điểm VNEN, theo đánh giá khách quan  đã đạt được kết quả bước đầu. Tất cả giáo viên trong trường đã biết cách trang   trí và sử dụng công cụ vào dạy học.  Hầu hết giáo viên đã hiểu rõ tác dụng của   các Công cụ lớp học. Nó góp phần không nhỏ trong sự thành công của từng bài  học. Học sinh mạnh dạn,   tự  tin, không khí học tập trong lớp tự  nhiên, nhẹ  nhàng, thân thiện, giáo viên và học sinh tương tác với nhau nhiều hơn và kết quả  học tập, chất lượng giáo dục bước đầu được cải thiện. Cụ  thể, giáo viên đã  linh hoạt hơn trong việc tổ  chức các hoạt động cho học sinh. Giáo viên không  còn phải soạn bài nhưng có ý thức nghiên cứu tài liệu học tập, điều chỉnh một  số hoạt động cho phù hợp với đối tượng học sinh; làm đồ dùng dạy học để giúp  học sinh có phương tiện học tập tốt hơn. Còn với các em học sinh khi áp dụng  mô hình thực nghiệm này, tại các lớp học  đã thành lập hội đồng tự  quản của  lớp, bước đầu các em đã biết làm quen với nhiệm vụ của mình. Đáng ghi nhận   là sự  phát triển năng lực tự  học của học sinh. Các em biết tương tác với các  Công cụ hỗ trợ học tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên, giúp cho việc tiếp thu  bài học nhẹ nhàng và hiệu quả hơn (đây được coi là điểm mới của học sinh học   lớp VNEN, hơn hẳn các lớp không học theo mô hình này). Nhiều em đã thể hiện  được khả năng của mình khi điều khiển và có thể hướng dẫn các bạn khác học.   6 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
  7.  M   ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN Một điều dễ nhận thấy, đó là học sinh đã mạnh dạn, linh hoạt và sáng tạo hơn   trong học tập, có tư duy độc lập khi phát hiện kiến thức mới.  Mặt khác, phong trào trang trí lớp học phát triển rầm rộ, có chất lượng và  được nhiều trường bạn đến tham quan. Đa số phụ huynh hài lòng với môi trường học tập của con em mình.    * Hạn chế:    Tuy nhiên, từ thực tế tại trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai (mặc dù  đã là trường chuẩn quốc gia) cho thấy, vẫn còn rất nhiều khó khăn về cơ sở vật   chất không thể  “một sớm, một chiều” mà khắc phục được ngay. Trước hết,   diện tích lớp học nhỏ, sĩ số học sinh lại đông nên việc trang trí các góc học tập  chưa được như mong muốn. Một vài giáo viên chưa biết cách phối hợp hài hòa giữa các công cụ trong  lớp, còn trang trí  lòe loẹt, rối mắt.   Một số  giáo viên sức khỏe yếu, tuổi cao   và một số  giáo viên nữ  đang   trong độ  tuổi sinh đẻ  nên có tác động không nhỏ  đến việc thực hiện triển khai   mô hình mới trong trường.  Một số giáo viên chưa hiểu hết tác dụng của các Công cụ lớp học nên việc  sử dụng chưa đạt hiệu quả cao.  Việc chuyển đổi từ  phương pháp truyền thống qua phương pháp dạy học   tích cực còn mới mẻ nên không khỏi gây cho GV, HS và phụ huynh sự bỡ ngỡ. 2.3. Mặt mạnh – mặt yếu   * Mặt mạnh:   Học sinh được trải nghiệm 3 năm  với chương trình VNEN, đa số  các em  biết cách tự học, chủ động sáng tạo trong việc tham gia tương tác và sử dụng  các  công cụ  tương đối thành thạo. Phụ  huynh đồng thuận, tích cực tham gia trong  việc trang trí lớp học. Họ đã biết được con mình học gì, học như thế nào, từ đó  giúp con nhiều hơn trong việc liên hệ,  ứng dụng kiến thức đã học vào cuộc   sống (cha mẹ là giáo viên thực hành khi ở nhà). Nhà trường được PHHS các lớp   đồng tình  ủng hộ, không còn băn khoăn, lo lắng; ban đại diện PHHS các lớp  luôn tạo điều kiện tối đa để  cùng phối hợp, kết hợp với nhà trường giáo dục  học sinh, trong đó có việc tăng cường cơ  sở  vật chất để  trang trí lớp học, tạo  điều kiện thuận lợi để học sinh học tập. Trên thực tế, các lớp học thực nghiệm mô hình VNEN tại trường tiểu học  Nguyễn Thị Minh Khai năm học vừa qua và năm học 2015­2016  được trang trí  rất sinh động, đẹp và vui mắt; xây dựng góc học tập, góc thư viện, góc văn hóa   địa phương, bản đồ dân cư, trưng bày các bài viết, vẽ... của học sinh nên các em  rất yêu thích lớp học và có ý thức giữ gìn, trang trí lớp học của mình tốt  hơn.  * Mặt yếu: 7 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
