intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp luyện đọc cho học sinh lớp 1 trong các tiết Tập đọc

Chia sẻ: Huynh Thi Thuy | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:57

440
lượt xem
98
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Dạy tiếng Việt ở tiểu học là trang bị cho HS những tri thức về hệ thống tiếng Việt, rèn luyện cho học sinh những kỹ năng sử dụng tiếng Việt trong quá trình giao tiếp bao gồm các kỹ năng: Nghe, nói, đọc, viết. Trong đó kỹ năng đọc là hoạt động được chú ý đúng mức ngay từ lớp 1. Tham khảo nội dung sáng kiến kinh nghiệm "Một số biện pháp luyện đọc cho học sinh lớp 1 trong các tiết Tập đọc" để nắm bắt thông tin chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp luyện đọc cho học sinh lớp 1 trong các tiết Tập đọc

  1.   PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN ĐÔNG TRIỀU TRƯỜNG TIỂU HỌC QUYẾT THẮNG MỘT SỐ BIỆN PHÁP LUYỆN ĐỌC CHO  HỌC SINH LỚP 1 TRONG CÁC TIẾT TẬP ĐỌC Người viết :  Nguyễn Thị Thái Đơn vị          :  Trường Tiểu học Quyết Thắng
  2.                                                            NĂM HỌC 2013­ 2014 I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài  Dạy Tiếng Việt  ở  tiểu học là trang bị  cho HS những tri thức về  hệ  thống tiếng Việt, rèn luyện cho HS những kỹ năng sử  dụng tiếng Việt trong   quá trình giao tiếp bao gồm các kỹ  năng : nghe, nói, đọc, viết.Trong đó kỹ  năng đọc là hoạt động được chú ý đúng mức ngay từ lớp Một.           Ở tiểu học, môn tiếng Việt rất quan trọng. Học tốt môn tiếng Việt các  em có điều kiện học tốt các môn học khác. Bởi thông qua việc dạy học môn   tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy và cung cấp cho HS những   kiến thức sơ giản về tiếng Việt, về tự nhiên xã hội và con người, về văn hoá,  văn học của Việt Nam và nước ngoài. Đồng thời bồi dưỡng cho các em tình  yêu tiếng Việt và hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.           Để  có thể  bày tỏ  ý nghĩa, tình cảm của mình, người ta phải nói hoặc   viết tiếng Việt cả 2 dạng ngôn ngữ (lời nói, chữ  viết). Có nghĩa là dạy cả  4   kỹ năng (nghe, nói, đọc, viết) là dạy HS cả lĩnh hội và sản sinh các ngôn .....  bằng tiếng Việt. Trong quá trình đổi mới phương pháp và nội dung dạy học của bậc tiểu   học với mục tiêu giáo dục toàn diện các em được học 9  môn học, trong đó  môn Tiếng Việt là môn học hết sức quan trọng. Nhất là đối với lớp 1, là lớp   đầu cấp . Người ta thường nói “ Cấp 1 là nền, lớp 1 là móng”, móng có chắc  thì nền mới vững.    Ở  lớp Một các em học sinh bắt đầu làm quen với: Nghe,nói,đọc,viết.  Và kỹ  năng đọc rất quan trọng. Mặt khác  ở  lớp Một các em được tập đọc  thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ  học   -2-
  3. vững vàng, học tốt hơn. Và các em sẽ  ham học, tích cực trong học tập hơn   nếu kết quả học tập của các em đạt khá ­ giỏi.  2. Mục đích nghiên cứu Bản thân tôi khi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích tìm ra phương pháp  và hướng đi giúp học sinh học tập tốt hơn. Qua đó từng bước nâng cao năng   lực đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm của mỗi học sinh. ­ Về  đọc đúng: Học sinh đọc đúng các phụ  âm đầu vần, thanh, đọc đúng  tiếng từ, câu, đoạn văn, bài văn, bài thơ. ­ Đọc hay, đọc diễn cảm: Học sinh khi đọc bài văn, bài thơ  phải biết ngắt   nghỉ đúng các dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, dấu chấm cảm. Khi đọc   biết lên giọng, hạ giọng ở những câu văn, bài thơ, hơn nữa là đọc phân vai. ­ Học sinh hiểu được nội dung văn bản và thể loại (văn xuôi hay thơ), từ đó  học sinh có thái độ, tình cảm đúng trong cuộc sống. ­ Thông qua dạy học giúp các em có điều kiện tiếp cận và nắm bắt các môn  học, hiểu các văn bản, tiếp thu và chiếm lĩnh được tri thức, tự  tin khi giao   tiếp nhằm góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại, phát   triển toàn diện về mọi mặt Đức ­ Trí ­ Thể ­ Mĩ cho học sinh. 3. Thời gian, địa điểm      Thời gian nghiên cứu: từ tháng 9/2013 đến tháng 5/2014       Địa điểm nghiên cứu: Học sinh lớp 1B trường Tiểu học Quyết Thăng. 4. Đóng góp về mặt thực tiễn Để xây dựng một đề  tài thì việc nghiên cứu lý luận là không thể  thiếu   được. Khi nghiên cứu đề  tài này tôi đã nghiên cứu, tham khảo các sách giáo  khoa, sách giáo viên và nhiều tài liệu có liên quan đến việc nghiên cứu đề  tài  này.         Thông qua đề tài này nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây: ­ Rèn kỹ năng và năng lực đọc cho học sinh. -3-
