intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho HS lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

Chia sẻ: Hòa Phát | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:29

116
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của sáng kiến kinh nghiệm này nhằm góp phần giúp học sinh củng cố lý thuyết về cách dùng từ so sánh, từ đó học sinh biết phân biệt, biết cách so sánh hình ảnh trong thơ văn; giúp học sinh tiếp cận kịp thời với sách giáo khoa đồng thời giúp giáo viên có được các phương pháp rèn luyện học sinh kỹ năng sử dụng biện pháp so sánh ở lớp 3.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho HS lớp 3 trong môn Luyện từ và câu

  1. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu I. PHẦN MỞ ĐẦU  1. Lý do chọn đề tài. Trong những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến phát triển  giáo dục. Một trong những nhiệm vụ cơ bản của giáo dục đào tạo hiện nay là hình  thành và phát triển nhân cách cho học sinh một cách toàn diện. Do đó Tiếng Việt là  môn học có vị trí đặc biệt quan trọng, góp phần tích cực vào rèn kĩ năng giao tiếp,  là chìa khoá học tập để  chiếm lĩnh tri thức loài người. Tiếng Việt góp phần bồi  dưỡng tâm hồn, hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho người học sinh.  Môn Tiếng Việt giúp cho học sinh 4 kĩ năng “nghe, nói, đọc, viết”. Ngôn ngữ dưới  dạng nói (ngôn bản) và dưới dạng viết (văn bản) giữ  vai trò quan trọng trong sự  tồn tại và phát triển xã hội. Có khả  năng tác động đến đời sống tâm hồn của con   người. Các bộ  phận cấu thành của môn Tiếng Việt trong trường tiểu học bao gồm:  Tập đọc, Chính tả, Luyện từ  và câu, Tập viết, Tập làm văn. Trong đó, phân môn  Luyện từ và câu là phân môn có tính chất khởi đầu của các phân môn khác. Qua tiết  Luyện từ  và câu học sinh có khả  năng diễn đạt bằng lời nói rõ ràng, cụ  thể  sinh   động mọi sắc thái biểu cảm. Nói và viết đó là những hình thức giao tiếp rất quan  trọng, thông qua đó các em thực hiện quá trình tư duy­ chiếm lĩnh tri thức, trao đổi  tư  tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp các em hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc   sống. Vấn đề đặt ra là người giáo viên dạy Luyện từ và câu như  thế  nào để  nâng  cao chất lượng, đáp  ứng được khả  năng tiếp thu bài của học sinh? Cách thức tổ  chức, tiến hành tiết dạy Luyện từ và câu ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn. Trong thực tế  những năm đã từng đứng trên bục giảng, tôi nhận thấy phân   môn Luyện từ và câu với tư cách là một phân môn thực hành của môn Tiếng Việt  ở trường tiểu học, Luyện từ và câu có nhiệm vụ  hình thành và phát triển cho học   sinh năng lực sử dụng từ và câu trong giao tiếp và học tập, là một loại hình nghệ  thuật lấy ngôn từ  làm phương tiện thể  hiện. Có khả  năng tác động đến đời sống  tâm hồn của con người. Trong đó biện pháp tu từ so sánh góp một phần không nhỏ  làm nên điều này. So sánh có khả  năng khắc họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh   mẽ làm nên một hình thức miêu tả sinh động, mặt khác so sánh còn có tác dụng làm  cho lời nói rõ ràng, cụ  thể  sinh động, diễn đạt được mọi sắc thái biểu cảm, So   sánh tu từ  còn là phương thức bộc lộ tâm tư  tình cảm một cách kín đáo và tế  nhị.  Nhờ  những hình  ảnh bóng bẩy,  ướt lệ, dùng cái này để  đối chiếu cái kia nhằm   diễn tả những ngụ ý nghệ thuật mà so sánh tu từ được sử dụng phổ biến trong thơ  ca, đặc biệt là thơ viết cho thiếu nhi. So sánh giúp các em hiểu và cảm nhận được   những bài thơ, bài văn hay, từ đó góp phần mở mang tri thức làm phong phú về tâm   hồn, tạo hứng thú khi viết văn, rèn luyện ý thức, yêu quý tiếng Việt giữ  gìn sự  trong sáng của tiếng Việt cho học sinh.  Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 1
  2. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu Do khả năng tư duy của học sinh còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản, trực   quan nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh còn hạn chế, phần lớn học sinh chỉ  mới biết một cách cụ thể nghĩa của từ nên khi tiếp thu về nghệ thuật so sánh tu từ  rất khó khăn. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên cần hướng dẫn một cách tỉ  mỉ, thực  tế. Điều đó khiến tôi luôn trăn trở, suy nghĩ: Làm thế nào? Bằng cách nào để khơi   gợi  ở  học sinh hứng thú, say mê học tập môn Luyện từ  và câu. Vì thế  đây là vấn  đề  tôi băn khoăn, trăn trở, khiến tôi tiến hành nghiên cứu và thực nghiệm đề  tài   “Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ   và câu”    2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. Như  chúng ta đã biết Tiếng Việt vừa là môn học chính vừa là công cụ  giúp  học sinh tiếp thu các môn học khác, là bước khởi động, là cánh cửa để  dẫn dắt  người học khai thác những giá trị  của câu, từ. Đồng thời còn giúp học sinh có thể  hình thành và phát triển các kĩ năng giao tiếp trong môi trường hoạt động của các  em. Đó là kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Ngôn ngữ gắn liền với tư duy nên thông qua  việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy.  