  8.  M   ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN Học sinh vùng nông thôn một số kĩ năng còn nhiều hạn chế như: giao tiếp,   hợp tác, lãnh đạo,… Chuyển đổi từ phương pháp truyền thống qua phương pháp học tích cực  một cách đột ngột nên không khỏi gây cho GV, HS và phụ  huynh tâm lý hoang  mang, sợ học sinh không tiếp thu được kiến thức bài học, nhất là đối tượng học  sinh còn hạn chế về năng lực. Một số  PHHS chưa quan tâm tới việc học của con em, còn phó mặc cho  giáo viên. Một số  giáo viên còn lúng túng khi tổ  chức hướng dẫn học sinh sủ  dụng   công cụ  và sử  dụng công cụ  chưa đúng mục đích, chưa phù hợp với thời điểm   nên công cụ  chưa được phát huy tác dụng. Đồng thời một số  giáo viên chưa có  tinh thần trách nhiệm, chưa tích cực trong việc hướng dẫn học sinh sử dụng công  cụ hỗ trợ học tập nên hiệu quả chưa cao.  Một vài giáo viên còn thụ động trong  việc trang trí và sử dụng các Công cụ lớp học. Chưa có sự sáng tạo, linh hoạt để  phát huy hết tác dụng của các Góc học tập.  2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Thứ  nhất, cơ  sở  vật chất phải đảm bảo chuẩn theo yêu cầu của mô hình   Vnen. Thứ hai, nhận thức và sự cầu tiến của giáo viên rất quan trọng. Họ là nhân  vật chính để thay đổi phương pháp dạy học. Thứ ba, sự tiếp thu và tiến bộ của học sinh, đây chính là  ”sản phẩm” của   quá trình dạy học. Chất lượng học sinh quyết định kết quả  của việc đổi mới  giáo dục. Thứ  tư, sự  nhiệt tình tham gia của cộng đồng, họ  phải đồng thuận với   chúng ta trên con đường giáo dục hiện nay. Một yếu tố tác động mà bất cứ trường tiểu học nào cũng sẽ gặp phải khi  triển khai thực nghiệm mô hình VNEN, đó là học sinh từ  lớp 1 lên lớp 2 khả  năng điều hành của nhóm trưởng chưa tốt, chưa quen với việc tương tác với các   công cụ lớp học nên phải mất nhiều thời gian để giáo viên hướng dẫn học sinh   ở  những  tháng đầu năm học mới,  cần có thời gian để  các em làm quen. Bởi   vậy, dù các học sinh trong lớp đã tự  bầu ra được hội đồng học tập, các nhóm  học tập nhưng cũng phải mất một vài tháng đầu năm học, các em học sinh trong   mới có thể luân phiên đảm nhận trách nhiệm làm nhóm trưởng  để  giúp các em   có được sự tự tin, hoạt bát như mục tiêu của mô hình VNEN đề ra.   2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề của thực trạng trên Thực tế giáo dục nói chung và dạy học nói riêng của nước ta hiện nay còn  nhiều biểu hiện hạn chế, thậm chí còn lạc hậu trước những yêu cầu của nền   kinh tế  xã hội đang đổi mới và yêu cầu phát triển của đất nước. Vì vậy việc  8 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
  9.  M   ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN quản lý hoạt động dạy học là nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học để thực   hiện chiến lược con người ­ nhân tố quyết định sự phát triển xã hội là bức thiết,   là quan trọng. Trước đây, vì chưa có kinh nghiệm nên việc trang trí còn mang nặng tính  hình thức,  màu mè, rườm rà và dẫn đến phản tác dụng cho việc tích hợp giữa   mục tiêu học tập, rèn luyện các kỹ năng của học sinh. Thông thường công việc   này chỉ  được khởi xướng rầm rộ vào đầu năm học. Nhưng sau đó không được   cập nhật nên dần dần bộc lộ  những hạn chế. Năm nay, chúng tôi định hướng  cho giáo viên để việc trang trí lớp học có những nét chung mà vẫn đảm bảo đặc  thù riêng của từng lớp. Mỗi giáo viên phải  hiểu rõ ý nghĩa của việc trang trí.  