intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh

Chia sẻ: Convetxao | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:29

17
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra những phương pháp thích hợp nhằm xây dựng lớp học thành một tập thể đoàn kết, tích cực chủ động trong mọi hoạt động, mang tính chất giáo dục toàn diện, phát huy khả năng tự quản, tự giác của học sinh, giúp các em hình thành nhân cách đúng đắn dưới sự chỉ đạo thống nhất về công tác chủ nhiệm của nhà trường.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh

  1. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh A- ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài: Ở thời đại nào, dưới chế độ nào việc giáo dục đạo đức cho thiếu niên cũng là trung tâm chú ý của mọi thành viên trong xã hội. Trước đây, nhiều người cho rằng khi kinh tế phát triển, con người giàu có thì đạo đức, quan hệ giữa người và người sẽ tốt đẹp hơn. Hiện nay, xã hội giàu có hơn trước nhiều nhưng hình như đây đó dấy lên báo hiệu sự suy thoái đạo đức. Hiện tượng này có biểu hiện dưới những hình thức khác nhau, đang làm vẩn đục cuộc sống yên lành. Trong hoàn cảnh ấy, việc nghiên cứu giáo dục đạo đức cho học sinh được đặt ra trong những điều kiện mới. Những người làm công tác giáo dục cần phải tìm hiểu thực trạng, đặc điểm, yêu cầu và phương pháp giải quyết để góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục. Nhà trường đổi mới phương pháp đào tạo nhằm phát huy tính tích cực trong học tập và hoạt động của học sinh là một trong những phương hướng cải cách giáo dục nhằm tạo ra những con người lao động sáng tạo, làm chủ bản thân, làm chủ đất nước - có cả đức lẫn tài. Bởi “Có đức mà không có tài - làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức cũng trở thành người vô dụng”. Việc phát triển nguồn nhân lực có đủ trình độ và phẩm chất đạo đức là trách nhiệm hết sức to lớn của ngành giáo dục. Muốn nấng cao chất lượng giáo dục thì phải tập trung nâng cao chất lượng chuyên môn và giáo dục đạo đức học sinh. Dạy “chữ” phải đi đôi với dạy “người”. Hai yếu tố này có mối quan hệ biện chứng với nhau: đạo đức là nền tảng, là động lực thúc đẩy học sinh nâng cao ý thức trong học tập và ngược lại học sinh học càng giỏi thì sẽ cố gắng giữ gìn đạo đức. Giáo dục đạo đức cho học sinh là nhiệm vụ cực kì quan trọng của nhà trường nhằm trang bị cho học sinh tinh thần tự giác, tự đánh giá và điều chỉnh hành vi của mình để sống có trách nhiệm hơn. Qua đó giúp các em hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập. Nhiệm vụ ấy được thực hiện qua nhiều môn học, mà người “ đứng mũi chịu sào phải là giáo viên chủ nhiệm. Ngoài kiến thức chuyên môn giỏi đòi hỏi phải có kỹ năng trong công tác chủ nhiệm nhằm xây dựng được tập thể lớp tốt, đặc biệt giáo dục những học sinh cá biệt trở thành những học sinh ngoan. Giúp các em có được nhận thức đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của một người học sinh. Người thầy phải có niềm tin, đam mê nghề nghiệp thì mới xây dựng được một môi trường giáo dục thân thiện, tích cực đầy ý nghĩa. Công tác chủ nhiệm lớp nhìn từ mọi góc độ đều thấy: Đây là công việc khó khăn, phức tạp, vui ít, buồn nhiều, thành công có, thất bại không hiếm và phải rất kiên trì. Muốn hoàn thành trọng trách này, giáo viên chủ nhiệm phải có phương pháp chủ nhiệm sáng tạo, linh hoạt. Việc đưa lớp tiến lên vừa là trách nhiệm vừa là bổn phận đối với học sinh, với nhà trường, đồng thời cũng là để khẳng định mình về năng lực, trình độ và nhất là lương tâm nghề nghiệp! Mỗi tập thể lớp là nền tảng vững chắc để xây dựng nhà trường vững mạnh, một tập thể tốt chắc chắn sẽ có những học sinh chăm ngoan. Giáo viên chủ nhiệm có vai trò cực kì quan trọng, ảnh hưởng nhất định đến việc học tập cũng như rèn luyện đạo đức – hình 1/29
  2. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh thành nhân cách của học sinh. Khi giáo viên có phương pháp chủ nhiệm tốt sẽ tạo nên điều kiện cần và đủ để hoàn thành tốt cả nhiệm vụ bộ môn mình giảng dạy. Vì vậy, từ trải nghiệm của những năm tháng làm công tác chủ nhiệm nhiều nhọc nhằn và hạnh phúc tôi xin trình bày sáng kiến kinh nghiệm: “Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh” II. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp để đề ra những giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức và góp phần hình thành nhân cách học sinh ở trường trung học cơ sớ. Tôi chọn đề tài này để tìm ra những phương pháp thích hợp nhằm xây dựng lớp học thành một tập thể đoàn kết, tích cực chủ động trong mọi hoạt động, mang tính chất giáo dục toàn diện, phát huy khả năng tự quản, tự giác của học sinh, giúp các em hình thành nhân cách đúng đắn dưới sự chỉ đạo thống nhất về công tác chủ nhiệm của nhà trường. Với đề tài nêu trên, bản thân tôi muốn làm thế nào để giúp cho học sinh, đặc biệt là những học sinh chậm tiến từng bước thay đổi thái độ của mình trong học tập theo hướng tích cực. Giúp các em biết tự tôn trọng bản thân mình và xác định được việc học sẽ phục vụ chính bản thân các em và tạo điều kiện để giúp đỡ gia đình, góp phần xây dựng quê hương, đất nước. Giúp các em thấy được công lao to lớn của các bậc làm cha, làm mẹ nuôi con ăn học; sự vất vả của các thầy cô trong việc truyền đạt tri thức và giáo dục nhân cách, kỹ năng sống cho các em. Bên cạnh đó phần nào giúp cho các thầy cô quan tâm hơn về vai trò, trách nhiệm của mình đối với nghề nghiệp, đặc biệt là trong công tác chủ nhiệm. III. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là học sinh trung học cơ sở và chủ yếu là học sinh chậm tiến. IV. Phương pháp nghiên cứu. 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Thu thập những thông tin lý luận về vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong công tác giáo dục đạo đức học sinh trên các tập san giáo dục, các bài tham luận trên Internet. 2. Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động học tập, sinh hoạt tập thể và vui chơi của học sinh. 3. Phương pháp điều tra: Trò chuyện, trao đổi với các giáo viên bộ môn, học sinh, cha mẹ học sinh, bạn bè của học sinh. 4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: + Tham khảo những bản báo cáo, tổng kết hàng năm của nhà trường. 2/29
  3. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh + Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên chủ nhiệm khác 5. Phương pháp thử nghiệm: Thử áp dụng các giải pháp vào công tác giáo dục đạo đức học sinh ở một lớp 6 năm học 2015-2016. V. Giới hạn nghiên cứu: Thực hiện đề tài này ở học sinh trung học cơ sở. Vì đây là giai đoạn rất quan trọng các em có nhiều thay đổi về mặt tâm sinh lí, trình độ hiểu biết thì còn thiếu, vốn sống của các em chưa nhiều nên các em dễ lầm đường lạc lối nhất là trong giai đoạn xã hội công nghệ thông tin hiện nay. VI. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu. - Do kinh nghiệm chưa nhiều và thời gian nghiên cứu có hạn nên tôi chỉ vận dụng ở lớp ở một lớp 6. - Thời gian: Bắt đầu : 01/ 08/ 2015. Kết thúc : 31/ 03/ 2016. 3/29
  4. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh B. NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận Giáo dục đạo đức - vấn đề cốt lõi của việc hình thành nhân cách cho học sinh là cả một quá trình được chuẩn bị đầy đủ về tri thức khoa học và chiến lược đào tạo từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ cụ thể đến trừu tượng. Không chỉ dừng lại ở bồi dưỡng nhận thức về chuẩn mực đạo đức xã hội mà giáo dục còn góp phần định hình và phát huy những phẩm chất cần thiết của nhân cách con người với những hành vi cao đẹp đầy tính nhân văn cùng hệ thống chuẩn mực hành vi đạo đức: chuẩn mực tri thức và niềm tin; chuẩn mực về tình cảm, thái độ; hình thành cho học sinh những kĩ năng, hành vi phù hợp với các chuẩn mực và trên cơ sở đó rèn luyện thói quen đạo đức tích cực. Đạo đức là gốc rễ của nhân cách con người. Nếu đức cao sẽ được mọi người kính nể, trong lòng sẵn có giá trị nhân văn, nhân đạo. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, điều này thể hiện rõ trong câu: 4/29
  5. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên” (Nửa đêm) Quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố: bẩm sinh, di truyền, hoàn cảnh sống, việc giáo dục và tự giáo dục. Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính chất quan trọng của của các yếu tố bẩm sinh di truyền và hoàn cảnh sống với sự hình thành và phát triển tâm lí.Yếu tố bẩm sinh - di truyền được coi là tiền đề vật chất có ảnh hưởng nhất định đến các yếu tố tâm lí như tính cách, năng lực, trí nhớ…Yếu tố môi trường và hoàn cảnh sống có những ảnh hưởng quan trọng tới việc hình thành nhân cách con người. Theo quan điểm của Người thì nhân cách được hình thành trong quá trình giáo dục. Chẳng thế mà khi đứa trẻ sinh ra bị lạc trong rừng sống cùng bầy sói thì nó không thể thành người được. Vì vậy, môi trường giáo dục quyết định việc hình thành nhân cách cho học sinh. 1. Vị trí, vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp. Ở nhà trường THCS, giáo viên chủ nhiệm lớp là người được hiệu trưởng bổ nhiệm, chịu trách nhiệm quản lý công tác giáo dục và đào tạo học sinh ở lớp mình phụ trách là người chịu toàn bộ trách nhiệm trước hiệu trưởng và nhà trường về mọi vấn đề thuộc lớp mình. - Giáo viên chủ nhiệm là thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ học sinh quản lý toàn diện học sinh lớp mình phụ trách. Điều này đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm vừa quản lý tập thể học sinh, vừa quan tâm đến từng cá nhân trong lớp về mọi phương diện: Học tập, tu dưỡng, lao động và sinh hoạt tập thể. Là cầu nối giữa gia đình và nhà trường. 5/29
  6. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh - Là người cố vấn cho công tác Đội, công tác Đoàn ở lớp mình chủ nhiệm. - Giáo viên chủ nhiệm lớp là người lãnh đạo, tổ chức, điều hành, kiểm tra mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử thuộc lớp mình phụ trách theo đúng chương trình và kế hoạch của nhà trường. - Giáo viên chủ nhiệm là nhân vật trung tâm để hình thành nhân cách cho từng học sinh trong tập thể lớp. 6/29