Góp phần giúp học sinh củng cố lý thuyết về cách dùng từ so sánh, từ đó học  sinh biết phân biệt, biết cách so sánh hình ảnh trong thơ văn. Giúp học sinh tiếp cận kịp thời với sách giáo khoa đồng thời giúp giáo viên có  được các phương pháp rèn luyện học sinh kỹ  năng sử  dụng biện pháp so sánh  ở  lớp 3. Góp phần giúp học sinh lóp 3 học tốt hơn nữa phân môn Luyện từ và câu trong  môn Tiếng Việt. Học sinh có hứng thú học tập phân môn Luyện từ  và câu, từ  đó   giúp các em học tốt các phân môn khác như  phân môn Tập làm văn, Kể  chuyện...   và biết áp dụng vào thực tế cuộc sống. Các em có thể nhận diện (tìm) những sự vật được so sánh, hình ảnh so sánh,   các vế so sánh, từ chỉ so sánh, đặc điểm so sánh được nói đến trong câu (đoạn văn),  thơ hoặc văn bản nhưng mới chỉ cảm nhận một cách chung chung. Các em sẽ gặp   khó khăn khi vận dụng đặt câu (nói, viết) có dùng phép so sánh, tìm từ, đặt câu,   phép nhân hóa... vì vốn từ còn ít chưa có thói quen và chưa biết cách quan sát, nhận   xét sự vật, hiện tượng để tìm ra những đặc điểm giống nhau. Bởi vậy câu văn của   các em chỉ mang nội dung thông báo chứ chưa có sức gợi cảm, gợi tả. Điều cốt yếu với mọi tiết Luyện từ và câu là cung cấp kiến thức và rèn luyện   kĩ năng tìm từ, dùng từ đặt câu cho học sinh. Học sinh phải giải nghĩa được một số  từ ngữ đơn giản, so sánh được các sự vật trong tranh hoặc bằng câu hỏi. Do đặc thù của lớp, nhà trường, địa phương hay gọi cách khác là vùng miền.  Đối tượng học sinh thuộc nhiều tỉnh thành, nhiều miền dẫn đến tiếng nói, phát âm,  trình bày khác nhau. Với lại đối tượng nhận thức của các em không đồng đều,  Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 2
  3. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu thêm vào đó các em chưa thực sự  quan tâm, yêu thích môn Luyện từ  và câu hoặc   chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của môn học. Đứng trước thực tế đó  tôi nhận thấy nhiệm vụ mỗi giáo viên chúng ta phải thường xuyên nghiên cứu, tìm   hiểu tâm tư nguyện vọng của từng đối tượng học sinh để  vận dụng phương pháp  giảng dạy phù hợp nhằm mục đích cuối cùng là các em ngày càng yêu thích môn   Luyện từ  và câu, áp dụng làm bài tập tốt hơn, là cơ  sở  để  học tốt các môn học  khác. 3. Đối tượng nghiên cứu. Kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Biện pháp so sánh trong môn Luyện từ và câu lớp 3  Học sinh lớp 3A, trường Tiểu học Krông Ana, huyện Krông Ana, tỉnh Đăk  Lăk, năm học 2014 – 2015.  5. Phương pháp nghiên cứu ­ Phương pháp quan sát. ­ Phương pháp nghiên cứu tài liệu. ­ Phương pháp phân tích. ­ Phương pháp trò chuyện với học sinh, giáo viên. ­ Phương pháp khảo nghiệm thực tiễn giảng dạy. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận Trong công cuộc đổi mới hiện nay, sự  phát triển Công nghiệp hoá ­ hiện đại   hoá đất nước cần phải có những con người năng động, sáng tạo, tự lực, tự cường.   Nhu cầu này đòi hỏi phải có sự  điều chỉnh mục tiêu, nội dung Chương trình cấp  Tiểu học một cách phù hợp. Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặt ra là: “Giúp học sinh hình thành những cơ  sở  ban đầu cho sự  phát triển đúng đắn và lâu dài về  đạo đức, trí tuệ, phẩm chất,  thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”. Ngôn ngữ  nói chung, tiếng Việt nói riêng có quan hệ  mật thiết với phương   pháp dạy học Tiếng Việt. Ngôn ngữ bao gồm một hệ thống, bao gồm các bộ phận   ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Mỗi bộ phận của ngôn ngữ là một hệ thống nhỏ, có   cơ cấu tổ chức riêng, có quan hệ chặt chẽ với nhau trong hệ thống ngôn ngữ. Môn   Tiếng Việt là một trong những bộ môn cơ bản của nhà trường phổ thông nên phải  thực hiện theo nguyên tắc giáo dục học. Bởi vậy nguyên tắc dạy học Tiếng Việt  phải cụ  thể  hóa mục tiêu và các nguyên tắc dạy học nói chung vào bộ  môn của  mình. Như  vậy mục tiêu của việc dạy và học Tiếng Việt nằm trong mục tiêu  chung của giáo dục nước ta trong giai đoạn mới hiện nay: Nâng cao dân trí, đào tạo  nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nhằm hình thành đội ngũ lao động có tri thức, có tay  Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 3