Phải thuyết phục được học sinh, phụ huynh cùng tham gia. Phải có kế hoạch sử  dụng các Công cụ  như thế nào cho đạt hiệu quả. Không được để  các Công cụ  chỉ là “cho đẹp, cho đúng với hình thức lớp VNEN” mà phải là một phần trong  các tiết học nếu có nội dung phù hợp. Đó mới là cải đích mà VNEN momg   muốn. Phải khẳng định rằng, công cụ  để  tổ  chức hoạt động dạy học trong nhà  trường VNEN là rất quan trọng, thông qua các công cụ này, giáo viên có thể phát   hiện và nuôi dưỡng các tiềm năng; giải đáp những băn khoăn, lo lắng; giúp các  em phát triển sự đam mê, sự sáng tạo và hình thành nhân cách cùng các kỹ năng  hợp tác trong học tập. Học sinh sử dụng các công cụ để tham gia hoạt động dựa   trên vốn từ vựng và năng lực của mình. Giáo viên có thể hỗ trợ để giúp các công  cụ  này phát huy được tác dụng trong quá trình học tập của học sinh. Vì vậy,  giáo viên cần tận dụng tối đa những công cụ  mà lớp lựa chọn để  phục vụ  cho  học tập và các hoạt động của lớp. Các công cụ  đã được chứng minh là hữu ích  cho công tác quản lý các hoạt động ở lớp học, trường học.  3. Giải pháp, biện pháp  3.1  Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Nhằm đề  xuất các giải pháp giúp giáo viên biết cách trang trí và sử  dụng  các Công cụ  hỗ  trợ  học tập nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Qua đó, giúp  các em chia sẻ, tư duy sáng tạo, chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động, tự tin…  góp phần nâng cao chất lượng dạy học, đáp  ứng yêu cầu giáo dục hiện nay   trong thời kỳ hội nhập. Định hướng cho giáo viên xác định đúng mục đích của việc trang trí lớp:   Lớp học có thân thiện thì học sinh mới tích cực. Giúp giáo viên biết cách sử dụng các công cụ như thế nào cho hợp lí và đạt   hiệu quả cao. Đưa phong trào trang trí lớp vào thi đua, góp phần khơi dậy sự  sáng tạo,   linh hoạt, có trách nhiệm trong dạy học. 9 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
  10.  M   ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN Ban giám hiệu không để  giáo viên đơn độc mà huy động cả  công đồng  cùng tham gia vào công tác giáo dục. Trường   tiểu   học   Nguyễn   Thị   Minh   Khai   được   nằm   trong   dự   án   của  chương trình "Dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN)”.  Điều  đó cho thấy, cơ  hội cho trường cũng cao nhưng thách thức cũng không phải là  nhỏ. Chính vì vậy chúng tôi luôn cố  gắng để  nâng cao chất lượng dạy và học   trong nhà trường. Với xu hướng “Dạy thật ­ học thật ­ chất lượng thật”,  việc   dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN) sẽ giúp cho việc nâng cao chất  lượng giáo dục toàn diện học sinh, đồng thời giúp cho người giáo viên nhẹ  nhàng hơn trong khâu soạn giảng, có nhiều thời gian đầu tư nghiên cứu bài dạy.  Tuy nhiên, trong quá trình tổ  chức thực hiện không thể  không gặp những khó  khăn nhất định. Vì vậy, sự chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu là rất quan trọng,   chính là đòn bẩy để giúp giáo viên vượt qua những khó khăn ban đầu.  3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Biện pháp 1:  Công tác tuyên truyền Để  thực hiện tốt  chương trình VNEN, khâu  đầu tiên là công tác tuyên  truyền. Đặc biệt, người quản lí phải thực sự thấm nhuần bản chất của mô hình  VNEN. Từ  đó truyên truyền sâu rộng trong  nhân dân, các ban ngành đoàn thể,  đặc biệt là trong Hội đồng sư  phạm. Tôi luôn xác định: mỗi giáo viên là một   “tuyên truyền viên”   xuất sắc    để  giúp phụ  huynh   và học sinh hiểu rõ về  VNEN. Có như  vậy mới tìm được sự  đồng thuận của cả  xã hội. Vì thế, khi  được Phòng giáo dục phân công chọn trường dạy thí điểm của dự  án, tôi đã  không khỏi băn khoăn