  7. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh - Giáo viên chủ nhiệm lớp là cầu nối là nhân vật trung gian thiết lập các mối quan hệ hai chiều: Nhà trường - tập thể học sinh, tập thể học sinh - xã hội. Như vậy giáo viên chủ nhiệm lớp vừa là đại diện cho nhà trường để giáo dục học sinh, vừa đại diện cho tập thể học sinh để liên lạc với nhà trường. Là cầu nối giữa nhà trường và xã hội. 2. Chức năng của giáo viên chủ nhiệm lớp. - Giáo viên chủ nhiệm xây dựng, tổ chức tập thể lớp mình thành đơn vị vững mạnh. - Giáo viên chủ nhiệm tổ chức điều khiển, lãnh đạo các hoạt động giáo dục của tập thể lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. - Giáo viên chủ nhiệm luôn thiết lập và phát triển các mối quan hệ với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để giáo dục học sinh. - Những công việc mà giáo viên chủ nhiệm phải thực hiện: 7/29
  8. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh Lập kế hoạch Phân loại Quản lí học sinh hồ sơ Giáo viên chủ nhiệm Tổ chức đội ngũ lớp Đánh giá xếp loại HS Phối hợp Tổ chức giáo dục HĐGD 3. Nhiệm vụ của giáo dục đạo đức: - Giáo dục ý thức đạo đức: Là nhằm cung cấp cho học sinh những tri thức cơ bản về các phẩm chất đạo đức và các chuẩn mực đạo đức, trên cơ sở đó giúp học sinh hình thành niềm tin đạo đức. Học sinh phải hiểu và nhận thấy rằng cần phải làm cho các hành vi của mình phù hợp với những tư tưởng, nguyên tắc và chuẩn mực của xã hội, phù hợp với lợi ích của xã hội. - Giáo dục thái độ tình cảm đạo đức: + Khơi dậy ở học sinh những rung động, những cảm xúc đối với hiện thực xung quanh, làm cho chúng biết yêu, ghét rõ ràng và có thái độ đúng đắn đối với các hiện tượng phức tạp trong đời sống xã hội. + Bồi dưỡng cho học sinh những tình cảm đạo đức tích cực và bền vững (lương tâm, trách nhiệm…), các phẩm chất ý chí (khiêm tốn, thật thà, dũng cảm, kỷ luật…) - Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức. Là tổ chức cho học sinh lặp đi, lặp lại nhiều lần những hành động đạo đức trong học tập, sinh hoạt và trong cuộc sống nhằm có được hành vi đạo đức đúng đắn, làm cho chúng trở thành bản tính tự nhiên của cá nhân và duy trì được lâu bền các thói quen đó để ứng xử đúng đắn trong mọi hoàn cảnh. 8/29
  9. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh II. Thực trạng vấn đề: 1. Thực trạng về đạo đức học sinh: Trong những năm gần đây, dưới tác động kinh tế thị trường, bùng nổ của công nghệ thông tin giúp học sinh ngày càng có điều kiện để phát triển toàn diện về thể chất, năng lực, trí tuệ…nhưng không phải lúc nào cũng tác động tốt tới học sinh. Ở lứa tuổi THCS, các em đang phát triển mạnh về tâm sinh lí, chưa có nhiều vốn sống, kinh nghiệm nên là đối tượng rất dễ bắt chước, rất dễ bị lôi cuốn vào những trò mới lạ khiến hành vi lệch chuẩn đạo đức. Việc xa rời các giá trị truyền thống đạo đức của bộ phận học sinh có xu hướng ngày càng cao. Một số tệ nạn xã hội đang len lỏi vào các trường học. Những tệ nạn đó ảnh hưởng lớn đến nền tảng đạo đức và thuần phong mĩ tục của dân tộc. Do tác động phức tạp của xã hội đã ảnh hưởng lớn đến việc học hành, hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Điểm qua các vi phạm của học sinh trong thời gian qua ta thấy nổi lên các hiện tượng khiến gia đình, nhà trường, xã hội lo lắng như: - Thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, lười học (đi học không mang đầy đủ sách vở, không chú ý trong giờ, thường xuyên không chép bài)., lười lao động, ham chơi. - Thiếu lễ phép với các thầy cô giáo, với người lớn, với cha mẹ, - Hay gây gổ, nói tục, chửi bậy, ăn mặc lố lăng, cử chỉ, lời nói không phù hợp lứa tuổi, thể hiện sự vô cảm trước mọi sự việc. - Gian dối, quay cóp bài trong kỳ kiểm tra thi cử; - Yêu sớm, thiếu sự trong sáng lành mạnh. - Sử dụng điện thoại di động để chơi game, quay chụp những hình ảnh phản cảm, xem phim không phù hợp lứa tuổi. - Mất trật tự ngoài xã hội, la cà, tụ tập ăn uống bê tha, tham gia các nhóm đánh nhau, trộm cắp, trấn lột, hút hít; - Chưa có động cơ phấn đấu cao trong học tập. Nhìn chung động cơ học tập của học sinh chủ yếu hướng vào lợi ích cá nhân. 2. Đặc điểm Năm học 2014 - 2015 dưới sự hướng dẫn chỉ đạo sát sao của BGH nhà trường đặc biệt là cô hiệu trưởng. Cô rất chú trọng việc giáo dục đạo đức học sinh nên luôn quan tâm đến công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp, thường xuyên tổ chức các lớp học giá trị sống, các buổi tập huấn, thảo luận, rút kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm; luôn chú ý trang bị kỹ năng cho giáo viên trong việc giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh nhất là thông qua công tác chủ nhiệm. Cô hiệu trưởng thường xuyên nói với giáo viên: “ Dạy học sinh là phải dạy làm người”. Nhà trường cũng tổ chức nhiều hoạt động ngoại khoá cho học sinh để các em có được sân chơi lành mạnh, bổ ích. Công tác giáo dục kỹ năng sống cho các em cũng được chú trọng nhằm giúp học sinh phát triển một cách toàn diện. Mở 9/29