  4. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động sáng tạo. Luyện từ  và câu là một trong những phân môn có vị  trí quan trọng của môn   Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng  họp từ  nhiều phân môn trong môn Tiếng Việt. Để  làm được các bài tập không  những học sinh phải sử dụng cả bốn kĩ năng: nghe ­ nói ­ đọc ­ viết mà còn phải   vận dụng các kĩ năng về tiếng Việt, về cuộc sống thực tiễn. Phân môn Luyện từ và câu rèn cho học sinh sử dụng từ, sử dụng câu trong các   tình huống khác nhau trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy   học sinh sử  dụng tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy Luyện từ  và câu là  phân môn có tính khởi đầu, có liên quan mật thiết đến các môn học khác. Trong quá trình dạy một tiết Luyện từ  và câu, để  đạt mục tiêu đề  ra ngoài  phương pháp của thầy, học sinh cần phải có vốn kiến thức ngôn ngữ  về đời sống  thực tế. Chính vì vậy, việc dạy tốt các phân môn khác không chỉ là nguồn cung cấp   kiến thức mà còn là phương tiện rèn kĩ năng nói, viết và cách diễn đạt câu văn cho  học sinh. Học tốt Luyện từ và câu sẽ giúp học sinh học tốt các môn học khác, đồng  thời giáo dục các em những tình cảm lành mạnh, trong sáng; rèn luyện khả  năng   giao tiếp, kỹ  năng sống và góp phần đắc lực vào việc giữ  gìn, phát huy sự  trong   sáng của tiếng Việt, hình thành nhân cách con người Việt Nam. 2. Thực trạng 2.1. Thuận lợi, khó khăn: * Thuận lợi: ­ Luôn được sự  quan tâm chỉ  đạo sát sao của Phòng GD&ĐT Krông Ana;   Lãnh đạo nhà trường, của các tổ chuyên môn đã có vai trò tích cực giúp giáo viên đi   đúng nội dung, chương trình phân môn Luyện từ và câu. ­ Học sinh lớp 3 giai đoạn này rất ham học, đặc biệt hơn lứa tuổi này các em  không còn bỡ ngỡ trước môi trường học tập thật sự như ở các lớp học trước, quan  trọng là  ở  lớp 3 các em đã được trang bị  một lượng kiến thức  ở  lớp 2, đã nắm   vững kiến thức, kĩ năng mà các thầy cô giáo trước đó đã trang bị. Đây là cơ sở giúp   cho các em học tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 3. ­ Đa số  các em có ý thức trong việc học, có chuẩn bị  bài khá chu đáo trước  khi đến lớp, một số em đã biết dùng từ đặt câu, diễn đạt tương đối lưu loát. ­ Đời sống kinh tế  của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao nên   việc đầu tư cho con cái học tập cũng có những thuận lợi nhất định. * Khó khăn: Tiếng Việt là môn học khó, nhất là phân môn Luyện từ  và câu đòi hỏi người   giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú. cần phải có vốn sống thực tế,   người giáo viên biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy, biết gợi  mở óc tò mò, khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp cho các em hiểu nghĩa từ,   Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 4
  5. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu so sánh ngôn ngữ quả không dễ. Các bài tập thường là những bài tập trừu tượng, giáo viên phải hướng dẫn   mẫu một phần bài tập, học sinh phải biết tư duy để làm được các phần bài tập còn  lại. Trong các môn tự nhiên, Toán được coi là môn học khó thì trong các môn xã hội   thì phân môn Luyện từ  và câu lại được coi là phân môn vừa khô vừa khó. Đây là   phân môn cả người dạy và người học cảm thấy khó khăn khi truyền đạt cũng như  khi lĩnh hội kiến thức. Trước tình trạng trên giáo viên phải kịp thời thức tỉnh, hình thành cho các em   biết cách dùng từ đặt câu, hiểu nghĩa từ, tìm các từ so sánh... Thêm một thực tế nữa là các loại sách tham khảo tràn lan trên thị trường như:   Để  học tốt phân môn Luyện từ  và câu; Giúp em học giỏi Luyện từ  và câu lớp 3;  ...thế là các em chỉ mất một khoản tiền không lớn là có thể  ung dung chép vào vở  nếu cần, mà không phải mất quá nhiều thời gian và suy nghĩ đau đầu nữa. Chứ các   em có ngờ việc làm đó dẫn đến hậu quả lớn, nó làm cho não bộ của các em ít phát   triển dần dần trở nên lười nhác. 2.2. Thành công, hạn chế * Thành công Đa phần các em có khả  năng nhận biết các kiểu câu đã học  ở  lóp 2, dùng từ  đặt câu, biết được những hình  ảnh so sánh dựa vào tranh  ảnh hoặc câu hỏi gợi ý  ngày một tiến bộ rõ rệt trong nhận thức, trong bài tập kể cả khi trình bày bằng lời. * Hạn chế Các từ  cần giải nghĩa đa số  là từ  Hán Việt nên học sinh khó hiểu, khó giải   nghĩa. Các từ, các thành ngữ, tục ngữ  cần giải nghĩa, cần tìm có nghĩa gần giống   nhau, khiến cho học sinh khó phân biệt nghĩa của chúng. Ranh giới giữa các cụm từ hoặc từ trong tiếng Việt không mang tính xác định,  không dễ nhận biết nên các em còn thiếu tự tin khi học phân môn này. 2.3. Mặt mạnh, mặt yếu * Mặt mạnh Một số  em có năng khiếu về  môn Tiếng Việt cho nên khi học các phân môn  Luyện từ và câu, Chính tả, Tập đọc...các em dễ dàng biết tìm từ so sánh, các sự vật  được so sánh, nhân hóa; biết dùng từ  đặt câu, viết đúng chính tả, diễn đạt tương  đối tốt. * Mặt yếu Khả năng nhớ, hiểu và vận dụng kiến thức trong quá trình học tập của các em   còn yếu. Hiện nay đa số  các em lười nhác học Luyện từ và câu, nhiều em chưa đọc kĩ  đề bài, chuẩn bị bài sơ sài. Thậm chí nhiều em còn chưa biết chọn từ ngữ xếp vào  Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 5