lo lắng. Chúng tôi tham gia các cuộc họp dân của cả  ba  thôn, giải thích cụ thể về cách dạy, cách học và đặc biệt là sự  hợp tác của cha   mẹ học sinh. Mới đầu thật là khó khăn vất vả, nhưng dần dần họ cũng hiểu và  ủng hộ nhà trường. Về  phía giáo viên và học sinh, sau khi được đi tập huấn tại Sở  giáo dục,  phòng giáo dục, tôi đã tổ  chức chuyên đề  cấp trường để  tất cả  giáo viên thấm  nhuần việc dạy học theo mô hình Vnen. Đặc biệt, với công tác trang trí lớp, tôi  luôn tìm hiểu, sưu tầm qua các tài liệu để  định hướng cho giáo viên cách thực  hiện tốt nhất. Những năm trước, chúng ta đã thực hiện trang trí “Trường học thân thiện­   học sinh tích cực” nhưng mới đạt  ở  mức độ  hình thức. Với VNEN, việc trang  phải xác định rõ: Trang trí cho ai ? Trang trí để  làm gì ? Trang trí như  thế  nào?  Bộ phận nào thực hiện ? Vì vậy, cần thông tin, tuyên truyền sâu rộng trong phụ  huynh học sinh, chia sẻ với phụ huynh những điều họ còn băn khoăn trong việc  giảng dạy theo mô hình trường học mới (VNEN)   nhất là vào buổi họp phụ  huynh đầu năm học để  từ  đó họ  hiểu  và ủng hộ   nhà trường, đăc biệt là trong   10 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
  11.  M   ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN công tác trang trí lớp học. Đồng thời, v iệc tạo ra một môi trường học tập tốt, để  các em coi lớp học như gia đình của mình là trách nhiệm của mỗi thầy cô giáo.  Từ đó các em sẽ thấy mỗi ngày đến trường thực sự là một ngày vui.  Biện pháp 2:  Công tác chỉ đạo           Triển khai đầy đủ, kịp thời các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp;   chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động của nhà trường. Ngay từ đầu năm học, tôi đã xây dựng kế hoạch và đề ra những giải pháp   cụ  thể  trong công tác quản lý nhằm khắc phục những khó khăn khi thực hiện  việc dạy học theo mô hình trường học mới. Cử giáo viên tham gia tập huấn các  chuyên đề  do Sở  giáo dục tổ  chức. Phân công giáo viên theo tình hình thực tế  của trường và chú  ý đến việc phân công giáo viên giảng dạy theo mô hình  trường học mới (VNEN). Tham khảo ý kiến trong Hội đồng trường, tổ  chuyên  môn và thống nhất trong Ban giám hiệu phân công giáo viên theo đúng trình độ  chuyên môn, sở  trường sở đoản của giáo viên nhằm tạo điều kiện cho họ  phát  huy hết khả  năng của mình trong công tác giảng dạy. Lên kế  hoạch thực hiện   cụ  thể  theo từng khối lớp. Phân công thực hiện các chuyên đề,  thường xuyên  thăm lớp dự giờ để giúp đỡ kịp thời những khó khăn vướng mắc của giáo viên.  Chỉ  đạo cán bộ  thư  viện   trang bị  đầy đủ  sách giáo khoa, sách tham khảo và  những tài liệu chuyên môn cần thiết cho công tác giảng dạy.  * Về công tác chủ nhiệm lớp:    Tôi thấy rằng để  xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực” là  phải bắt đầu từ việc “xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực”. Mỗi lớp  học thân thiện, mỗi học sinh tích cực là một viên gạch nền móng vững chắc cho  một ngôi trường thân thiện. Vì thế, vai trò của giáo viên chủ  nhiệm rất quan  trọng. Họ là người quyết định sự thành công và chất lượng của từng lớp. Nhiều  lớp tốt sẽ có trường tốt. Họ là nhịp cầu nối giữa gia đình và nhà trường, là một   “tuyên truyền viên” để cộng đồng ủng hộ chúng ta trong lĩnh vực giáo dục hiện  nay. Yêu cầu giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Họp cha mẹ học sinh đầu   năm để  triển khai kế  hoạch của nhà trường. Cùng cha mẹ  học sinh thực hiện  kế  hoạch trang trí lớp học. Vận động họ  phối hợp nhịp nhàng trong việc giáo  dục các em. Đưa hoạt động trang trí lớp vào tiêu chuẩn thi đua và xếp loại GVCN. Đưa  việc sử dụng các Công cụ vào tiêu chí đánh giá giờ dạy của mỗi giáo viên. * Về công tác trang trí lớp học: 11 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