  10. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh phòng tâm lý học đường để hỗ trợ giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh. Đặc điểm lớp 6A1 a. Thuận lợi: - Đa số HS ngoan, lễ phép, có ý thức học tập và rèn luyện đạo đức. - HS trong lớp có ý thức xây dựng tập thể lớp . - Giữa GVCN, phụ huynh học sinh và BGH luôn phối hợp chặt chẽ trong công tác giáo dục. b. Khó khăn: - Một số học sinh chưa chăm học, học không tập trung, nhanh quên, thực hiện chưa nghiêm túc nội quy của trường lớp như em Lâm, em Lê Huy, em Phong… - Nhà ở xa trường học: em Thành An, em Vũ Huy.. - Một số học sinh thiếu thốn tình cảm(chỉ ở với mẹ bố mất hoặc bố li dị với mẹ): Ngọc Diệp, Ngọc Anh, Nghi, Minh… Trong thực tế, chủ nhiệm lớp là công tác vô cùng khó khăn, phức tạp, vui ít, buồn nhiều, thành công cũng có, thất bại cũng không phải là hiếm. Bởi lẽ, nhiều giáo viên chủ nhiệm còn chưa biết hết chức trách, nhiệm vụ của mình, kỹ năng chủ nhiệm còn non nớt. Và mỗi tập thể lớp có đặc thù riêng của lớp đó. Nếu rơi vào những lớp đa số là học sinh khá giỏi thì các em có ý thức học tập tốt, ý thức kỷ luật cũng tốt giúp cho giáo viên chủ nhiệm bớt đi phần gánh nặng. Nhưng đối với những lớp phần lớn là học sinh trung bình, học sinh cá biệt nhiều thì đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm vất vả hơn rất nhiều, tốn nhiều thời gian công sức, phải có phương pháp hiệu quả, biết tổ chức giáo dục thì mới làm tốt nhiệm vụ được giao. III. Một số giải pháp cụ thể: 1.Bản thân là tấm gương cho học sinh noi theo. Người ta thường nói con cái là hình ảnh của cha mẹ, một tập thể lớp là hình ảnh của giáo viên chủ nhiệm, nói như vậy cũng đúng phần nào vì ngoài những giờ giảng dạy trên lớp, giáo viên chủ nhiệm dễ dàng tiếp cận với các em qua những giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt 15 phút đầu buổi, những buổi lao động, những ngày lửa trại … Giáo viên chủ nhiệm là người gần gũi với các em nhiều nhất. Mọi cử chỉ, hành động, lời nói của giáo viên ảnh hưởng rất nhiều đến học sinh, học sinh học hỏi được phong cách, tác phong trước tiên từ người GVCN lớp. Vì vậy, khi lên lớp tôi chuẩn bị chu đáo từ đầu tóc, trang phục đến giáo án, đồ dùng dạy học; ra vào lớp đúng giờ; công bằng , yêu thương tất cả học sinh; đã nói là làm, những gì nói với học sinh phải thực hiện bằng được không dễ dãi qua loa, phải xử 10/29
  11. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh lý học sinh đúng quy định đã đặt ra, bắt và chữa đúng “bệnh” của học sinh,... Luôn ân cần, tận tâm, bám sát lớp, rèn cho mình tính kiên trì. Cố gắng rèn luyện các kỹ năng: 2. Công tác tổ chức lớp. *Xếp chỗ ngồi: - Căn cứ vào học lực của HS: HS chậm tiến ngồi cùng bàn với học sinh khá giỏi để xây dựng đôi bạn cùng tiến. - Căn cứ vào tình trạng sức khỏe của học sinh: thấp ngồi trước, cao ngồi sau; học sinh mắt kém ngồi gần bảng. - Căn cứ vào nhiệm vụ của ban cán sự lớp: ngồi giữa và sau để dễ theo dõi. - Mỗi tháng đổi dãy một lần Không xếp học sinh cá biệt ngồi gần nhau. Không cho các em tùy tiện chọn chỗ ngồi, vì những học sinh ham chơi, hay đùa giỡn thường thích ngồi gần nhau. Sau khi xếp chỗ ngồi xong giáo viên chủ nhiệm lập sơ đồ lớp và dán tại bàn giáo viên để giáo viên bộ môn tiện theo dõi.. *Bầu Ban cán sự lớp: 11/29
  12. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh Ban cán sự lớp đại diện cho lớp, do tập thể lớp bầu ra, được giáo viên chủ nhiệm quyết định công nhận, lựa chọn những học sinh có khả năng làm lớp trưởng, các lớp phó và các tổ trưởng, tổ phó. Đây là vấn đề rất cần thiết để giao trách nhiệm cho ban cán sự lớp hỗ trợ cho giáo viên chủ nhiệm điều hành, quản lý lớp. Trong quá trình giao nhiệm vụ, nếu thấy trong ban cán sự những học sinh nào không làm tốt sẽ thay bằng học sinh khác. *Xây dựng nội quy lớp: Ngoài việc phổ biến cho học sinh về nội quy nhà trường, giáo viên chủ nhiệm nên cho học sinh xây dựng quy định riêng cho lớp để các em thực hiện. Có thể ở mỗi lớp giáo viên chủ nhiệm xây dựng nội quy lớp khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm, tình hình của lớp. Sau khi xây dựng xong nội quy lớp, tôi phổ biến trước lớp cho tất cả học sinh đều biết và thống nhất thực hiện. Sau đó phát cho mỗi học sinh một bảng nội quy lấy ý kiến cha mẹ để cha mẹ cũng biết những quy định của trường, lớp nhắc nhở, kiểm tra việc thực hiện của các em góp phần xây dựng nề nềp. Nội quy lớp là một công cụ hỗ trợ giáo viên chủ nhiệm xử lý học sinh vi phạm. Bên cạnh đó tôi xây dựng thang điểm thi đua của lớp hàng tuần ứng với nội quy của lớp để cán bộ lớp theo dõi, chấm điểm, trong đó có hình thức biểu dương, khen thưởng và kỷ luật cụ thể từng trường hợp và được công khai vào buổi sinh hoạt lớp. * Khảo sát học sinh: Sau khi làm xong công tác tổ chức lớp, tôi tiến hành khảo sát để nắm được những thông tin có liên quan đến hoàn cảnh, đời sống gia đình của các em. Qua đó giúp tôi biết được hoàn cảnh từng đối tượng học sinh, những đặc điểm cơ bản của học sinh, phân ra các đối tượng để có kế hoạch chủ nhiệm. PHIẾU KHẢO SÁT 1. Họ và tên học sinh: …………….., Ngày… Tháng… Năm sinh…………… 2. Chỗ ở hiện nay: …………………………………….. Điện thoại………… 3. Họ tên cha…….. Tuổi………Nghề nghiệp: …………Điện thoại………. 4. Họ tên mẹ: …….Tuổi……... Nghề nghiệp: ………….Điện thoại……… 5. Gia đình có bao nhiêu anh, chị em; nghề nghiệp của anh, chị …………….. ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… 12/29