  6. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu bảng phân loại theo nghĩa của chúng, không nhớ các từ dùng để so sánh hai sự vật.  Bài làm còn sai chính tả, ngữ  pháp, chưa biết chọn từ  thích họp để  điền vào chỗ  chấm ... Từ việc học yếu lại không được thầy cô quan tâm, uốn nắn kịp thời, không có   cơ hội được thể hiện trước lớp dẫn đến một số em buồn chán trong việc học dẫn  đến không hiểu, nghèo vốn từ. 2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động. * Nguyên nhân của thành công ­ Giáo viên nhiệt tình và kiên trì rèn luyện, kết hợp giữa phương pháp và  biện pháp một cách nhuần nhuyễn, đổi mới phương pháp giảng dạy từ  cũ sang   mới.        ­ Học sinh có một kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh tương đối vững   vàng, các em ngày càng ham học môn Luyện từ và câu.  * Nguyên nhân hạn chế, yếu kém ­ Một bộ phận học sinh lười học, đọc cho nên làm bài tập còn nhiều hạn chế  về câu, từ, nghĩa của từ...; ­ Ít chú trọng đến môn học; ­ Ngại học Luyện từ và câu, làm bài tập thực hành. 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra. Đa số học sinh chăm ngoan, ý thức học tập tốt. Qua tiết Luyện từ và câu, học  sinh có khả năng nắm vững được các kiến thức cơ bản của từng bài để  từ  đó các   em có thể phát triển theo hướng làm thêm được các bài tập nâng cao về đặc điểm  của từ, so sánh các sự vật, âm thanh,... Bên cạnh đó học sinh còn chưa xác định rõ được động cơ  học tập, lười học,  các em  ở  lứa tuối này chưa có được vốn từ  ngữ  dồi dào, dùng từ  thiếu chính   xác...Điều này ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt cũng   như các môn học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm cho các em mất tự tin, trở  nên rụt rè, nhút nhát. Tôi đã áp dụng các biện pháp nâng cao chất lượng dạy môn Luyện từ và câu,   rèn kỹ năng nhận biết các biện pháp so sánh, nhân hóa trong bài văn, bài thơ, nhận   thấy học sinh có tiến bộ  rõ rệt. Bản thân các em cũng ý thức hơn khi làm bài dẫn   đến bài ít mắc lỗi về dùng từ đặt câu, biết được những hình ảnh so sánh dựa vào   tranh  ảnh hoặc câu hỏi gợi ý, các em sử  dụng ngôn ngữ  trong thực tiễn giao tiếp,   tích cực hóa vốn từ, hình thành các kỹ  năng ngôn ngữ, phân môn Luyện từ  và câu  không chỉ  cung cấp cho học sinh một số  vốn từ đa dạng, phong phú mà còn giúp  học sinh có kỹ  năng sử  dụng từ  ngữ  một cách thành thạo đạt hiệu quả  cao trong   hoạt động giao tiếp hàng ngày, bước đầu cung cấp cho học sinh một số kỹ năng sơ  giản về từ vựng, ngữ pháp tiếng Việt. Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 6
  7. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu Giáo viên luôn ý thức quan tâm, chăm chút học sinh trong từng tiết học. Với   mỗi loại bài tập, giáo viên nghiên cứu kĩ kế hoạch bài dạy để lựa chọn và tổ chức   những hình thức luyện tập sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. Bên cạnh đó,   luôn động viên khuyến khích, khơi gợi  ở  học sinh trí tưởng tượng, óc sáng tạo.  Môn Luyện từ và câu với mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh   khả năng củng cố lý thuyết biết cách dùng từ so sánh, biết phân biệt, biết cách so   sánh tu từ  và  ở  nhiều thể  loại bài tập khác nhau. Vì vậy, giáo viên không ngừng   học hỏi, cải tiến phương pháp dạy học phù hợp mục tiêu dạy và học để  dẫn dắt  rèn luyện học sinh thực hành những bài tập một cách độc lập, sáng tạo. Trong việc rèn kĩ năng nói ­ viết cho học sinh, giáo viên có đầu tư nghiên cứu   mục tiêu các tiết dạy để  lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ  chức dạy học   sao cho phù họp từng đối tượng học sinh, nhưng sự đầu tư chưa sâu nên hiệu quả  dạy học phân môn Luyện từ và câu chưa cao. Một số bài trong chương trình đề ra  chưa gần gũi với học sinh. Dụng cụ  trực quan thiếu, giáo viên chỉ  nói suông nên  học sinh không hiểu, không nắm bắt được thông tin vì vậy bài làm không đạt hiệu  quả cao. Học sinh chưa có hứng thú học tập phân môn này. Đa số các em đều cho rằng  Luyện từ và câu là môn học khó. Một số kiến thức còn trừu tượng, khó hiểu, phần  lý thuyết cũng không có, học sinh chỉ  được hiểu qua những bài tập làm mẫu của  giáo viên rồi cảm nhận và làm các bài tập còn lại vì thế học sinh thường ngại học   phân môn này. Chất lượng phân môn Luyện từ và câu đầu năm rất thấp, học sinh chưa biết  làm những bài tập có ý tưởng phong phú, sáng tạo mà chỉ  biết trả lời theo câu hỏi  gợi ý. Đấy là vấn đề  nan giải đòi hỏi giáo viên phải có biện pháp thích hợp để  từng bước giảng dạy đạt kết quả. 3. Giải pháp, biện pháp 3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp: Tổ  chức cho học sinh làm quen và tập diễn đạt giữa những điều nhỏ  nhất  trong từng tiết học với cuộc sống, giao tiếp, đối nhân xử  thế  hàng ngày, đặc biệt   nó có thể liên hệ với tính chất liên kết các phân môn như: Tập đọc, Chính tả, Kể  chuyện, Tập viết, Tập làm văn,... Điều này quả thật là có giá trị vô cùng lớn trong  việc thông qua học mà giáo dục được con người, hình thành nhân cách đúng với   yêu cầu cấp bách của xã hội ngày nay. Đồng thời còn hình thành và rèn luyện cho   các em bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tốt tiếng mẹ đẻ ­ tiếng Việt. Ngoài ra còn giúp các em trau dồi thêm vốn ngôn từ cho bản thân để vận dụng  trong giao tiếp hàng ngày, biết trình bày nội dung cần thiết trước tập thể. Mà thiết   thực nhất vẫn là để làm được bài tập ở các dạng so sánh trong phân môn Luyện từ  và câu rõ ràng, rành mạch, lôgic. Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 7