  12.  M   ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN  Môi trường học tập xanh, sạch, đẹp, an toàn, thân thiện là yếu tố rất quan  trọng góp phần thu hút trẻ  đến trường, đến lớp, góp thêm cho lớp học một   luồng không khí thân thiện, thoải mái, sinh động.  Vì vậy, tôi đã hướng dẫn, tư vấn cho  giáo viên cách trang trí để  mỗi lớp mang   một sắc màu riêng. Tổ chức chuyên đề cách sử dụng để tăng hiệu quả tiết dạy,   phát huy tối đa hiệu quả của từng Công cụ. Từ đó, giúp giáo viên hiểu rõ về các  Công cụ  và tác dụng của nó. Không những thế, giáo viên phải hướng dẫn cho   học sinh biết tương tác với các Công cụ, biết phối hợp với học sinh qua từng  hoạt động. Quan trọng nhất, giáo viên phải hiểu được Công cụ lớp học là gì? Ai   làm? Trang trí  ở  đâu? Sử  dụng như  thế nào? Vì vậy, ngay đầu năm học, tôi đã  thực hiện chuyên đề  về  trang trí lớp và cách sử  dụng các Công cụ  lớp học.  Chúng ta cần biết lựa chọn những Công cụ nào phù hợp với học sinh lớp mình,  không nên lạm dụng vì sẽ gây tốn kém và lãng phí. Quan trọng nhất là bản thân  mỗi giáo viên phải hiểu rõ tác dụng và mục đích của từng loại Công cụ. Có rất   nhiều loại  nhưng tôi hướng dẫn giáo viên lựa chọn như  sau:    ­ Bảng 10 bước học tập   ­ Hòm thư cá nhân­ (Nhịp cầu bè bạn)   ­ Góc sinh nhật   ­ Bảng theo dõi Ngày em đến lớp   ­ Cây nội quy lớp học   ­ Bản đồ cộng đồng   ­ Góc địa phương   ­ Góc thiên nhiên   ­ Góc thi đua   ­ Góc học tập (góc Toán, góc Tiếng Việt, góc TNXH)    Trong buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi hướng dẫn giáo viên quy trình thực  hiện như sau: Sau khi được sự  thống nhất chỉ đạo của Ban giám hiệu, các khối  họp tổ  bàn bạc, thảo luận và đề  xuất phương án thực hiện để  lãnh đạo nhà   trường duyệt. Sau đó, họp cha mẹ học sinh, thông qua kế hoạch của nhà trường,   của lớp và cùng thống nhất cách làm. Tôi luôn nhắc nhở giáo viên làm thể nào để  có sự  sáng tạo nhưng lại tiết kiệm trong việc lựa chọn nguyên vật liệu. Có thể  tận dụng những vật dụng trong gia đình như  hộp bánh để  làm Hòm thư, bìa cát   tông, tờ lịch cũ  để  làm bảng Ngày em đến lớp; giấy màu, ống hút hoặc báo để  làm hoa, có thể tận dụng đũa tre, que kem, xốp để trang trí…  Mỗi lớp đều có sự  đầu tư, suy nghĩ để  làm sao cho lớp mình trở  nên vui   tươi, nhiều màu sắc mà vẫn đạt thẩm mĩ, không bị rối mắt, giúp các em có cảm   giác hưng phấn khi bước chân vào lớp học hàng ngày.  12 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
  13.  M   ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN Trong buổi chuyên đề, tôi giải thích rõ về  mục đích, tác dụng, cách xây  dựng và vận dụng từng loại công cụ vào dạy học. Việc này phải thực hiện ngay   từ tháng tám. Sau đây là một vài ví dụ  về  cách xây dựng và sử  dụng một số  công cụ  trong lớp học: * Hòm thư cá nhân hay Nhịp cầu bè bạn:   Trước hết, giáo viên phải hiểu rằng: Hòm thư kết bạn tạo cơ hội cho GV   và HS trong lớp được chia sẻ  những cảm xúc, suy nghĩ, hình thành cho HS thói  quen biết quan tâm, chia sẻ với mọi người; rèn luyện HS biết tôn trọng sự riêng   tư  của bạn, góp phần nâng cao năng lực sử  dụng Tiếng Việt cho các em. Công  cụ này còn là cách để động viên, khích lệ HS hiểu nhau và thương yêu nhau hơn.  