  4. ­ Trau dồi kiến thức văn học, kiến thức ngôn ngữ, kiến thức đời sống cho  học sinh. ­ Giáo dục thẩm mĩ ­ tình cảm ­ phát triển tư duy cho học sinh. ­ Học sinh học môn Tiếng Việt có kết quả  cao trong đó có phân môn Tập  đọc. ­ Học sinh đọc tốt còn giúp các em học tốt các môn khác.         Để tiến hành làm đề tài này, tôi đã nghiên cứu sách giáo khoa phân môn  Tập đọc lớp 1 để  tìm hiểu nội dung, cấu trúc của chương trình. Tìm hiểu   việc dạy và học của các em có hệ thống nội dung bài học (nội dung sách giáo   khoa ). Nghiên cứu tài liệu hướng dẫn dành cho giáo viên của môn Tiếng Việt   trong đó có phân môn Tập đọc lớp 1. Nghiên cứu rút kinh nghiệm qua từng  tiết dạy để rút ra những điều cần thực hiện.        Nghiên cứu tài liệu có liên quan đến môn Tiếng Việt nhất là phân môn   Tập đọc.        Học hỏi các đồng nghiệp trong trường nhất là giáo viên khối 1. Vì vậy  đây cũng là dịp để bản thân tôi học hỏi và tham gia các tài liệu tham khảo của   các chuyên gia nghiên cứu dạy phân môn Tập đọc cho học sinh và qua đó có  thể tự bồi dưỡng bản thân. -4-
  5. II. PHẦN NỘI DUNG  1. Chượng 1: Tổng quan        Sự mong muốn lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học đọc, học   viết. Biết đọc, biết viết là cả một thế giới mở ra trước mắt các em.        Xuất phát từ  quan điểm chung là dạy Tập đọc kết hợp dạy ngữ  và rèn  đọc cho các em học tiếng mẹ đẻ. Hiện nay, ngành Giáo dục nói chung và bậc  Tiểu học nói riêng, đã và đang tiến hành phương pháp dạy học đối với tất cả  các môn học trong đó có môn Tập đọc. Mặt khác, tập đọc là một phân môn  mang tính tổng hợp, bởi bên cạnh việc dạy học chúng ta còn trau dồi kiến  thức về  Tiếng Việt, kiến thức về  văn học, về  đời sống, giáo dục tình cảm,   thẩm mĩ cho học sinh. Phân môn Tập đọc góp phần hình thành và phát triển   kỹ  năng đọc cho học sinh bằng một trong bốn kỹ năng cơ  bản mà học sinh   Tiểu học cần phải nắm vững. Hiện nay,  ở nhà trường Tiểu học, việc rèn kỹ  năng đọc đạt kết quả  chưa cao. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân, song  nguyên nhân lớn nhất là cách thức về  phương pháp rèn đọc chưa được coi   trọng. Trên thực tế, nếu không có kỹ  năng đọc thì học sinh không có điều   kiện để  học các môn học khác, không thể  tiếp thu tri thức của nhân loại. Vì  vậy, việc dạy đọc cho học sinh có ý nghĩa to lớn. Thông qua dạy đọc, giáo   -5-
  6. viên giúp học sinh đọc đúng, đọc hay và bồi dưỡng cho các em cái hay, cái   đẹp trong cuộc sống. Giáo viên phải đặc biệt coi trọng và chú ý đến việc dạy  văn kết hợp với dạy ngữ cho học sinh học tiếng mẹ đẻ  một cách toàn diện.  Dạy đọc đúng với dạy đọc hay, dạy đọc “ngôn ngữ” với dạy đọc “văn học”.   Đó chính là cơ  sở  dạy học cho học sinh trưởng thành và phát triển cả  về  trí  tuệ và tâm hồn, nhân cách và tri thức.         Với học sinh lớp 1, các em bước đầu biết đọc thì giáo viên cần hướng   dẫn đọc đúng, đọc nhanh, đọc lưu loát trôi chảy. Với học sinh lớp 3, giáo viên  yêu cầu cao hơn nữa. Không chỉ đọc đúng, đọc nhanh mà còn phải đọc diễn   cảm, đọc phải thể hiện được nội dung tình cảm của bài. Để từ đó các em có  thể bộc lộ tình cảm của mình qua mỗi bài đọc một cách khác nhau. Vì thế tôi   đã và đang từng bước thực hiện nhiệm vụ dạy tốt môn Tiếng Việt, trong đó   có phân môn Tập đọc. Từ đó người giáo viên thấy rõ và xác định được việc   dạy học tập đọc cho học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng  là một việc làm hết sức cần thiết. Chúng ta phải làm thế  nào để  thông qua   môn Tập đọc giúp học sinh không những đạt được năng lực đọc mà phải hiểu  nội dung của văn bản và các thể loại từ văn xuôi đến thơ ca. Hiểu được ý đồ  của tác giả và bút pháp nghệ thuật mà mỗi tác giả đã thể hiện trong tác phẩm.  Hay nói một cách khác, giáo viên phải tìm phương pháp tiếp cận làm cho học   sinh có cảm tình với bài đó, thúc đẩy học sinh biểu lộ  tình cảm, thái độ  tự  nhiên thông qua giọng đọc.         Trong thực tế hiện nay, để thực hiện được vấn đề  này, người giáo viên  phải thay đổi cách truyền thụ để  các em có thể  nắm bắt được tri thức, thực  hiện việc dạy theo hướng đổi mới.         Mặt khác, việc dạy đọc cho học sinh đã có từ  lâu và cũng có nhiều tài   liệu đề cập đến. Tất cả đều khẳng định vai trò của việc dạy đọc ­ đọc hiểu ­  đọc diễn cảm cho học sinh. Vì vậy, trong quá trình dạy phân môn Tập đọc,   giáo viên cần quan tâm đến tất cả các yếu tố cấu thành chất lượng phân môn  Tập đọc và đặc biệt là việc dạy đọc cho học sinh phải được coi trọng. Thông   -6-