  8. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp: 3.2.1. Nội dung Nội dung chương trình: Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu đề tài, tôi thống   kê phân tích các hướng nghiên cứu biện pháp so sánh trong phân môn Luyện từ và  câu của chương trình sách giáo khoa lớp 3 phục vụ cho việc giảng dạy. Kiến thức   lý thuyết về so sánh tu từ được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 3 ở phân  môn Luyện từ  và câu. Toàn bộ  chương trình Tiếng Việt 3 ­ Tập I đã dạy về  so  sánh gồm 8 bài với các mô hình sau: Mô hình 1: So sánh Sự vật ­ Sự vật. Mô hình  2: So sánh Sự  vật ­ Con người. Mô hình 3: So sánh Hoạt động ­ Hoạt động. Mô  hình 4: So sánh Âm thanh ­ Âm thanh. Tác giả sách giáo khoa đã giúp học sinh nhận   diện dạng, loại và phân biệt hiệu quả so sánh qua các dạng bài tập. 3.2.2. Cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Tùy theo nội dung, yêu cầu của mỗi đơn vị  và từng đối tượng học sinh, giáo  viên có thể  áp dụng các biện pháp hoặc một biện pháp chủ  đạo kết hợp với một  số biện pháp bổ trợ khác, về cơ bản tôi thấy có một số biện pháp sau: 3.2.2.1. Phân biệt kiểu so sánh phân môn Luyện từ và câu lớp 3: Trong sách giáo khoa có ít bài tập sáng tạo, kiến thức còn mang tính trừu   tượng nên giáo viên cần phải sưu tầm nhiều dạng bài sáng tạo và kiến thức cụ thể  nói theo tình huống. Vì khi giáo viên đưa lệnh bài tập cần rõ ràng để học sinh hiểu   được mục đích yêu cầu của bài tập. Khi dạy các phân môn thuộc bộ  môn Tiếng  Việt người giáo viên cần lồng ghép giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt với   nhau như  khi dạy bài Tập đọc: “Hai bàn tay em” (Trang 7­ Sách giáo khoa Tiếng   Việt 3 ­ Tập I), trong bài này có rất nhiều hình  ảnh tu từ  so sánh giáo viên cần   nhấn mạnh để  gây hứng thú cho tiết tiếp theo của môn Luyện từ  và câu. Để  học  sinh học tốt môn Tiếng Việt đặc biệt là phân môn Luyện từ và câu, dạng bài tu từ  so sánh học sinh cần nắm và làm theo các yêu cầu sau: Đọc kỹ  đề  bài, xác định   đúng yêu cầu của bài sau đó mới làm bài. Muốn học sinh của mình có một kỹ năng   nhận biết biện pháp so sánh vững vàng đòi hỏi người giáo viên phải có nghệ thuật  khi hướng dẫn các dạng bài tập về kiểu bài so sánh như: a) Mô hình 1: So sánh Sự vật ­ Sự vật. * Ví dụ: Tìm sự  vật được so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn dưới  đây:               “Hai bàn tay em   Như hoa đầu cành”                               (Huy Cận)           “Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch”                                         (Vũ Tú Nam) “Cánh diều như dấu á Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 8
  9. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu   Ai vừa tung lên trời"                      (Lương Vĩnh Phúc)              “Ơ cái dấu hỏi  Trông ngộ ngộ ghê  Như vành tai nhỏ  Hỏi rồi lắng nghe”                     (Phạm Như Hà) Để làm tốt bài tập này học sinh phải nắm chắc các từ chỉ sự vật, từ đó các em   sẽ tìm được sự vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn trên là: “Hai bàn tay em” so sánh với “hoa đầu cành”. “Mặt biển” so sánh với “tấm thảm khổng lồ”. “Cánh diều” so sánh với “dấu á” “Dấu hỏi” so sánh với “vành tai nhỏ”. Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao “Hai bàn tay em” được so sánh với “hoa   đầu cành”? Lúc đó giáo viên phải hướng học sinh tìm xem các sự  vật so sánh này   đều có điểm nào giống nhau, chẳng hạn: Hai bàn tay của bé nhỏ  xinh như  một  bông hoa (Cho học sinh quan sát tranh  ảnh để  các em dễ  nhận thấy điếm giống   nhau). Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 9
  10. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu Hay vì sao nói “Mặt biển” như “tấm thảm khổng lồ”? Mặt biển và tấm thảm  đều phẳng, êm và đẹp; Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu  á.  (Giáo viên có thể giới thiệu hình ảnh “Cánh diều” và vẽ lên bảng “dấu á”) để  học sinh quan sát, so sánh. Dấu hỏi cong cong, nở rộng ở hai phía trên rồi nhỏ dần chẳng khác gì vành tai.  (Giáo viên có thể  cho học sinh nhìn vào vành tai bạn hoặc cho học sinh quan sát   tranh). Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 10
  11. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu b) Mô hình 2: So sánh Sự vật ­ Con người.           * Ví dụ: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu dưới đây: “Trẻ em như búp trên cành      Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan” (Hồ Chí Minh) “Bà như quả ngọt chín rồi     Càng thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng”. (Võ Thanh An) Với dạng bài tập này học sinh sẽ  dễ  dàng tìm sự  vật so sánh với con người   nhưng các em chưa giải thích được “Vì sao?”. Chính vì thế  điều đó giáo viên giúp  học sinh tìm được đặc điểm chung của sự vật và con người, chẳng hạn: “Trẻ em”   giống như  “búp trên cành”. Vì đều là những sự  vật còn tươi non đang phát triển   đầy sức sống non tơ, chứa chan niềm hy vọng. Bà sống đã lâu, tuổi đã cao giống   như “quả ngọt chín rồi” đều phát triển đến độ  già dặn có giá trị cao, có ích lợi cho  cuộc đời, đáng nâng niu và trân trọng. b) Mô hình 3: So sánh Hoạt động ­ Hoạt động * Ví dụ: Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với  nhau: Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 11