Có thể  vận dụng vào các bài học GD Đạo đức, môn Tiếng việt, các tiết SHTT  hoặc NGLL... ­ Cách th ự c hi ệ n nh ư  sau: + Bước 1: GV cho mỗi HS tự tạo một hộp thư nhỏ  từ  các vật dụng như  hộp bánh nhỏ, giấy bìa, tranh ảnh, giấy màu, giấy trắng… GV để HS tự vẽ, cắt  dán, trang trí những hình ảnh các em yêu thích. Trên mỗi hộp thư cá nhân có tên  của HS. GV có thể hỗ trợ HS, HS có thể hỗ trợ lẫn nhau để tạo hộp thư. Công  việc này cũng có thể thực hiện ở nhà với sự hỗ trợ của PHHS. GV lưu ý HS về  kích cỡ tối đa cho mỗi hộp thư cá nhân. + B ướ c   2:  HS cùng gắn những   hộp thư  cá nhân của mình tại một vị  trí  trong lớp. Hộp thư  bè bạn được trang trí đẹp mắt, được gắn  ở  vị  trí đảm bảo  tất cả các HS trong lớp đều có thể với tới được. ­ Cách   s ử   d ụ ng : GV cùng trao đổi với HS về  tác dụng của hộp thư  bè   bạn, giải thích cho HS thấy mỗi cá nhân trong lớp đều có một hộp thư riêng nên   bất cứ điều gì các em muốn chia sẻ, trao đổi với bạn bè hoặc GV, các em có thể  viết thư  và bỏ  vào hộp thư  riêng của bạn, của Cô.  Các em có thể  đề  tên của  mình trong thư hoặc không. GV nên sử dụng hộp thư bè bạn để  khích lệ, động  viên, góp ý với HS mà không làm các em xấu hổ trước lớp. GV cũng có thể bỏ  vào hộp thư  cá nhân của các em những bài toán, câu đố  để  tăng thêm hứng thú  học tập cho các em. GV nên mở hộp thư hàng ngày hoặc hàng tuần để ghi nhận,  trả lời những ý kiến của HS cũng như giải quyết các vấn đề nảy sinh trong lớp.   Tốt nhất nên mở hộp thư hàng ngày để đảm bảo cập nhật và giải quyết kịp thời  những vấn đề mới phát sinh. Tôi lưu ý GV, những vấn đề mang tính cá nhân thì  cần trao đổi với cá nhân HS, những vấn đề mang tính tập thể thì cần có sự trao   đổi, bàn bạc trước cả lớp để tìm ra phương án giải quyết.  13 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
  14.  M   ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN    Nói chung, Hộp thư  Bè bạn hay Hòm thư  cá nhân đều là con đường dẫn   dắt giáo dục học sinh hoàn thiện dần cái hay cái đẹp, giúp tình cảm bạn bè của   học sinh ngày càng thắm   thiết qua những lời tâm sự  mộc mạc, ngây thơ  của  tuổi học trò; từ đó khơi dậy, thôi thúc các em thêm yêu trường, yêu lớp, yêu bạn  bè… qua những lời tâm tư  tình cảm, còn là chiếc cầu nối của các em với phụ  huynh và thầy cô giáo trong những trường hợp cần thiết mà các em không thể  nói trực tiếp. Nhiều giáo viên của trường cũng viết thư cho học sinh tâm sự  như  những  người bạn thân, giúp cho các em chuyển biến từ  nhận thức tiêu cực sang nhận  thức tích cực.  Có những lời tâm sự  qua thư  trở  thành những kỉ  niệm đẹp khó  quên, in đậm mãi trong tâm hồn của trẻ, hơn hẳn những lời dạy bảo khác. Cũng  có những bức thư làm cô giáo xúc động, thương các em nhiều hơn. Qua những lá  thư, tình cảm giữa cô trò càng thêm gắn bó và có trách nhiệm hơn. 14 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
  15.  M   ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN Đăc biệt, có thể  phối hợp với cha mẹ học sinh để  khai thác tác dụng của   Công cụ này trong việc rèn Kĩ năng sống hoặc giáo dục đạo đức cho các em. Đó  cũng là một cách để tăng cường Tiếng việt cho học sinh. Ví dụ: Trước buổi họp   CMHS, giáo viên tổ  chức cho các em viết thư  cho người thân, những điều mà  các em không muốn nói trực tiếp, hãy nhờ  hộp thư  chia sẻ  những tâm tư  tình  cảm để bố  mẹ, ông bà hiểu mình hơn. Và điều không ngờ  đã xảy ra. Học sinh   hào hứng tham gia. Bố mẹ các em thì rất ngạc nhiên với hình thức mới mẻ này.  Đọc thư của con, người thì cười tủm tỉm, có người lại quay đi giấu những giọt   nước mắt. Giáo viên chủ nhiệm nhờ cây cầu tình cảm đó mà thắt chặt mối quan  hệ  nhà trường với cộng đồng. Một điều  không thể  thiếu trong việc giáo dục  các em học sinh.  Tôi vẫn nhớ một kỷ niệm khó quên ở lớp 5C, khi tôi dự giờ một tiết Sinh   hoạt lớp. Cô giáo tổ  chức cho học sinh kiểm tra Hộp thư  bè bạn và Điều em   muốn nói. Có một lá thư đã làm cả lớp xúc động, riêng tôi phải rơi nước mắt. Một lá thư của HS 15 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