  13. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh 6. Em có thể chia sẻ về hoàn cảnh sống hiện tại của gia đình mình ………………………………………………………………………………… 7.Sở thích của em là gì…… em ghét nhất điều gì …………………………… Sau này em ước mơ củ làm gì:………………………………………………. 8. Ngoài giờ học em thường làm gì để giúp đỡ gia đình: …………………… …………………………………………………………………………………. 9. Trong học tập và trong cuộc sống em có gặp khó khăn gì không? ………………………………………………………………………………… 10. Người bạn thân của em tên gì, em có thể kể vài nét về bạn ấy.…………… *Lập kế hoạch công tác chủ nhiệm: Công tác chủ nhiệm lớp là một công tác khó khăn vất vả và đòi hỏi làm việc phải khoa học. Tránh tình trạng tuỳ hứng tuỳ tiện, thiếu kế hoạch. Vì thế vấn đề xây dựng kế hoạch là một yêu cầu cần thiết để bảo đảm hiệu quả giáo dục học sinh. + Nắm được kế hoạch, chương trình giáo dục chung của nhà trường. + Tuỳ tình hình cụ thể của lớp chủ nhiệm và từ các thông tin nói trên giáo viên chủ nhiệm dự kiến kế hoạch, đặt ra các yêu cầu trọng điểm cho từng giai đoạn. Sau đó phác thảo kế hoạch chủ nhiệm thông qua các hoạt động cụ thể theo trình tự thời gian. + Phổ biến rõ công tác cho cho tập thể lớp, thống nhất quyết tâm thực hiện tốt kế hoạch, biến kế hoạch thành chương trình hành động cụ thể.. + Kết thúc một công việc cần tổng kết đánh giá phân tích ưu điểm và hạn chế rút kinh nghiệm. Có khen, chê kịp thời. Trong kế hoạch chủ nhiệm cần đặt ra các yêu cầu ngày càng cao hơn nhưng vừa sức với học sinh để kích thích sự tiến bộ không ngừng. Giáo viên chủ nhiệm khi lập kế hoạch phải đưa ra được chỉ tiêu cụ thể trong năm học. Ví dụ: Đối với lớp tôi chủ nhiệm, tôi đã đưa ra chỉ tiêu như sau: + Đạo đức đạt 100% loại Khá, Tốt. Tốt: 96,45%; Khá: 3,55% + Học lực : Giỏi : 52,11% Khá: 40,92%; TB: 6,97% 13/29
  14. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh + Đạt lớp tiên tiến xuất sắc, chi đội mạnh. + Hoàn thành và tham gia đầy đủ, đạt kết quả trong tất cả các hoạt động của nhà trường. 3. Luôn quan tâm đến, lắng nghe, chia sẻ, tạo sự gần gũi với học sinh. Chúng ta ai cũng biết, ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở đặc điểm tâm sinh lý hết sức điển hình. Đây là thời kỳ quá độ chuyển từ trẻ em sang giai đoạn người lớn. Những đặc điểm tâm lý, trình độ hiểu biết, vốn sống của học sinh trung học cơ sở còn nhiều hạn chế. Vì vậy, cần có một người thường xuyên hướng dẫn giúp đỡ, chỉ bảo cho các em. Người thường xuyên đó là giáo viên chủ nhiệm. Để làm tốt công tác chủ nhiệm trước hết phải hiểu biết về tâm lý lứa tuổi của các em để có các giải pháp xử lý tình huống cho thích hợp. Trong lớp học có rất nhiều đối tượng học sinh: học sinh giỏi, học sinh khá, học sinh yếu kém. Đối với học sinh khá, giỏi thường các em rất có ý thức, nghe lời thầy cô, các em sẽ thấy hối hận khi mình lỡ vi phạm và các em sửa đổi những khuyết điểm của mình một cách tự giác và rất nhanh. Nhưng đối với học sinh yếu, kém (học sinh chậm tiến) khi vi phạm các em sửa đổi rất chậm, thậm chí không hề sửa đổi mà vi phạm có thể ngày càng tăng lên dẫn đến học lực ngày càng sa sút. Vì vây, tôi thường tiếp xúc tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của các em, nhằm để động viên, khích lệ, thể hiện sự quan tâm đối với các em, tạo mối quan hệ gần gũi, cho các em có được chỗ dựa tinh thần vững chắc. Để các em thấy được tôi như người mẹ của các em luôn dìu dắt, nâng đỡ các em khi vấp phải những khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống. Tôi luôn lắng nghe học sinh nói: mỗi khi các em phát biểu ý kiến hay nói một điều gì, dù bận rộn tôi cũng cố lắng nghe hết. Tôi luôn thông cảm và chia sẻ những khó khăn của các em. Trả lời những câu hỏi của các em một cách thấu đáo (nếu chưa có thời gian trả lời thì hứa sẽ trả lời các em sau). Tôi nói với các em là các em có thể điện thoại cho cô, hay gặp riêng cô để nói chuyện hay hỏi bài vở. Hỏi các em về những khó khăn trong đời sống, những khó khăn ở trường... giúp các em giải quyết những khó khăn này. Chẳng hạn, khi học sinh nghỉ học, dù có phép hay không phép, dù bất cứ lý do gì khi các em đi học tôi đều đến hỏi thăm. Qua đó đôi khi phát hiện ra những lý do khá đặc biệt tôi có thể chia sẻ với các em, làm cho các em cảm thấy vui hơn khi được thầy cô quan tâm đến mình.Tôi luôn quan tâm đến cảm xúc của các em bằng cách quan sát các biểu hiện trên khuôn mặt hoặc thái độ cử chỉ của các em có gì khác mọi hôm không…từ đó có thể phát hiện ra các vấn đề cần giúp các em. Trong lớp học hay ngoài lớp học, tôi luôn cố gắng không chỉ là người thầy đủ nghiêm khắc, là người mẹ, người chị mà các em có thể tin tưởng, nhờ cậy được, mà còn cố gắng là người bạn chân tình của các em. Có như vậy các em mới gần gũi và sẵn sàng chia sẻ. Và đó cũng là cánh dạy các em biết lắng nghe khi thầy cô, hay người khác nói. Qua đó, các em sẽ biết sống nhẫn nại, kiên trì và giàu lòng nhân ái. 14/29