  12. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu “Con trâu đen lông mượt   Cái sừng nó vênh vênh   Nó cao lớn lênh khênh   Chân đi như đập đất”                    (Trần Đăng Khoa) Dạng bài này giáo viên giúp học sinh nắm chắc được từ chỉ  hoạt động, từ  đó   học sinh sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau.  Chẳng hạn: Hoạt động “đi” so sánh với hoạt động “đập đất” qua từ “như”. Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 12
  13. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu “Cau cao, cao mãi                                 Tàu vươn giữa trời                           Như tay ai vẫy                           Hứng làn mưa rơi”                  (Ngô Viết Dinh) Dạng bài tập yêu cầu học sinh tạo lập các hình  ảnh, các câu thơ  sử  dụng  biện pháp nghệ thuật so sánh dựa trên ngữ liệu có sẵn hoặc một phần do học sinh   phải tự tạo lập. Hoạt động “vươn” của tàu lá cau giống hoạt động “vẫy” tay của con người. Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 13
  14. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu  “Con mẹ đẹp sao    Những hòn tơ nhỏ   Chạy như lăn tròn   Trên sân trên cỏ” Hoạt động “chạy” so sánh với hoạt động “lăn tròn” qua từ  “như”. Hoạt động  chạy của những chú gà con được miêu tả giống như hoạt động lăn tròn của những  hòn tơ nhỏ. Đó là miêu tả bằng cách so sánh. Có thể miêu tả bằng cách so sánh như  vậy vì chú gà con thường có lông màu vàng óng như  tơ, thân hình lại tròn nên các   chú chạy giống như những hòn tơ đang lăn. c) Mô hình 4: So sánh Âm thanh ­ Âm thanh * Ví dụ: Tìm những âm thanh được so sánh với nhau trong mỗi câu thơ, văn  dưới đây: “Côn Sơn suối chảy rì rầm     Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai” (Nguyễn Trãi) Với dạng bài tập này giáo viên giúp học sinh nhận biết được âm thanh thứ  nhất và âm thanh thứ hai được so sánh với nhau qua từ “như”. Chẳng hạn: “Tiếng suối” được so sánh với “tiếng đàn cầm” qua từ “như”.  Ngoài các mô hình so sánh trên học sinh còn được làm quen với kiểu so sánh:   Ngang bằng và không ngang bằng (hay còn gọi là so sánh hơn kém). So sánh ngang  bằng dùng các từ so sánh: như, là, tựa, như thể... Ví dụ: “Nhìn từ xa những mảng tường vàng, ngói đỏ như những cánh hoa lấp   Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 14
  15. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu ló trong cây”. Cũng có khi so sánh ngang bằng không dùng từ  so sánh mà dùng dấu câu như  dấu gạch ngang, dấu hai chấm.       Ví dụ: “Thân dừa bạc phếch tháng năm     Quả dừa ­ đàn lợn con nằm trên cao Đêm hè, hoa nở cùng sao     Tàu dừa ­ chiếc lược chải vào mây xanh.”          (Trần Đăng Khoa) Hay: “Đồng ruộng: vựa thóc thơm”                                                           (Phạm Hổ) So sánh không ngang bằng dùng các từ so sánh: hơn, kém, chẳng bằng ...  Ví dụ: “Những ngôi sao thức ngoài kia                       Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con”          (Trần Quốc Minh) Hay: “Bếcháu ông thủ thỉ Cháu khỏe hơn ông nhiều! Ông là buổi trời chiều Cháu là ngày rạng sáng” Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 15
  16. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu              (Phạm Cúc) “Trăng khuya sáng hơn đèn”        (Trần Đăng Khoa) Các dạng bài tập về biện pháp so sánh học sinh phải nhận diện được những   sự vật được so sánh, những hình ảnh so sánh những đặc điểm so sánh và những từ  so sánh trong câu. Cảm nhận và nêu được tác dụng của so sánh. Tập đặt câu dùng hình ảnh so sánh (dựa vào các bức tranh để đặt câu) Ví  dụ:  Bài  tậ p   3/trang 126.  Dựa vào bức tranh mặt trăng và quả  bóng, giáo viên hướng dẫn cho học sinh:  Chúng ta sẽ so sánh mặt trăng với quả bóng, muốn so sánh ta phải tìm điểm giống   nhau giữa mặt trăng và quả bóng, học sinh đặt được câu: “Ông trăng tròn như quả   bóng”. Từ  đó gợi ý học sinh đặt được các câu khác có hình  ảnh so sánh như  “Bé  cười tươi như hoa ”, “Đèn điện sáng như sao ”, “Đất nước ta cong cong hình chữ   S”. So sánh là đối chiếu hai hay nhiều sự vật, sự việc có nét tương đồng, có dấu   hiệu chung nào đó nhằm tăng sức gợi cảm hoặc diễn tả một cách cụ thể  hình  ảnh  đặc điểm của sự vật, sự việc. Trong thực tế có hai loại so sánh là so sánh tu từ và   so sánh luận lý. So sánh tu từ còn gọi là so sánh hình ảnh. Ví dụ:  “Ông trăng tròn sáng tỏ  Soi rõ sân nhà em  Trăng khuya sáng hơn đèn  Ơi ông trăng sáng tỏ” Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 16