  16.  M   ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN Sau tiết học đó tôi và cô giáo chủ nhiệm đã tìm hiểu hoàn cảnh gia đình em   và  động viên  để em có niềm vui trong học tập.          Em Hiếu nhận món quà nhỏ của tôi tại văn phòng Nh ư  v ậ y, n ế u chúng ta bi ế t cách khai thác dù là nh ữ ng chuy ệ n nh ỏ  nh ư ng hi ệ u qu ả  giáo d ụ c đem l ạ i r ấ t l ớ n. *V ề  Góc sinh nh ậ t: 16 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
  17.  M  ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN  Giáo viên cần hiểu rõ ý nghĩa của Góc sinh nhật: Tạo sự vui tươi trong lớp  học, giúp cho HS biết cách quan tâm đến bạn bè, biết cách tổ chức các buổi lễ kỉ  niệm nho nhỏ tạo sự gắn kết các thành viên trong lớp. Ở lứa tuổi Tiểu học, nhiều em không nhớ mình sinh vào ngày, tháng, năm  nào? Có những em chưa một lần được bố  mẹ  tổ  chức sinh nhật cho. Thậm chí  có em không biết “sinh nhật” là gì?. Cũng có em đã được bố  mẹ  tổ  chức một,  hai lần ở nhà nhưng cũng chỉ có những người thân, các anh, chị và bạn bè trong   thôn, xóm mà thôi. Việc xây dựng “Góc sinh nhật” là một trong những điểm mới  của mô hình “Lớp học VNEN”. Nó giúp các em hưởng trọn niềm vui, niềm  hạnh phúc trong ngày kỷ niệm trọng đại đó bên thầy cô, bố mẹ và bạn bè cùng   trang lứa. Cách xây dựng: GV không nên tự làm mà nên trao đổi với HS trong lớp về  cách xây dựng góc sinh nhật. Có thể là một cây với 12 bông hoa hoặc quả tương   ứng với 12 tháng trong năm và trên mỗi bông hoa ghi tên các bạn có ngày sinh  trong tháng. GV hãy để các em tự trao đổi và thống nhất cách thực hiện. Cũng có cách xây dựng khác nữa là GV chia lớp thành các nhóm có cùng  tháng sinh. Nhóm đó sẽ cùng bàn bạc để tìm cách mừng sinh nhật mà các em thích   nhất cho từng thành viên trong nhóm của mình. Có thể cả  phụ  huynh cùng tham   gia. ­ Cách sử  dụng: GV và  HS có thể  lên kịch bản cho một chương trình văn  nghệ, trò chơi... trong  tiết Sinh hoạt lớp hoặc tiết SHTT. GV cần hướng dẫn cho   HS trong lớp chúc mừng bạn mình và  gợi ý HS sử  dụng các công cụ  khác (vd:   17 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
  18.  M   ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN hộp thư  bè bạn, những lời yêu thương...) để  hiện tình cảm với bạn mình trong  ngày sinh nhật của các em. GV nên tạo điều kiện cho HS được mừng sinh nhật   nói về  bản thân mình, về  những thay đổi khi một tuổi mới đến với em hoặc  những tâm tư  tình cảm của các em. Như  vậy, qua Công cụ  này giúp học sinh   được Tăng cường Tiếng việt và rèn kĩ năng tự tin, mạnh dạn trước tập thể. * Bảng theo dõi: Ngày em đến lớp. Mục đích: Bảng Ngày em đến lớp được thiết kế để theo dõi sĩ số hàng ngày  của lớp. Công cụ  này như  một bảng đánh giá sự  chuyên cần của HS. Giúp HS   phát triển tính tự giác, đi học đúng giờ, có tinh thần trách nhiệm trong học tập. HS   cảm thấy vui vẻ, hứng thú khi đến trường. Cách xây dựng: Làm một bảng chung cho cả lớp, ghi tên HS, ngày tháng vào  các ô tương ứng. Có thể trang trí xung quanh bảng cho đẹp và vui mắt. Tôi còn nhớ năm đầu tiên thực hiện VNEN, từ quản lí đến giáo viên đang   còn bỡ  ngỡ, chỉ  biết trang trí lớp cho thật nhiều, thật đẹp mà không nghĩ đến  cách sử dụng. Vì vậy, bảng Ngày em đến lớp treo thật cao, giáo viên cũng  phải  bắc ghế mới tới nơi. Sau vài năm, khi đã hiểu rõ về VNEN, chúng tôi mới “vỡ”   ra nhiều điều. Góc trang trí “Ngày em đến lớp” sẽ  do các em tự  điền dấu tích   đánh dấu mỗi ngày đến trường. Qua đó, hình thành ý thức đi học chuyên cần, sự  thi đua giữa các bạn với nhau. Vì thế, phải đặt ở vị  trí thấp và dễ cho học sinh  đánh dấu. Cũng không cần đóng bảng cầu kì, chỉ cần một lốc Lịch cũ, lật ngược   mặt sau và trang trí thêm hoa lá, vẽ  vài đường diềm là ta đã có bảng Ngày em   đến lớp thật đẹp, gần gũi và tiện dụng. HS lớp 3 A đang đánh dấu ngày mình đi học * Bảng Nội quy lớp học: 18 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
