intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn luyện kỹ năng giải bài toán bằng cách lập phương trình cho học sinh lớp 8

Chia sẻ: Khánh Thành | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:14

56
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là rèn luyện kỹ năng giải bài toán bằng cách lập phương trình giúp học sinh có kỹ năng thực hành giải toán tương đối thành thục khi gặp bài toán đòi hỏi giải bằng cách lập phương trình. Một giải pháp không kém phần qua trọng và có tính chất mới đó là giáo viên phải rèn luyện cho học sinh có kỹ năng và thói quen phân tích bài toán bằng bảng phân tích, lời giải phải đảm bảo tính thứ tự, có tính kế thừa giữa các bước. Khi đã hình thành cho học sinh thành thạo kỹ năng này thì việc giải bài toán bằng cách lập phương trình trở nên dễ dàng hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn luyện kỹ năng giải bài toán bằng cách lập phương trình cho học sinh lớp 8

  1. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TOÁN BẰNG CÁCH LẬP PHƯƠNG TRÌNH CHO HỌC SINH LỚP 8 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là “Tích cực hóa hoạt   động của học sinh, khơi dậy và phát triển khả năng tự học nhằng hình thành   tư duy tích cực, độc lập, sáng tạo; Nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết  vấn đề; Rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; Tác động đến   tình cảm, đem lại niềm tin, hứng thú học tập cho học sinh”. Bắt nguồn từ  định hướng đó giáo viên cần phải học hỏi nghiên cứu, tìm tòi và áp dụng   những phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh,  từng kiểu bài làm cho hiệu quả giờ học đạt cao nhất. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy và tìm hiểu thực tiễn tại trường   THCS tôi nhận thấy các em học sinh lớp 8 gặp rất nhiều khó khăn khi giải dạng  toán bằng cách lập phương trình mặc dù các em đã nắm được quy tắc chung (các  bước giải). Có nhiều em nắm được rất rõ các bước giải nhưng lại không biết vận  dụng vào giải bài tập vì các em không biết xuất phát từ  đâu để  tìm lời giải hoặc  không biết tìm sự liên quan giữa các đại lượng để lập phương trình. Điều đó nảy  sinh trong tôi những trăn trở là làm thế nào để nâng cao chất lượng bộ môn?  Có biện pháp gì để  học sinh vận dụng tốt lý thuyết đã học vào giải toán?… Với mong muốn tìm ra những đáp án đó, đã thúc đẩy tôi chọn và nghiên cứu   sáng kiến kinh nghiệm “Rèn luyện kỹ năng giải bài toán bằng cách lập phương  trình cho học sinh lớp 8”.  1.2. Điểm mới của đề tài     Nội dung đề tài đã có nhiều người quan tâm, nghiên cứu, đề xuất những giải   pháp tốt. Song thực tế giảng dạy  ở mỗi địa bàn giáo dục lại khác nhau nên tôi tiếp  tục nghiên cứu, tìm tòi, bổ sung, cải tiến vận dụng các giải pháp rèn luyện kỹ năng  giải bài toán bằng cách lập phương trình cho đối tượng học sinh lớp 8 mà tôi giảng  dạy trên địa bàn. Với sáng kiến này có những điểm mới nhất định đó là: ­Rèn luyện kỹ  năng giải bài toán bằng cách lập phương trình giúp học sinh  có kỹ năng thực hành giải toán tương đối thành thục khi gặp bài toán đòi hỏi giải   bằng cách lập phương trình. ­Một giải pháp không kém phần qua trọng và có tính chất mới đó là giáo viên  phải rèn luyện cho học sinh có kỹ  năng và thói quen phân tích bài toán bằng bảng   phân tích, lời giải phải đảm bảo tính thứ tự, có tính kế thừa giữa các bước. Khi đã   hình thành cho học sinh thành thạo kỹ năng này thì việc giải bài toán bằng cách lập  phương trình trở nên dễ dàng hơn. Trang1