  17. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu                            (Trần Đăng Khoa) Mục đích của so sánh tu từ  nhằm diễn tả  hình  ảnh đặc điểm của sự  vật, sự  việc. Chính do đặc điểm này mà so sánh tu từ mang tính chất khoa trương. So sánh   luận lý nhằm mục đích xác lập sự  tương đương giữa hai đối tượng. (Vỉ  dụ: Bảo   cũng học giỏi như Hoàng). Trong quá trình dạy học so sánh, giáo viên cần giúp học sinh phân biệt rõ ràng  hai loại so sánh trên để tránh sự nhầm lẫn khi nhận biết cũng như tạo lập các hình   ảnh tu từ  trong văn nói cũng như  văn viết. So sánh có hai bình diện đó là so sánh   đồng loại và so sánh khác loại. So sánh đồng loại là so sánh giữa người với người,  vật với vật. Ví dụ:   “Hai bàn tay em   Như hoa đầu cành” So sánh khác loại là so sánh giữa vật với người, so sánh cái cụ thể với cái trừu  tượng. Ví dụ:          “Công cha như núi Thái Sơn      Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” Mô hình cấu tạo hoàn chỉnh của phép so sánh gồm 4 yếu tố: + Yếu tố  1 là yếu tố  được hoặc bị  so sánh (tùy theo việc so sánh là tích cực  hay tiêu cực). + Yếu tố 2 là từ ngữ chỉ phương diện so sánh + Yếu tố 3 là từ ngữ chỉ ý so sánh hay còn gọi là từ so sánh. + Yếu tố 4 là yếu tố được đưa ra làm chuẩn để so sánh. Ví dụ: “Đôi mắt long lanh như thủy tinh” Trong thực tế mô hình cấu tạo nói trên có thể có sự biến đổi, có nhiều trường   hợp so sánh không đầy đủ cả 4 yếu tố. So sánh vắng yếu tố 2 được gọi là so sánh   chìm. So sánh chìm khiến cho sự  liên tưởng được rộng rãi hơn kích thích sự  làm   việc của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn. Ví dụ:  “Dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng” So sánh vắng cả 2 yếu tố: yếu tố 2 và yếu tố  3 được gọi là so sánh sử  dụng   chỗ ngắt giọng và hình thức đối chọi. Ví dụ:            “Trường Sơn: chí lớn ông cha                         Cửu Long lòng mẹ bao la sóng trào”. Hay: “Máy bay: chim sắt lớn Có trái tim động cơ” Có những trường hợp có thể được đảo lên trước cùng với từ so sánh . (Ví dụ:   “Giống như những con chim màu vàng, những chiếc lá phong lượn tròn trên không   trung và rơi xuống mặt đất”). Có rất nhiều từ  ngữ được sử  dụng làm yếu tố  thể  hiện quan hệ  so sánh như:  như, tựa như, là, bao nhiêu, bấy nhiêu, giống, giống   Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 17
  18. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu như, chẳng khác gì... So sánh là một biện pháp nghệ thuật có chức năng nhận thức, chức năng biểu   cảm, cảm xúc và có cấu tạo đơn giản nên được dùng nhiều trong tiếng Việt: trong   lời nói hàng ngày, trong văn chính luận cũng như  trong lời nói nghệ  thuật. Cái tài   tình của nhà văn, nhà thơ  là phát hiện ra được nét giống nhau một cách chính xác,   bất ngờ  mà người khác không nhận thấy hoặc không để  ý đến.   Ví dụ: “Những   thân cây tràm vươn thẳng lên trời như những cây nến khổng lồ” (Đoàn Giỏi).  “So  sánh” là một nội dung được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 3, các kiến   thức được cung cấp cho học sinh thông qua hệ  thống bài tập không lý thuyết nên  hệ thống dữ liệu được lựa chọn phải thực sự chính xác cho học sinh. Nội dung so   sánh được cung cấp cho học sinh thông qua hệ  thống bài tập thực hành với mục   tiêu cụ thể là: Học sinh nhận biết biện pháp so sánh bao gồm hình ảnh so sánh, các   kiểu so sánh: ngang bằng, hơn kém; sự  vật ­ sự  vật, âm thanh ­ âm thanh, hoạt  động ­ hoạt động, từ  so sánh, phương tiện so sánh trong các bài học trong ngôn từ  nói hàng ngày, kể  cả  lời nói của chính các em. Rèn luyện kỹ  năng sử  dụng biện   pháp so sánh trong giao tiếp. Như  vậy trong Luyện từ và câu lớp 3 so sánh bước đầu được đưa vào thông  qua sách giáo khoa, qua các ví dụ và bài tập thực hành giúp cho học sinh cảm nhận,   gây hứng thú và từ đó tìm ra được kiến thức mới để áp dụng trong nói và viết hàng  ngày. Các kiến thức trong phân môn Luyện từ và câu nói chung trong dạy học kiểu  bài so sánh nói riêng được cung cấp qua hệ thống bài tập nên áp dụng nguyên tắc   trực quan trong quá trình dạy học là hết sức cần thiết. Với mỗi bài tập giáo viên có   thể chép sẵn ngữ liệu hoặc đáp án ra bảng phụ trước khi bước vào giờ  học và sử  dụng bảng phụ hợp lý với tiến trình giờ  học. Sau khi đã yêu cầu học sinh làm bài   tập cá nhân hoặc theo nhóm giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng chữa trực tiếp, có  thể dùng giấy khổ to để ghi lại nội dung bài tập, nếu bảng phụ không đủ. Tương   tự như bảng phụ và giấy khổ to, các bảng giấy hoặc thẻ từ ghi sẵn ngữ liệu cũng  là những đồ  dùng dạy học hiệu quả nên được sử  dụng linh hoạt trong tiết Luyện   từ và câu. Đặc biệt ngày nay công nghệ thông tin đang phát triển chúng ta có thể áp  dụng trong dạy kiểu bài so sánh bằng cách đưa ra các hình  ảnh động hoặc tranh  ảnh để học sinh cảm nhận rõ sự giống và khác nhau giữa các sự vật. Từ đó các em  sẽ dễ dàng so sánh sự vật một cách chính xác, chắc chắn giờ học sẽ sinh động và   hiệu quả. Tuy nhiên giáo viên cần phải biết sử dụng khéo léo hợp lý đồ  dùng với  từng bài tập, không quá lạm dụng hình ảnh. Ngoài ra trong quá trình dạy học giáo  viên có thể thiết kế và sử dụng phiếu bài tập nhằm thay đổi hình thức tổ chức dạy  học, tạo hứng thú cho các em trong giờ   học. Chẳng hạn có thể thiết kế phiếu bài  tập cho tiết Luyện từ và câu. Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 18