  15. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh Biết yêu thương, biết chia sẻ, quan tâm đến người khác là thứ chúng ta không thể áp đặt cho học sinh từ bên ngoài. Đó là những sắc thái tình cảm nảy nở từ bên trong tâm hồn mà chúng ta phải giúp các em nuôi dưỡng và biết cách thể hiện. 4. Kết hợp nhà trường - gia đình - xã hội. Các phẩm chất đạo đức, lối sống của con người nói chung, HS nói riêng được hình thành và phát triển trong các môi trường: gia đình, nhà trường và xã hội. Lúc sơ sinh vai trò của gia đình là chủ đạo, tuổi học mầm non gia đình và nhà trường góp phần quyết định, tuổi học phổ thông (từ tiểu học tới trung học) càng lớn vai trò của nhà trường, gia đình và xã hội càng cân đối. Để làm tốt việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh phải kết hợp chặt chẽ với gia đình. Nhà trường, gia đình và xã hội có vai trò giáo dục khác nhau đối với sự hình thành và phát triển đạo đức, lối sống, nhân cách của học sinh. Trong mối quan hệ đó thì nhà trường được xem là trung tâm, chủ động, định hướng trong việc phối hợp với gia đình và xã hội. Nhà trường là môi trường giáo dục toàn diện nhất, là cơ quan đại diện nhà nước thực hiện chức năng giáo dục chuyên nghiệp nhất nên nhà trường là lực lượng giáo dục có hiệu quả , hội tụ đủ những yếu tố cần thiết để có thể huy động sức mạnh giáo dục từ phía gia đình và xã hội. *Phối hợp với cha mẹ học sinh: Hiện nay, một số gia đình có kinh tế khó khăn nên nhiều phụ huynh chỉ lo tìm kế mưu sinh, thiếu quan tâm đến việc học hành, sinh hoạt của con em mình tạo cơ hội cho các em tụ tập, ăn chơi, trốn học bởi không có ai kiểm tra nhắc nhở. Cũng có những gia đình khá giả nuông chiều con nên đã thỏa mãn nhu cầu của các em trong mọi trường hợp, từ đó tạo tâm lí thích hưởng thụ, sống ích kỉ, dễ rơi vào tình trạng ham chơi, bỏ học hoặc tham gia vào các tệ nạn xã hội làm việc học hạn chế. Nhiều gia đình cha mẹ không còn là tấm gương tốt cho con cái. Có một số học sinh thường xuyên phải chứng kiến cha mẹ, người lớn cãi nhau, chửi nhau, ngoại tình… nhiều việc làm vô văn hoá, coi thường truyền thống đạo đức. Một số còn bị ngược đãi, một số cha mẹ ly hôn phải ở với ông bà… Cho nên việc phối hợp với cha mẹ học sinh cũng gặp nhiều khó khăn, nhiều khi hiệu quả không cao. Những công việc thường xuyên tôi làm: - Mỗi tuần nhắn tin liên lạc điện tử giữa gia đình và nhà trường 1 lần. - Tạo đường dây liên lạc thông suốt giữa giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh để có thể thông báo kịp thời cho phụ huynh tình hình của học sinh. - Trong cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm tôi thống nhất các phương pháp giáo dục của nhà trường, của giáo viên chủ nhiệm nhằm tạo sự đồng thuận, gây dựng niềm tin của cha mẹ học sinh. Khi cha mẹ học sinh đứng về phía mình thì hiệu quả giáo dục sẽ cao hơn. - Với những học sinh cá biệt tôi thường gặp riêng để trao đổi thông tin, qua đó biết thêm được các thói quen, sở thích, thái độ của học sinh thường biểu hiện ở 15/29
  16. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh gia đình. Cha mẹ học sinh cũng hiểu thêm về con mình. Tránh phê bình gay gắt trước cuộc họp làm họ xấu hổ. - Khi giao tiếp với phụ huynh luôn chân tình, cởi mở. Đôi khi phải biết kìm chế cảm xúc khi gặp những phụ huynh đặc biệt như của lớp tôi đã kể ở trên. *Phối hợp với đoàn thể: - Phối hợp với giám thị, bảo vệ: Sau giờ học căng thẳng là giờ giải lao, các em được tự do vui chơi thoải mái, tinh nghịch, bởi tính hiếu động mà các em không nghỉ đến hậu quả : tai nạn thương tích…Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp với giám thị để tiếp nhận thông tin của lớp kịp thời. Giáo viên chủ nhiệm cũng gửi những học sinh cá biệt để giám thị theo dõi. - Phối hợp với giáo viên bộ môn: Việc phối hợp với giáo viên bộ môn là hết sức cần thiết vì nếu không liên hệ chặt chẽ với các giáo viên bộ môn thì không theo dõi, nắm thông tin của các em về học tập, chuyên cần, trật tự nề nếp, tác phong làm ảnh hưởng đến chất lượng hai mặt giáo dục. Ngược lại giáo viên bộ môn cũng hiểu sâu sắc hơn về học sinh của mình để có cách cư xử khéo léo, có phương pháp giảng dạy thích hợp cho lớp nhằm đạt hiệu quả cao của tiết dạy Ví dụ: Thông qua sổ ghi đầu bài, qua lời tâm sự của giáo viên bộ môn phát hiện những trường hợp có năng khiếu đặc biệt, những học sinh lười chép bài và học bài. Trong giờ học bộ môn đó ý thức của cả lớp như thể nào… Từ đó giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu rõ nguyên nhân để có hướng giải quyết phù hợp. - Phối hợp với đội thiếu niên, thư viện: Kết hợp cùng tổng phụ trách đội, lên kế hoạch hoạt động trong tuần, tháng, học kì qua các văn bản cụ thể để phối hợp và phổ biến kịp thời đến học sinh.Thường xuyên động viên, đôn đốc nhắc nhở các em tham gia tốt các hoạt động đoàn thể, phong trào thi đua do đoàn thể phát động.Tổ chức cho học sinh tham quan, các hội thi, đọc sách thư viện, hoạt động ngoài giờ toàn khối… giúp cho học sinh thêm hiểu biết, năng động, tích cực, sáng tạo hơn. * Tìm hiểu mối quan hệ bè bạn của học sinh Có những chuyện học sinh không chia sẻ với gia đình, với thầy cô mà chỉ nói với bạn. Vì vậy, tìm hiểu mối quan hệ bè bạn của học sinh có thể biết thêm nhiều điều về học sinh đó, có thể qua bạn bè để biết những đối tượng mà học sinh này đang chơi như thế nào. giáo viên chủ nhiệm có thể tìm hiểu thông qua lớp trưởng, các học sinh khác trong lớp, thông qua phiếu khảo sát… Có những học sinh ít giao tiếp với bạn bè chỉ thích chơi game mà học tập giảm sút, nên khuyến khích các học sinh khác trong lớp thường xuyên tiếp xúc để có biện pháp giúp đỡ bạn, giúp các em sống trong môi trường đoàn kết, gắn bó giúp đỡ lẫn nhau. 16/29