  7. qua việc dạy đọc giúp các em hiểu văn bản, tiếp thu và chiếm lĩnh kiến thức.  Biết đọc diễn cảm là thể hiện được những cảm xúc, tình cảm theo từng nội   dung. 1.1 Cơ sở lý luận: Văn học là nghệ thuật của ngôn ngữ, là sự nhận thức về thế giới cuộc   sống con người và xã hội. Tác phẩm văn học dùng phương tiện ngôn từ  để  sáng tạo nên những hình tượng về cuộc sống con người, quê hương, xử sở và  đem lại cho người đọc những rung cảm thực sự trong sáng. Trong nhà trường tiểu   học ở Việt Nam đã coi Tiếng Việt là một môn học trung tâm, làm nền móng các  môn  học khác.  Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng đó  là hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói ­ đọc – viết cho học sinh. Tập đọc là một  phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc tiểu học. Đây là phân môn có vị  trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển  kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở  bậc tiểu học  đầu tiên. Kỹ  năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi  chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn   gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Khi học sinh đọc tốt viết tốt thì các em   mới có thể  tiếp thu các môn học khác một cách chắc chắn. Từ  đó học sinh  mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình. Những kỹ  năng này không  phải tự nhiên mà có. Nhà trường phải từng bước hình thành và trường tiểu học   nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên. Nên việc dạy học phải có định hướng, có  kế hoạch từ lớp 1 đến lớp 5. Đặc biệt đối với học sinh lớp 1 ­ lớp đầu cấp ­ việc dạy đọc cho các  em thật vô cùng  quan trọng bởi các em có đọc tốt được ở  lớp  1 thì khi học   các lớp tiếp theo các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của môn  Tiếng Việt. Việc dạy đọc  ở  lớp 1 cũng quan trọng bởi từ  chỗ  các em còn   phải đọc đánh vần từng tiếng đến việc đọc thông thạo được một văn bản là   -7-
  8. việc tương đối khó với các em mà mục tiêu của giờ  dạy Tiếng Việt là phải  hướng đến giáo dục học sinh yêu tiếng Việt bằng cách nêu bật sức mạnh  biểu đạt của Tiếng Việt, sự  giàu đẹp của âm thanh, sự  phong phú của ngữ  điệu trong việc biểu đạt nội dung. Thế  nhưng hiện nay,  ở trường tiểu học,   mặt âm thanh của ngôn ngữ, đặc biệt ngữ  điệu chưa được chú ý đúng mức.   Đó là một trong những lý do cho học sinh của chúng ta đọc và nói chưa tốt.   Đó cũng là ý do khiến cho trong nhiều trường hợp, học sinh không hiểu đúng   văn bản được đọc. Cũng như nhiều giáo viên lớp 1 khác, tôi suy nghĩ rất nhiều về  cách dạy tập  đọc  ở  lớp 1. Đặc biệt là rèn cho học sinh không những chỉ  đọc thông được   văn bản mà còn phải đọc đúng văn bản được đọc. Vấn đề  đặt ra là làm thế  nào để  giúp các em đọc đúng tiếng, đọc liền tiếng trong từ, trong câu, đọc   đúng ngữ điệu, biết cách ngắt nghỉ hơn trong văn bản thơ, cũng như văn bản  văn xuôi. Những băn khoăn này chính là lý do tôi chọn đề  tài:  “Một số  biện   pháp luyện đọc cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc”  này nghiên cứu  để  góp một phần nào cho việc rèn luyện kỹ  năng đọc cho học sinh lớp 1   trường Tiểu học Quyết Thắng, năm học 2013 – 2014. 1.2 Cơ sở thực tiễn: Trong phạm vi cơ sở trường học và tình hình địa phương nơi công tác,   tôi  đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau:     1/ Thuận lợi: a/ Giáo viên: ­ Được sự  quan tâm và chỉ  đạo tốt của các cấp lãnh đạo về  chuyên  môn.Tổ  chức bồi dưỡng giáo viên, tổ  chức những buổi học chuẩn kiến thức  kỹ  năng cho học sinh tiểu học vv… cung cấp đủ  tài liệu, phương tiện để  nghiên cứu, học hỏi, giảng dạy -8-