  19. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu Trong các tiết Luyện từ và câu ta có thể sử dụng nhiều đồ dùng dạy học khác  nhau để giờ học sinh động, hấp dẫn, không tẻ  nhạt. Giáo viên phải biết phối hợp   sử  dụng các đồ  dùng dạy học một cách linh hoạt. Có như  vậy hiệu quả  tiết dạy  mới được như mong muốn. Giáo viên cần nắm vững và tích cực vận dụng đổi mới  phương pháp dạy học khi dạy Luyện từ và câu; Để  học sinh tự  thực hành các bài   tập, làm quen khám phá kiến thức. Cuối bài giáo viên có thể  tóm tắt (chốt kiến  thức) thật ngắn gọn để học sinh nắm chắc bài. Ví dụ: Bài 1/ trang 24. Sau khi học sinh luyện tập tìm được các hình  ảnh so   sánh trong những khổ thơ sau: “Mắt hiền sáng tựa vì sao    Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời”  (Thanh Hải) “Mùa đông Trời là cái tủ ướp lạnh”    (Lò Ngân Sùn) Giáo viên cho các em bước đầu cảm nhận được trong mỗi hình  ảnh so sánh  các sự vật đều có những nét tương đồng (đặc điểm giống nhau) chẳng hạn:          “Em yêu nhà em Hàng xoan trước ngõ Hoa xao xuyến nở Như mây từng chùm”                                                          (Tô Hà) (Đưa hình ảnh động hoặc tranh ảnh Hoa xoan ­ mây) Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 19
  20. Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh cho học sinh lớp 3 trong môn Luyện từ và câu Trên thực tế  có những học sinh chưa từng được nhìn thấy hoa xoan. Do vậy   hình ảnh hoa xoan ­ mây sẽ giúp học sinh thấy được đặc điểm giống nhau giữa hai   sự vật và qua đó cảm nhận được cái hay, cái đẹp. Hoa xoan nhỏ li ti, màu tím ngắt,   nở  thành chùm. Khi hoa xoan nở  rộ  gợi cho ta cảm giác chúng như  những chùm  mây tím xốp đang bồng bềnh trôi. Ở bài tập 2/trang24, sau khi các em tìm được các  từ chỉ sự vật so sánh trong những câu trên: tựa, là, như (có thể thay bằng những từ  khác : tựa như, giống như, y như). Giáo viên có thể chốt bài “Trong mỗi hình ảnh  so sánh trên thường có mấy sự vật được so sánh với nhau; Các sự vật được so sánh  có những đặc điểm như thế nào với nhau ? (ngang bằng, giống nhau) Để thực hiện   sự  so sánh ngang bằng (giống nhau) ta thường dùng những từ chỉ  sự  so sánh nào ?   (là,   tựa,   như,   tựa   như...).  Giáo   viên   cần   nắm   vững   mức   độ   nội   dung   của   cả  chương trình và từng bài để dạy phù hợp với từng loại bài và từng đối tượng học   sinh. Nội dung dạy học về so sánh ở các tuần 1, 3, 5, 7, 9, 10,12, 15, 18 của học kì I,  nhưng mỗi bài chỉ dạy một nội dung nhỏ. Ví dụ: Tuần 1­ Học sinh bước đầu làm  quen với biện pháp tu từ  so sánh (xác định những từ  chỉ  sự  vật so sánh trong câu  thơ để nhận diện biện pháp so sánh). Tuần 3­ Học sinh xác định được các hình ảnh   so sánh trong câu thơ, văn. Nhận biết từ  chỉ  sự  so sánh (ngang bằng) trong những   câu đó. Tuần 5 ­ Học sinh nắm được các kiểu so sánh mới, so sánh hơn kém ...  .Tuần 7­ Học sinh nắm được kiểu so sánh sự  vật với con người v.v...Nắm được  yêu cầu trên, giáo viên cần căn cứ vào đối tượng cụ thể của học sinh mình để dạy,   giúp các em nắm kiến thức trọng tâm hoặc có thể mở rộng nâng cao thêm với học   sinh khá giỏi. Ví dụ : Ở tuần 7 sau khi chốt kiến thức cơ bản, giáo viên có thể hỏi  thêm: cách so sánh sự vật này với sự vật khác như vậy có tác dụng gì? (nhằm làm   tăng thêm vẻ đẹp của sự vật được nói tới...). 3.2.2.2. Lựa chọn phương pháp dạy: Có nhiều phương pháp để  dạy Luyện từ và câu lớp 3. Tuy nhiên, khi dạy nội   dung so sánh ta thường hay sử  dụng hai phương pháp cơ  bản đó là trực quan và  giảng giải. Trong các bài tập của sách Tiếng Việt 3 các câu văn, thơ trích dẫn đều   thuộc loại so sánh tu từ (so sánh hình ảnh) nhằm diễn tả một cách có hình ảnh đặc  điểm của sự vật sự việc. Trong khi đó tư duy của trẻ tiểu học là tư  duy trực quan  cụ thể. Có em chưa hề nhìn thấy cánh diều, có em sẽ khó khăn khi liên tưởng (dấu   hỏi) với “Vành tai nhỏ” hoặc “Những chùm dừa” với hình ảnh "đàn lợn con” nằm  quây quanh bụng mẹ. Bởi vậy trực quan tranh hoặc hình  ảnh động về  cánh diều,   vành tai hay cây dừa sai quả ....sẽ góp phần đắc lực giúp các em dễ dàng nhận thấy   các hình ảnh so sánh đó thật chính xác, sinh động và gợi tả  ... Tuy nhiên có những  hình ảnh so sánh không thể dùng trực quan để giảng giải vì nó thuộc kiểu so sánh  khác loại (so sánh cái cụ thể với cái trừu tượng)  Nguyễn Thị Hường ­ Trường Tiểu học Lý Tự Trọng 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2