  17. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh Để hiệu quả giáo dục toàn diện cao hơn tôi luôn phối hợp kịp thời, linh hoạt với các bộ phận trong nhà trường.Tạo sợi dây gắn kết giữa giáo viên bộ môn, gia đình và đoàn thể xã hội để cùng phối hợp, thống nhất nội dung, biện pháp giáo dục học sinh. 5. Giáo dục HS cá biệt * Thực trạng: + Hầu như trường nào, lớp học nào cũng có học sinh cá biệt, mà những học sinh này đa số gây không ít khó khăn cho giáo viên chủ nhiệm, đôi khi họ rất mệt mỏi vì nói hoài mà các em không nghe, càng phạt thì càng lỳ hơn hoặc các em sẽ co lại và phá phách hoặc chống đối ngầm. Điều này không những khó khăn cho giáo viên mà còn có thể ảnh hưởng đến nề nếp của cả lớp nữa. + Giáo viên chủ nhiệm thường là người đứng ra giải quyết mọi chuyện do học sinh gây ra, nhưng chỉ ở mức độ là khuyên bảo, dạy kèm ngoài giờ cho học sinh quá yếu kém, còn đối với học sinh cá biệt về đạo đức thì răn đe, xử phạt, thậm chí còn hù dọa, nhưng hầu hết đều chỉ có hiệu quả tức thời thôi rồi đâu lại vào đó, HS vẫn trở lại như cũ vì do giáo viên không hiểu được nguyên nhân sâu phát xuất từ tâm lý của trẻ. + Cũng có giáo viên chủ nhiệm mời phụ huynh đến để thông báo về tình trạng của trẻ với mong muốn gia đình kết hợp cùng nhà trường để giáo dục cho các em tốt hơn, có phụ huynh thì tiếp thu và cũng có phụ huynh lại bực tức con mình và đánh con trước mặt giáo viên rồi dẫn con về cho... nghỉ học luôn vì cảm thấy xấu hổ. Điều này đã cho thấy chính phụ huynh cũng bất lực trước con mình... * Tìm hiểu nguyên nhân: Lâu nay, chúng ta thường dùng cụm từ học sinh “ cá biệt” để chỉ những đứa trẻ có vẻ khác thường, khó dạy, thậm chí hư hỏng. Trong trường, học sinh cá biệt về đạo đức thường quậy phá, đánh lộn, ăn cắp vặt, nổi bật vai trò thủ lĩnh, đàn anh, đàn chị. Nhẹ hơn một chút là học sinh không học bài, làm bài, chậm hiểu và rất mau quên…Trong mỗi lớp học không ít thì nhều đều có những học sinh như vậy. Và học sinh bị gọi "cá biệt" là HS có khiếm khuyết về tâm lý, do bị ảnh hưởng từ trong gia đình của học sinh, đa số chúng ta khi thấy hành động khác thường, không ngoan của học sinh thì cho là cá biệt và xử lý trên hành động do học sinh gây ra mà quên là cần phải tìm cho ra nguyên nhân. Đôi khi sự cá biệt của những học sinh ấy lại do từ cha mẹ chúng...cuộc sống vợ chồng không hoà thuận, từ đó có ảnh hưởng đến đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. Không phải tự nhiên mà trẻ trở thành "cá biệt", đó là hậu quả của các vết thương tâm lý mà vô tình người lớn chúng ta đã gieo vào đầu óc non nớt của trẻ lúc sống trong môi trường gia đình cũng như ở trường học. Nhiều em do bị dồn nén cảm xúc nên có những hành vi chống đối. Một số học sinh do bị bệnh và điều đáng lưu tâm là một số học sinh do học kém dẫn đến chán học, quậy phá... 17/29
  18. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh * Giải pháp: Mỗi học sinh là một cá tính, một hoàn cảnh nên cần có biện pháp giáo dục khác nhau. Ngoài việc đưa vào nề nếp theo quy định của trường, lớp thì những học sinh cá biệt phải luôn được theo dõi đặc biệt, luôn có sự kết hợp chặt chẽ hơn giữa nhà trường và gia đình qua sổ liên lạc, điện thoại, một số học sinh có thể phải dùng sổ riêng. SỔ THEO DÕI HỌC SINH CÁ BIỆT -Họ và tên học sinh: ……………………………. Lớp: ……..Ngày sinh:……….. -Học lực: …….Hạnh kiểm năm học trước: …………Sở thích:………………….. - Địa chỉ gia đình:……………………………. Điện thoại liên lạc:…………….. -Hoàn cảnh gia đình: …………………………………………………………… -Những biểu hiện của học sinh: ………………………………………………... PHẦN THEO DÕI Các vi phạm Biện pháp giáo dục Thái độ sửa chữa Tuần (Đối chiếu với nội (Ghi hình thức (Có sửa khuyết điểm quy lớp) xử lý) không, mức độ thế nào) 1 2 3 4 ….. Tổng hợp của GVCN ………………………………………………………………………. …………………………………………………………………………………… …. - Có học sinh dùng biện pháp mạnh, biện pháp giáo dục mang tính chất mệnh lệnh như: viết bản kiểm điểm, chép phạt, phạt lao động, mời phụ huynh, nêu tên cảnh cáo dưới cờ, hạ hạnh kiểm... thì có hiệu quả nhưng nhiều học sinh lại khó đem lại hiệu quả hoặc hầu hết đều chỉ có hiệu quả tức thời thôi rồi đâu lại vào đó, học sinh vẫn trở lại như cũ, thậm chí còn "nhờn thuốc" và có tư tưởng "mặc kệ ". 18/29
  19. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh - Với những học sinh này giáo viên cần hiểu được nguyên nhân sâu xa, xuất phát từ tâm lý của học sinh. Khi học sinh vi phạm, giáo viên phải tìm hiểu lý do qua nhiều kênh như trò chuyện chân tình với học sinh, tìm hiểu qua bạn bè, hàng xóm, đặc biệt là với cha mẹ học sinh. Việc tìm hiểu, gần gũi, quan tâm học sinh phải thật sự xuất phát từ tình yêu thương của người thầy. Khi học sinh biết được tình cảm đó thì việc cảm hóa, giáo dục các em cũng dễ dàng hơn nhiều. Thuyết phục học sinh bằng lời lẽ có lý, có tình, bằng tình cảm và phép tắc, khen, chê đúng lúc; tìm cách tác động lên nhận thức và tình cảm của học sinh thông qua trò chuyện, nêu gương tốt, thưởng việc tốt. - Phải rèn luyện cho học sinh tính trung thực, tự lập, vượt qua mọi khó