  19.  M   ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN  Cách xây dựng: Đầu năm học, GV tổ  chức cho HS trong lớp cùng thảo  luận, thống nhất đưa ra nội quy của lớp. Nội quy cần ngắn gọn, cụ thể dễ hiểu   dễ nhớ. Có thể bổ sung điều chỉnh nội quy nếu thấy cần thiết và nên công bố ở  kỳ họp cha mẹ HS. Vật liệu làm nên chọn bìa cát tông và vẽ  trang trí cây hoa hoặc quả. Mỗi   bông hoa là một yêu cầu về  nội quy. Ví dụ: “Chúng ta cùng nhau đoàn kết, giữ  gìn vệ sinh chung các bạn nhé!” Cách sử  dụng: Cây nội quy nên đặt  ở  nơi dễ  nhìn thấy, hội đồng tự  quản  theo dõi  và nhắc nhở các bạn thường xuyên  thực hiện tốt nội quy. Từ  đó hạn   chế được việc vi phạm nội quy, ảnh hưởng đến phong trào thi đua của lớp. Qua   đó giáo dục các em tinh thần tự   giác, sống có trách nhiệm với bản thân và với  mọi người. Có thể vận dụng vào các bài học GD Đạo đức, môn Tiếng việt … * Góc cộng đồng Mục đích: Bản đồ cộng đồng giúp HS biết được khoảng cách các em đi học   từ nhà đến trường. Xác định được những thuận lợi khó khăn gặp trên đường đi.  Biết những chỗ nguy hiểm để tránh rủi ro. Biết địa chỉ nhà bạn để đến thăm. Cách xây dựng: Bản đồ  cộng đồng là sự  mô tả  một cách đơn giản bằng   hình vẽ khổ to về cộng đồng địa phương, trong đó bao gồm đường đi lại, ao hồ,  trường học, các nơi công cộng, các trụ sở công an, nhà văn hóa, công viên, trạm y   tế , những nơi có thể nguy hiểm với HS... Quan trọng nhất là Bản đồ cộng đồng  có tất cả  các ngôi nhà của HS trong lớp đang sinh sống. Để  làm được Công cụ  này không thể thiếu sự hợp tác của  phụ huynh. Họ sẽ giúp giáo viện xác định vị  trí các ngôi nhà, vẽ sơ đồ, đánh dấu những nơi nguy hiểm nhất…  19 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
  20.  M   ột số biện pháp  hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình    VNEN Nhà gần, nhà xa, nhà to, nhà nhỏ, chợ Hòa Đông, chùa Thiện Hòa xuất hiện  đầy đủ trong sơ đồ. Nếu không có sự hợp tác của cha  mẹ các em thì không thể  tái hiện Góc cộng đồng một cách đầy đủ, chi tiết như vậy. Đây là điều mới mẻ  mà công tác chủ nhiệm trước kia chúng chưa làm được. Nếu muốn đến nhà em  A, chỉ  cần nhìn vào sơ  đồ  là ta sẽ  biết nhà  ở  vị  trí nào. Không những thế, Góc   Cộng đồng còn giúp giáo dục các em ý thức về “cộng đồng”, khiến các thêm yêu  mến quê hương mình hơn. Qua đó, nhịp cầu nối giữa gia đình và nhà trường càng  xích lại gần nhau hơn. Một Phụ huynh lớp 3B chia sẻ: “Tôi tất vui khi được tham   gia học cùng con. Có như vậy tôi mới biết con mình đang học cái gì, học như thế   nào?” * Góc địa phương ­ Đây là một bảng mô tả  một cách đơn giản về  mối quan hệ  giữa nhà  trường và cộng đồng địa phương, trong đó bao gồm các thông tin về  mùa vụ,   nghề thủ công đặc trưng, phong tục tập quán, văn hóa lễ hội, trang phục đặc sắc,   khí hậu thời tiết…, và một số  sản vật đặc trưng của địa phương. Quan trọng  nhất là cách thức đưa những nội dung thông tin đó vào các hoạt động dạy học  trong lớp một cách hữu ích nhất. ­ Các thành viên trong cộng đồng bao gồm cha mẹ HS, HS và GV tham gia   vào quá trình xây dựng “góc địa phương” này. Có thể  vẽ trên giấy khổ  to, hoặc   trên tấm bìa lớn để mô tả thông tin về mùa vụ, nghề thủ công của địa phương, lễ  hội, khí hậu thời tiết… với các màu sắc sinh động. Mọi người có thể  đóng góp  hoặc sưu tầm một số sản phẩm đặc trưng của địa phương để  trưng bày tại góc  cộng đồng.  20 Tác giả:   Nguyễn Thị Thanh Tâm  ­ PHT  Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2