  9. ­ Được sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu trường: tổ chức thao giảng, dự  giờ hàng tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề  thảo luận về chuyên môn  để  rút ra những ý kiến hay, những đề  xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong   việc giảng dạy. ­ Đội ngũ giáo viên trường có tay nghề vững lâu năm trong công tác, có  nhiều kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm người giáo viên và sẵn sàng  giúp đỡ  đồng nghiệp về  chuyên môn cũng như  giúp nhau tháo gỡ  những khó  khăn hay xử  lý các trường hợp học sinh cá biệt về  học tập cũng như  hạnh   kiểm. b/ Học sinh:      ­  Ở  độ  tuổi 6 – 7 của học sinh lớp 1.Các em đa số  còn rất ngoan, dễ  vâng lời, nghe lời cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ  khích lệ  động viên khen thưởng vv…. ­ Có được sự  quan tâm về  việc học tập của con em mình của một số  phụ huynh có ý thức trách nhiệm không khoán trắng cho nhà trường, cho giáo  viên,mà tích cực tiếp tay với giáo viên trong việc học tập của con em mình  như: Thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho con em mình đến lớp  cũng như học tập ở nhà.     2/ Khó khăn:           Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi trên, bản thân tôi vẫn còn gặp một   số khó khăn sau: a/ Giáo viên: ­ Tranh  ảnh minh họa có sẵn cho môn Tiếng Việt còn hạn chế. Giáo  viên còn tự làm thêm đồ dùng dạy học để tạo sinh động cho tiết dạy, nên còn   mất thời gian đầu tư. b/ Học sinh: ­ Một số  em yếu về thể chất, bé nhỏ  hơn so với các bạn bình thường  kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến. -9-
  10. ­ Do các em đã quen với môi trường ở lớp mẫu giáo chơi nhiều hơn học  và hôm nay đã sang với môi trường mới (lớp Một) học nhiều hơn chơi cho   nên các em còn quá bỡ ngỡ khi đến lớp, đến trường.  ­ Sự tập trung chú ý chưa cao, tư duy chưa phát triển. ­ Đa số học sinh còn thụ động, nhút nhát, khó nhớ, mau quên. ­ Nhận thức học tập của các em còn nhiều hạn chế. ­ Học sinh thường phát âm sai các âm đầu: tr/ch ; x/s; n/l; tiếng mang   dấu thanh như : thanh huyền/thanh ngang; thanh sắc/ thanh hỏi… dễ lẫn lộn. ­ Bên cạnh đó, một số em chưa có ý thức học tập, không tập trung trong   giờ học dẫn đến không nắm chắc hết các bài học. ­Còn một phần không ít phụ  huynh không và chưa quan tâm đúng mức  đến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để  con em mình   đến lớp cũng như nhắc nhở các em học bài, đọc bài ở nhà. Các phương pháp   dạy học của phụ huynh là cũ kĩ.  2. Chương II: Nội dung vấn đề nghiên cứu 2.1. Thực trạng Mặc dù lâu nay các thầy cô giáo đã và đang thực hiện viêc rèn đọc  đúng, đọc diễn cảm cho học sinh, nhất là đối với học sinh tiểu học, nhưng   điều đó vẫn còn bị hạn chế.         Bản thân tôi là một giáo viên Tiểu học đã trực tiếp dạy lớp 1 nhiều năm   tôi thấy được quá trình dạy đọc đúng ­ đọc diễn cảm cho học sinh Tiểu học  là rất quan trọng. Đối với học sinh lớp 4­5, việc đọc diễn cảm và đọc đúng đã  là vấn đề khó thì đối với học sinh lớp 1 lại càng khó hơn nhiều. Bởi vì các em   đều là học sinh mới bắt đầu đến trường, việc làm quen với các con số và mặt  chữ  còn khó khăn thì việc đòi hỏi các em đọc đúng, đọc diền cảm lại càng  khó. Nhưng nếu được quan tâm rèn luyện thì các em dần dần sẽ  tiếp thu   được. - 10 -
  11. Thực tế  khảo sát chất lượng của phân môn Tập đọc đầu năm của học sinh   cho thấy, học sinh phát âm sai rất nhiều, phổ biến là sai các phụ âm đầu, vần   và dấu thanh. Học sinh thường phát âm sai phụ  âm đầu l/n, ch/tr, s/x và các  thanh hỏi – ngã. Học sinh đọc bài chưa biết ngắt nghỉ  dấu chấm, dấu phẩy   trong một bài văn, bài thơ. Các em chưa biết đọc diễn cảm, hạ giọng hay kéo   dài giọng…  ở  câu thơ, câu văn nào để  người nghe cảm thấy cái hay của bài  thơ hoặc bài văn đó.       Về  giáo viên, việc rèn cho học sinh kỹ năng đọc còn có một số  hạn chế  cần khắc phục. Hơn nữa quy trình phân môn Tập đọc đối với học sinh lớp 1  còn mới mẻ  nên tôi phải vừa làm, vừa tìm tòi học hỏi để  tự  bồi dưỡng bản  thân, trang bị  cho mình một vũ khí sắc bén để  dạy học đạt kết quả  cao. Là   một giáo viên, tôi không thể không lo ngại trước kết quả khảo sát phân môn  Tập đọc của lớp 1B tuần 25 qua bài tập đọc “ Tặng cháu”          Kết quả khảo sát như sau: Số HS  Đọc ngọng Đọc sai p/âm Đọc sai dấu, thanh Đọc đúng Đọc diễn cảm được  TS % TS % TS % TS % TS % khảo sát 35 2 5,7 4 11,4  3 8,6 26 74,3 0   Xuất phát từ cơ sở lý luận và trước thực tế trên của lớp thì với yêu cầu  của chương trình sách giáo khoa . Tôi có băn khoăn suy nghĩ là phải làm gì và  làm như thế nào để các em phát âm chuẩn, đọc đúng, đọc diễn cảm.         Với đề tài này, tôi mạnh dạn trình bày một số phương pháp rèn kỹ năng  đọc cho học sinh lớp 1 nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy đọc. Khi viết đề  tài này tôi đã phát huy tất cả kiến thức được học, được bồi dưỡng qua các lớp  học chuyên môn và học hỏi, kế thừa kinh nghiệm của đồng nghiệp đi trước.  Đặc biệt là kinh nghiệm thực tế  qua các giờ  dạy mà đối tượng chính là học  sinh của mình. Do đó tôi muốn đưa ra những phương pháp đặc trưng ở góc độ  chủ  quan mà tôi đã tiếp thu được trong những lần dự  giờ, thao giảng . Từ  - 11 -