khăn thử thách, không nên ỷ lại. Có được tính trung thực điều đó khẳng định là các em đã trưởng thành, phải chịu trách nhiệm trước công việc của mình làm, nếu có sai phạm phải tự nhận lấy, không đổ lỗi cho người khác.Từ đó giúp các em tự khẳng định được mình và các em sẽ đắn đo trước những công việc mà mình sắp làm nhằm hạn chế bớt những sai phạm. Cụ thể: tôi thường xuyên nhắc nhở học sinh thực hiện tốt quy định khi kiểm tra, thi cử; rèn học sinh có ý thức giữ gìn, bảo vệ đồ đạc của bạn để học sinh không tắt mắt, biết phê bình và tự phê bình. - Thường giáo viên chủ nhiệm không giao nhiệm vụ cho những học sinh cá biệt, vì cho rằng những học sinh này sẽ không làm được gì, coi thường các em, chỉ luôn quát mắng, chỉ trích, nêu tên là chính. Điều đó không khéo dễ làm hỏng các em hơn. Cho nên đối với những đối tượng này, tôi thường tạo cho các em một cơ hội để các em thấy được vai trò của mình trong tập thể, đồng thời phát huy tính làm chủ của các em và nhận thấy rằng mình không bị lạc lỏng, không bị bỏ rơi. Như tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ, tham gia các trò chơi dân gian, các hoạt động thể thao, tham gia làm báo tường, cắm trại nhân các ngày lễ hội của trường tổ chức… thậm chí tôi có thể giao cho các em quản giờ ăn, giờ ngủ. Khi hoàn thành nhiệm vụ tôi đánh giá kết quả bằng cách nêu gương trước tập thể lớp. Còn nếu học sinh đó không thể hoàn thành nhiệm vụ thì lúc đó sẽ điều chỉnh sau. - Khen học trò là cả một nghệ thuật, nếu biết khen đúng người, đúng lúc, đúng chỗ thì sẽ rất hiệu quả. Đã là con người ai cũng có tâm lý mong muốn người khác nhìn nhận điểm tốt, điểm tích cực của mình và khi được người khác thừa nhận khả năng của mình thì sẽ có tâm lý tự tin, dễ sống hòa đồng thân thiện với tập thể. Còn nếu bị người khác đem điểm yếu của mình ra phê bình nhiều lần sẽ gây tâm lý chán nản, buông xuôi, riết rồi sẽ tin là mình không có khả năng. Do đó, tôi luôn cố gắng phát hiện điểm mạnh của học sinh yếu và có khen thưởng, động viên, khích lệ giúp các em tự tin hơn về bản thân, cũng như cho học sinh khác cơ hội nhìn thấy điểm tốt của bạn để không xa lánh bạn và có cái nhìn thiện cảm về bạn. - Tôi thấy những học sinh cá biệt phần lớn đều bị thu phục bởi cái tâm, cái tình của người thầy. Vì vậy, để cảm hóa, giáo dục học sinh cá biệt là thử thách vô cùng khó khăn, muốn thành công người thầy giỏi chuyên môn là chưa đủ mà nó 19/29
  20. Một số giải pháp của giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục đạo đức - hình thành nhân cách học sinh còn đòi hỏi người thầy phải có cái tâm thương yêu học trò hết mực, và cả một nghệ thuật sư phạm đầy tinh tế. 6. Phát hiện và giải quyết xung đột : Một bộ phận học sinh có những hành vi thiếu ý thức, lối sống buông thả, không chú ý lắng nghe, học hỏi, thường bảo thủ, hiếu thắng, cao ngạo gây bạo lực học đường. Khi người khác khuyên bảo thì cãi bừa, cãi ẩu, hỗn xược. Một số có thái độ vô cảm với nỗi đau của người khác. Những học sinh có thói quen giải quyết mối bất hoà bằng bạo lực thường là những học sinh từng bị bạo lực hoặc những học sinh này bất lực trong việc tìm giải pháp cho các vấn đề của mình hoặc bản thân những học sinh này là người thiếu hụt tình yêu thương, sự tôn trọng, tính khiêm tốn… Hiện nay, việc sử dụng điện thoại di động, mạng xã hội là một nguyên nhân lớn dẫn đến các mối bất hoà của học sinh. Vì vây, ngay tử đầu năm tôi quy định rõ ràng về việc sử dụng điện thoại, trong bảng theo dõi thi đua ghi rõ hệ quả của việc gây xich mích, chia bè phái, sử dụng điện thoại không đúng quy định. Việc gần gũi, lắng nghe, quan tâm đến từng học sinh sẽ phát hiện kịp thời những xích mích, những mâu thuẫn của học sinh để ngăn chặn kịp thời bạo lực xảy ra. Việc phối hợp liên tục với các lực lượng giáo dục khác nhất là bảo vệ, giám thị cũng giúp phát hiện sớm những mầm mống của xung đột từ đó có biện pháp thích hợp giúp các em tháo gỡ những mâu thuẫn, những bất hoà. Tôi luôn lựa chọn phương pháp giúp học sinh giải toả tâm lý chứ không dồn nén vì càng dồn nén cảm xúc càng làm cho học sinh tăng những hành vi chống đối, càng làm cho các mối bất hoà thêm căng thẳng. Luôn phối hợp với gia đình học sinh xây dựng bầu không khí tích cực trong lớp học và trong gia đình để học sinh luôn cảm thấy: được yêu thương, được tôn trọng, được hiểu, được an toàn .Từ đó sẽ giúp học sinh tự lựa chọn những giải pháp tích cực để giải quyết bất hoà. Đó là biện pháp hàng đầu nhằm ngăn chặn tận gốc nạn BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG. 7. Dạy học giá trị sống: “Giá trị sống - nền tảng của kỹ năng sống” “Ngày nay, với quan điểm phải giáo dục cho các thế hệ học sinh cả kỹ năng sống (tài) và giá trị sống (đức), chúng ta mới nhận thức rõ ràng hơn mối quan hệ giữa tài và đức, trong đó cái đức được đề cao”. Dạy học sinh về Giá trị sống chính là dạy học sinh cái lễ nghĩa ở đời. - Học tập Giá trị sống giúp các em khám phá và hoàn thiện những phẩm chất tốt đẹp vốn có của bản thân, đồng thời khám phá những nét đẹp trong tính cách của những người xung quanh và giá trị của thiên nhiên, của môi trường sống; 20/29
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2