  12. nhận thức trên, bản thân tôi đã rút ra “ Một số  biên pháp luyện đọc cho học   sinh lớp 1 trong các tiết Tập đọc”. 2.2. Các giải pháp luyện đọc cho học sinh lớp 1          Để giúp học sinh rèn luyện và phát triển kỹ năng đọc tôi đã áp dụng  nghiên cứu những nội dung sau: * Cơ sở tâm lý, sinh lý của việc dạy đọc Để  tổ  chức dạy đọc cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về  quá trình  đọc, nắm bản chất của kỹ  năng đọc. Đặc điểm tâm lý sinh lý của học sinh   khi đọc hay cơ chế của đọc là cơ sở của việc dạy học. Như trên đã nói, đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở là việc  tiếp nhận thông tin bằng chữ viết dựa vào các hoạt động của cơ quan thị giác.  Chúng ta đi vào phân tích đặc điểm của quá trình này. ­ Đọc được xem như  là một hoạt động có hai mặt quan hệ  mật thiết  với nhau, là việc sử  dụng bộ  mã gồm hai phương diện. Một mặt đó là quá   trình vận động của mắt,  sử dụng bộ mã chữ  ­ âm để  phát ra một cách trung   thành nhưng dòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Thứ hai đó là sự vận động  của tư  tưởng, tình cảm, sử  dụng bộ  mã chữ  ­ nghĩa tức là mối liên hệ  giữa  các con chữ  và ý tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để  nhớ  và hiểu  cho được nội dung những gì được đọc. ­ Đọc bao gồm những yếu tố  như tiếp nhận bằng mắt hoạt động của  các cơ quan phát âm, các cơ quan thính giác và thông hiểu những gì được đọc.  Càng ngày những yếu tố  này càng gần nhau hơn, tác động đến nhau nhiều  hơn. Nhiệm vụ cuối cùng của sự phát triển kỹ  năng đọc là đạt đến sự  tổng  hợp giữa những mặt riêng lẻ này của quá trình đọc, đó là đi ểm phân tích biết  người mới biết đọc và người đọc thành thạo. Càng có khả năng tổng hợp các mặt   - 12 -
  13. trên bao nhiêu thì việc đọc càng hoàn thiện, càng chính xác, càng biểu cảm bấy  nhiêu. ­ Dễ  dàng nhận thấy rằng thuật ngữ "đọc" được sử  dụng trong nhiều  nghĩa : theo nghĩa hẹp, việc hình thành kỹ  năng đọc trùng với nắm kỹ  thuật   đọc (tức là việc chuyển dạng thức chữ  viết của từ  thành âm thanh), theo  nghĩa rộng, đọc được hiểu là kỹ thuật đọc của những từ  riêng lẻ  mà cả  câu,  cả  bài). ý nghĩa hai mặt của thuật ngữ đọc được ghi nhận trong các tài liệu   tâm lý học và phương pháp dạy học. Từ đây chúng ta sẽ  hiểu đọc với nghĩa  thứ hai ­ đọc được xem như là một hoạt động lời nói trong đó có các thành tố: a. Tiếp nhận dạng thức chữ viết của từ b. Chuyển dạng thức chữ  viết thành âm thanh, nghĩa là phát âm các từ  theo từng chữ cái (đánh vần) hay là đọc thành từng tiếng tuỳ  thuộc vào trình  độ nắm kỹ thuật đọc. c. Thông hiểu những gì được đọc (từ, cụm từ, câu, bài) kỹ năng đọc là  một kỹ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình luyện lâu dài. T.G.Egorop (dẫn   theo 3.101) chia việc hình thành kỹ  năng này ra làm 3 giai đoạn : phân tích  tổng hợp (còn gọi là giai đoạn phát sinh, hình thành một cấu trúc chỉnh thể  của hành động) và giai đoạn tự động hoá. Giai đoạn dạy học vần là sự  phân   tích các chữ  cái và đọc từng tiếng theo các âm. Giai đoạn tổng hợp thì đọc   thành cả từ trọn vẹn, trong đó có sự tiếp nhận từ bằng thị giác và phát âm hầu  như  trùng với nhận thức ý nghĩa. Tiếp theo sự  thông hiểu ý nghĩa của "từ"  trong cụm từ hoặc câu đi trước sự phát âm, tức là đọc được thực hiện trong  sự  đoán các nghĩa. Bước sang lớp 2, lớp 3 học sinh bắt đầu đọc tổng hợp.   Trong những năm học cuối cấp, đọc càng ngày càng tự  động hoá, nghĩa là  người đọc ngày càng ít quan tâm đến chính quá trình đọc mà chú ý nhiều đến  việc chiếm lĩnh văn hoá (bài khoá), nội dung của sự  kiện, cấu trúc chủ  đề,  các phương tiện biểu đạt của nó. Thời gian gần đây, người ra đã chú trọng  hơn đến những mối quan hệ  quy định lẫn nhau của việc hình thành kỹ  năng  - 13 -
  14. đọc và hình thành kỹ năng làm việc với văn bản. Nghĩa là đòi hỏi giáo viên tổ  chức giờ  học đọc sao cho việc phân tích nội dung của bài đọc đồng thời  hướng dẫn đọc có ý thức bài đọc. Việc đọc như thế nhằm vào sự nhận thức.   Chỉ xem là đứa trẻ biêt đọc khi nó đọc mà hiểu trương điều mình đọc. Đọc là  hiểu nghĩa chữ  viết. Nếu trẻ  không hiểu được những từ  ta đưa cho chúng  đọc, chúng sẽ  không có hứng thú học tập và không có khả  năng thành công.   Do đó hiểu những gì được đọc sẽ tạo ra động cơ, hứng thú cho việc đọc. Để có giờ tập đọc đạt kết quả tốt người giáo viên phải nắm được đặc  điểm tâm sinh lý của học sinh mình nắm được đặc điểm yêu cầu, bản chất   kỹ  năng cơ  chế  đích cần đạt được của tiết dạy tập đọc. Trên cơ  sở  đó sử  dụng phương pháp cho phù hợp. * Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy đọc Phương pháp dạy tập đọc phải dựa trên những cơ  sở  của ngôn ngữ  học. Nó liên quan mật thiết với một số vấn đề của ngôn ngữ học như vấn đề  chính âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu (thuộc ngữ âm học), vấn đề nghĩa của  từ, của câu, đoạn, bài (thuộc từ  vựng học, ngữ  nghĩa học), vấn đề  dấu câu,  các kiểu câu… Phương pháp dạy học tập đọc phải dựa trên những kết quả  nghiên cứu của ngôn ngữ học, việt ngữ học về những vấn đề nói trên để xây  dựng, xác lập nội dung và phương pháp dạy học. Bốn phẩm chất của đọc  không thể  tách rời những cơ  sở  ngôn ngữ  học. Không coi trọng đúng mức  những cơ sở này, việc dạy học sẽ mang tính tuỳ tiện và không đảm bảo hiệu   quả dạy học. ­  Vấn đề chính âm trong tiếng Việt Chính âm là các chuẩn mực phát âm của ngôn ngữ có giá trị và hiệu quả  về mặt xã hội. Vấn đề chuẩn mực phát âm tiếng Việt đang là vấn đề thời sự,  có nhiều ý kiến khác nhau. Nó liên quan đến nhiều vấn đề  khác nhau như  - 14 -
  15. chuẩn hoá ngôn ngữ, giữ  gìn sự  trong sáng của Tiếng Việt, mục đích của   việc xây dựng chính âm. ­ Vấn đề ngữ điệu của Tiếng Việt Theo nghĩa hẹp, ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là sự lên   cao hay hạ  thấp giọng đọc, giọng nói. Ngữ  điệu là một trong những thành   phần của ngôn điệu. Ngữ điệu là yếu tố gắn chặt với lời nói, là yếu tố tham   gia tạo thành lời nói. Mỗi ngôn ngữ  có một ngữ  điệu riêng. Ngữ  điệu tiếng Việt, như  các  ngôn ngữ  có thanh điệu khác, chủ  yếu được biểu hiện  ở  sự  lên giọng và   xuống giọng (cao độ), sự  nhấn giọng (cường độ), sự  ngừng giọng (trường  độ) và sự chuyển giọng (phối hợp cả trường độ và cường độ). Ngữ  điệu là một hiện tượng phức tạp có thể  tách ra thành các yếu tố  cơ  bản có quan hệ  với nhau: chỗ  nghỉ  (ngưng giọng hay ngắt giọng) trọng   âm, âm điệu, âm nhịp và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy học sinh biết   làm chủ những yếu tố này. ­ Cơ sở lý thuyết cơ bản, phong cách học và văn học của dạy đọc Việc dạy  đọc không thể  dựa  trên lý thuyết về  văn bản những tiêu  chuẩn để phân tích, đánh giá một văn bản (ở đây muốn nói đến những bài đọc   ở tiểu học) nói chung cũng như lý thuyết để phân tích, đánh giá các tác phẩm   văn chương nói riêng. Việc hình thành kỹ  năng đọc đúng, đọc diễn cảm và  đọc hiểu cho học sinh phải dựa trên những tiêu chuẩn đánh giá một văn bản  tốt: tính chính xác, tính đúng đắn và tính thẩm mỹ, dựa trên những đặc điểm  vè các kiểu ngôn ngữ, các phong cách chức năng, các thể  loại văn  bản, các  đặc điểm về loại thể của tác phẩm văn chương dùng làm ngữ liệu đọc ở tiểu  học. Ví dụ, cách đọc và khai thác để hiểu nội dung một bài thơ, một đoạn tả  cảnh, một câu tục ngữ, một truyền thuyết, một bài sử, một bài có tính chất  khoa học thưởng thức… là khác nhau. Việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội  - 15 -
  16. dung bài đọc cũng phải dựa trên những hiểu biết về  đề  tài, chủ  đề, kết cấu   nhân vật, quan hệ  giữa nội dung và hình thức, các biện pháp thể  hiện trong  tác phẩm văn học, nhằm miêu tả, kể chuyện và biểu hiện các phương tiện và   biện pháp tu từ…. Việc luyện đọc cho học sinh phải dựa trên những hiểu   biết về đặc điểm ngôn ngữ văn học, tính hình tượng, tính tổ chức cao và tính  hàm súc, đa nghĩa của nó. Tất cả  những vấn  đề  trên đều thuộc phạm vi   nghiên cứu của lý thuyết văn học. Vì vậy ta dễ dàng nhận thấy phương pháp  dạy tập đọc không thể  không dựa trên những thành tựu nghiên cứu của lý   thuyết văn bản nói chung và nghiên cứu văn học nói riêng. * Chuẩn bị cho việc đọc thành tiếng Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế  để  đọc. Khi ngồi đọc  cần   phải   ngồi   ngay   ngắn,   khoảng   cách   từ   mắt   đến   sách   nên   nằm   trong  khoảng 30­35 cm, cổ và đầu thẳng, phải thở sâu và thở ra chậm để  lấy hơi.   Ở  lớp, khi được cô giáo gọi đọc, học sinh phải bình tĩnh, tự  tin, không hấp  tấp đọc ngay. Trước khi nói về việc rèn đọc đúng, cần nói về tiêu chí cường độ và tư  thế khi đọc, tức là rèn đọc to, đọc đàng hoàng. Trong hoạt động giao tiếp, khi  đọc thành tiếng, người đọc một lúc đóng hai vai: một vai ­ và mặt này thường   được nhấn mạnh ­ là người tiếp nhận thông tin bằng chữ viết; vai thứ hai là   người trung gian để  truyền thông tin đưa văn bản viết đến người nghe. Khi  giữ vai thứ hai này, người đọc đã thực hiện việc tái văn bản. Vì vậy, khi đọc  thành tiếng, người đọc có thể đọc cho mình hoặc cho người khác hoặc cho cả  hai. Đọc cùng với phát biểu trong lớp là hai hình thức giao tiếp trước đám  đông đầu tiên của trẻ em nên giáo viên phải coi trọng khâu chuẩn bị để đảm  bảo sự  thành công, tạo cho các em sự  tự  tin cần thiết. Khi đọc thành tiếng,  các em phải tính đến người nghe. Giáo viên cần cho các em hiểu rằng các em   đọc không phải chỉ cho mình cô giáo mà để cho tất cả các bạn cùng nghe nên   cần đọc đủ  lớn để  cho tất cả  những người này nghe rõ. Nhưng như  thế  - 16 -
  17. không có nghĩa là đọc quá to hoặc gào lên. Để  luyện cho học sinh đọc quá  nhỏ  "lí nhí", giáo viên cần tập cho các em đọc to chừng nào bạn  ở  xa nhất  trong lớp nghe thấy mới thôi. Giáo viên nên cho học sinh đứng trên bảng để  đối diện với những người nghe. Tư thế đứng đọc phải vừa đàng hoàng, vừa  thoải mái, sách phải được mở rộng và cầm bằng hai tay. ­  Luyện đọc đúng a. Đọc đúng là sự  tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính  xác, không có lỗi. Đọc đúng là đọc không thừa, không sót từng âm, vần, tiếng.  Đọc đúng phải thể hiện đúng ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Nói cách   khác là không đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn. Đọc đúng bao gồm   việc đọc đúng các âm thanh (đúng các âm vị) ngắt nghỉ hơi đúng chỗ (đọc đúng  ngữ điệu). b. Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị  tiếng Việt. ­ Đọc đúng các phụ  âm đầu: TD có ý thức phân biệt để  không đọc:   “nàm việc”, “khoẻ khắn” mà phải đọc là “làm việc” ,“khỏe khoắn”. ­ Đọc đúng các âm chính: TD có ý thức phân biệt để không đọc  “iu tin,   chai riệu” mà phải đọc “ưu tiên, chai rượu”. ­ Đọc đúng các âm cuối: TD có ý thức không đọc:   “luông luông”  mà  phải đọc “luôn luôn”. ­ Đọc đúng bao gồm cả đọc tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điều câu.  Ngữ điệu là hiện tượng phức tạp, có thể  tách ra thành các yếu tố  cơ  bản có   quan hệ với nhau: chỗ nghỉ (ngưng giọng hay ngắt giọng), trọng âm, âm điệu,  âm nhịp và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ  điệu là dạy cho học sinh làm chủ  những yếu tố này. Đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng đúng nói riêng vừa   là mục đích của dạy đọc thành tiếng, vừa là phương tiện giúp học sinh chiếm lĩnh  nội dung bài đọc.  - 17 -
  18. Khi dạy đọc đúng giáo viên cần phải dựa vào nghĩa, vào quan hệ  ngữ  pháp giữa các tiếng, từ để  ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không được tách một   từ ra làm hai. TD không ngắt hơi. “Với em gái bé Phải người / lớn cơ” ­ Ông già bẻ gãy từng chiếc đũa một / cách dễ dàng. Không tách giới từ  với danh từ đi sau nó. Thí dụ không đọc: “Như con chim chích Nhảy trên / đường vàng” Không tách động từ, hệ từ “là” với danh từ đi sau nó. Thí dụ: không đọc Cá heo là / tay bơi giỏi nhất của biển Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: nghỉ  ít ở  dấu phẩy, nghỉ  lâu hơn ở dấu chấm, đọc đúng các ngữ điệu câu: lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ  giọng  ở  cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm cần diễn đạt   trong câu cảm. Với câu cầu khiến cần nhấn giọng phù hợp để thấy rõ giọng  khi đọc bộ phận giải thích của câu. Như vậy đọc đúng đã bao gồm một số tiêu chuẩn của đọc diễn cảm. ­ Luyện đọc nhanh * Đọc nhanh (còn gọi là đọc lưu loát, trôi chảy) là nói đến phẩm chất  đọc về mặt tốc độ, là việc đọc không ê a, ngắc ngứ. Vấn đề  tốc độ  đọc chỉ  đặt ra sau khi đã đọc đúng. Mức độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn (nhiệm vụ này phần dạy   đọc của phân môn học vần phải đảm nhận), đọc không ê a, ngắc ngứ, không  vừa đọc vừa đánh vần. Về  sau tốc độ  đọc phải đi song song với việc tiếp   nhận có ý thức bài đọc. Khi đọc cho người khác nghe thì người đọc phải xác  định tốc độ đọc nhanh nhưng để cho người nghe hiểu kịp được. Vì vậy, đọc   nhanh không phải là đọc liến thoắng. Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh  - 18 -
  19. khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời nói. Khi đọc thầm thì tốc độ đọc   sẽ nhanh hơn nhiều. * Biện pháp luyện đọc nhanh Giáo viên hướng dẫn cho học sinh làm chủ  tốc độ  đọc bằng cách đọc  mẫu để  học sinh đọc theo tốc độ  đã định. Đơn vị  để  đọc nhanh là cụm từ,   câu, đoạn, bài. Giáo viên điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách giữ nhịp đọc. Ngoài  ra, còn có biện pháp đọc nối tiếp trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm tra của thầy,   của bạn để  điều chỉnh tốc độ. Giáo viên đo tốc độ  đọc bằng cách chọn sẵn  bài có số tiếng cho trước và dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút. Định tốc như  thế nào còn phụ thuộc vào độ khó của bài đọc. * Mục đích yêu cầu của phân môn tập đọc ­ Môn Tiếng Việt  ở trường tiểu học có tác dụng hình thành phát triển   ngôn ngữ  cho học sinh. Tiếng Việt gồm nhiều phân môn: Tập đọc, từ  ngữ,   ngữ  pháp, chính tả, tập làm văn. Phân môn tập đọc có vị  trí quan trọng. Dạy  tốt phân môn này đáp ứng một trong 4 kỹ năng sử  dụng tiếng Việt. Kỹ năng  đọc nhanh, chính xác, rõ ràng, rành mạch và diễn cảm nhờ  đó học sinh có  những hiểu biết văn học ngôn ngữ và ngược lại. Vì vậy đọc đúng, đọc hiểu   và đọc diễn cảm là quá trình có liên quan mật thiết với nhau. Qua việc đọc,  học sinh chiếm lĩnh được những tri thức văn hoá của dân tộc và cũng từ  đó  giáo dục tình cảm đạo đức cao đẹp cho học sinh, đồng thời phát huy tính sáng   tạo, khả năng tư duy cho các em. Đối với học sinh lớp 1, các em bắt đầu chuyển từ  giai đoạn học vần  sang tập đọc vì vậy giờ tập đọc ở lớp 1 vận dụng cả phương pháp học vần,   cả phương pháp tập đọc. Yêu cầu của giờ tập đọc lớp 1 là củng cố hệ thống  âm vần đã học (nhất là các vần khó), đọc đúng và trơn tiếng, đọc liền từ, đọc  cụm từ  và câu: tập ngắt nghỉ  (hơi) đúng chỗ  trong câu. Hiểu các từ  thông  thường, hiểu được ý diễn đạt  đã đọc (độ dài câu khoảng 10 tiếng). Bên cạnh   nhiệm vụ ôn vần  cũ, học vần mới học sinh còn được phát triển vốn từ, tập   nói câu đơn giản.  * Vài nét về phân môn tập đọc ­ Cấu trúc chung: Phân môn tập đọc gồm 42 bài được bắt đầu từ tuần 5  của học kỳ II (có 14 tuần dạy tập đọc, mỗi tuần  có 3 bài, mỗi bài dạy trong 2  tiết). ­ Nội dung: Các bài tập đọc xoay quanh 3 chủ đề: Nhà trường, gia đình,  thiên nhiên đất nước. ­ Bài tập đọc lớp 1 gồm có các phần: + Văn bản đọc + Những từ khó cần lưu ý + Các câu hỏi (bài tập) để ôn luyện âm, vần + Luyện nói: nói về một vấn đề hoặc nhìn tranh để  diễn đạt. - 19 -
  20. * Quan điểm của giáo viên về giờ tập đọc Nhìn chung giáo viên tiểu học đều rất coi trọng giờ tập đọc. Giáo viên  ở các lớp đầu cấp cho rằng phần luyện đọc từ, đọc câu là quan trọng hơn còn  ở  các lớp cuối cấp thì cho rằng phần luyện đọc và phần tìm hiểu bài quan   trong như nhau. Nhưng nhìn chung 70% giáo viên khẳng định việc luyện đọc  quan trọng hơn còn về thời gian phân bố trong giờ luyện đọc thì 80% số giáo   viên cho rằng thời gian luyện đọc là nhiều hơn còn 20% cho rằng thời gian  của 2 phần này như nhau. Được dự các tiết tập đọc của trường nói chung và   của lớp 1 nói riêng tôi nhận thấy phần lớn giáo viên đều chú ý sửa lỗi phát âm  cho học sinh song do thời gian bị hạn ché nên việc sửa lỗi do chỉ  được thực  hiện lướt qua khi luyện đọc từ  hoặc câu giáo viên thường chỉ  cho học sinh  luyện những từ và câu mà sách giáo khoa yêu cầu chứ chưa chọn lọc ra những  từ hoặc câu mà học sinh của mình hay nhầm lẫn. *  Những phương pháp giáo viên thường sử dụng trong phần rèn đọc Hiện nay  ở  tiểu học, về  vấn đề  rèn đọc cho học sinh, giáo viên sử  dụng phương pháp dạy học cụ  thể  là: phương pháp làm mẫu, phương pháp  luyện đọc theo mẫu, phương pháp luyện tập củng cố, phương pháp hỏi đáp  (đặt câu hỏi để học sinh tự tìm và phát hiện từ khó, cách ngắt nhịp câu dài…)   và phương pháp đóng vai  (đối với văn kể chuyện). * Thực trạng phần rèn đọc ở lớp 1 Qua tìm hiểu và dự  giờ   ở  lớp 1 tôi thấy hiện nay nhìn chung giờ  tập  đọc được tiến hành theo trình tự sau: Tiết 1: 1. Kiểm tra bài cũ Học sinh đọc lại bài của tiết trước và trả  lời một số  câu hỏi  ứng với   nội dung bài học. 2. Bài mới: a. Giới thiệu bài: ­ Giáo viên chép sẵn bài đọc lên bảng lớp ­ Giáo viên đọc mẫu, học sinh theo dõi b. Hướng dẫn học sinh luyện đọc * Luyện đọc tiếng, từ Giáo viên kể chân những tiếng từ mà SKG yêu cầu   cá nhân học sinh đọc * Luyện đọc câu - 20 -
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2