  2. 1.3. Phạm vi áp dụng của đề tài Đề tài có thể áp dụng cho tất cả các đối tượng học sinh lớp 8 trường THCS nơi tôi công  tác. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trạng trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài 2.1.1.Kết quả giảng dạy của bản thân trước khi áp dụng đề tài Trong năm học 2018­2019, sau khi học sinh khối 8 tham gia làm bài kiểm tra   chương III tôi đã thống kê về  kết quả  chất lượng làm bài của các học sinh câu 3  phần giải bài toán bằng cách lập phương trình (1,5 điểm) như sau: Tổng số  Số HS Số HS Số HS học sinh không làm được làm được từ 0,5 ­>1  làm được  từ 1­>1,5 điểm điểm SL % SL  % SL % 96 60 62,5 26 27,1 10 10,4 Qua bảng trên cho thấy số lượng học sinh không làm được dạng toán này rất  cao, thậm chí không làm được bước 1 (chọn ẩn, đặt điều kiện cho ẩn) 2.1.2. Thực trạng trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài Qua nhiều năm giảng dạy môn Toán  ở  trường THCS,  tham gia vào các  hoạt động chuyên môn như  dự  giờ  đồng nghiệp, sinh hoạt chuyên môn, kiểm tra  đánh giá giờ học …. Tôi thấy thực trạng của vấn đề như sau: a. Giáo viên:  ­ Nhận thấy được:  + Đây là một dạng toán khó đối với học sinh. + Phần “Giải bài toán bằng cách lập phương trình” là một trong những phần  trọng tâm của chương trình Toán 8 THCS. + Đây là dạng toán vận dụng kiến thức vào thực tế  cuộc sống nếu các em  nắm được thì sẽ tạo hứng thú học tập và yêu thích bộ môn hơn. ­ Trong quá trình dạy: + Hướng dẫn học sinh làm bài tập còn chung chung, chưa cụ  thể, chưa  tường minh, còn có tính áp đặt. + Chưa lưu ý cho học sinh việc đặt điều kiện đối với từng dạng bài toán. b. Tổ chuyên môn: Trang2
  3. ­ Đã tổ chức các buổi thảo luận về cách dạy, cách hướng dẫn học sinh giải   các dạng bài toán bằng cách lập phương trình nhưng chưa đưa nội dung này vào   chuyên đề để thực hiện. ­ Tổ  chức thực tập, thao giảng với các tiết giải bài toán bằng cách lập   phương trình (dạy kiến thức mới, luyện tập) còn ít. ­ Việc rút kinh nghiệm giờ dạy mới chỉ tập trung vào các bước thể hiện của  giáo viên, sự quan tâm đến vấn đề lĩnh hội kiến thức, vận dụng của học sinh chưa   nhiều.  c. Học sinh: ­ Việc giải các bài toán bằng cách lập phương trình đối với học sinh THCS   là một việc làm mới. Đề  bài cho không phải là những phương trình có sẵn mà là   một đoạn văn mô tả  mối quan hệ  giữa các đại lượng, học sinh phải chuyển đổi  được mối quan hệ giữa các đại lượng được mô tả bằng lời văn sang mối quan hệ  toán học. Hơn nữa, nội dung của các bài toán này, hầu hết đều gắn bó với các hoạt   động  thực tế  của con người, xã hội hoặc tự  nhiên,… Do đó trong quá trình giải  học sinh thường quên, không quan tâm đến yếu tố thực tiễn dẫn đến đáp số vô lý.  ­ Kỹ năng phân tích tổng hợp của học sinh còn yếu, khả năng phân tích, khái  quát hóa của các em còn chậm. ­ Trong quá trình làm bài tập học sinh thường mắc những sai sót như: Thiếu  điều kiện hoặc điều kiện chưa cụ  thể, tìm mối liên hệ  giữa các đại lượng trong  bài toán để  lập phương trình còn lúng túng, lập luận thiếu chặt chẽ, giải phương   trình chưa đúng, quên đối chiếu điều kiện, thiếu đơn vị, … dẫn đến các em gặp rất   nhiều khó khăn trong giải loại toán này.  ­ Đối với việc giải bài toán bằng cách lập phương trình các em mới được  học nên chưa quen với việc tự mình làm ra phương trình. Xuất phát từ  thực tế  đó  nên kết quả học tập của các em chưa cao. Nhiều em nắm được lý thuyết rất chắc  chắn nhưng khi áp dụng giải bài tập thì lại không làm được. Do vậy việc hướng   dẫn giúp các em có kỹ  năng lập phương trình để  giải toán thì ngoài việc nắm lý  thuyết các em phải biết vận dụng thực hành, từ  đó phát triển khả  năng tư  duy,   đồng thời tạo hứng thú cho các em khi học nhằm nâng cao chất lượng học tập. ­ Một bộ phận học sinh còn ngại khó, có tính ỷ lại, không làm bài tập hoặc   làm bài tập để đối phó bằng cách mượn vở bạn để chép lại, chép ở sách giải. Từ những lý do trên, bản thân tôi nghĩ rằng việc hướng dẫn học sinh tìm ra  phương pháp giải toán phù hợp với từng dạng bài là một vấn đề quan trọng, chúng  ta phải tích cực quan tâm thường xuyên, không chỉ giúp các em nắm được lý thuyết   mà còn phải tạo ra cho các em có một phương pháp học tập cho bản thân, rèn cho   các em có khả năng thực hành. Nếu làm được điều đó chắc chắn kết quả học tập   của các em sẽ đạt được như mong muốn.      2.2. Các giải pháp cần thực hiện: Trang3
  4. ­ Bản thân trong quá trình giảng dạy đã bám sát chuẩn kiến thức kĩ  năng, nhiệt tình, tích cực đổi mới, cố  gắng tìm tòi, học hỏi để  nâng cao trình độ  chuyên môn, nâng cao hiệu quả giờ học. ­ Khi luyện cho học sinh “Giải bài toán bằng cách lập phương trình”: + Hướng dẫn kĩ cho học sinh từ  việc đọc kĩ bài toán, phân tích, khái quát,  tổng hợp, liên kết các đại lượng với nhau, chuyển đổi các mối quan hệ  toán học   để từ đó các em lập được phương trình và giải. Với từng bài toán hướng học sinh   cách giải đơn giản nhất.  + Đã đưa ra các dạng bài tập khác nhau để  phân loại cho phù hợp với khả  năng nhận thức của từng đối tượng. Các bài tập ở dạng từ thấp đến cao để các em   nhận thức chậm có thể làm tốt những bài toán ở mức độ trung bình, đồng thời kích  thích sự tìm tòi và sáng tạo của những học sinh khá, giỏi. + Dựa trên quy tắc chung là: Yêu cầu giải bài toán, quy tắc giải bài toán  bằng cách lập phương trình, phân loại các bài toán dựa vào sự tham gia của các đại   lượng, làm sáng tỏ  mối quan hệ  giữa các đại lượng từ  đó học sinh tìm ra lời giải   cho bài toán. + Thường xuyên hướng dẫn, sửa chữa chỗ sai cho học sinh, lắng nghe ý kiến  của các em. Lưu ý cho học sinh những sai sót mà các em hay mắc phải khi giải bài   toán bằng cách lập phương trình.  + Cho học sinh ngoài làm việc cá nhân còn phải tham gia trao đổi nhóm khi   cần thiết. Tôi yêu cầu học sinh phải tự giác, tích cực, chủ động, có trách nhiệm khi   tham gia hoạt động. Mặc dù là dạng toán khó, khả  năng nhận thức và suy luận của học sinh  không đồng đều nhưng khi giải bài toán bằng cách lập phương trình tất cả  đều  phải thực hiện theo đúng ba bước. Cụ thể như sau: Bước 1: Lập phương trình: gồm các công việc sau ­ Chọn ẩn số (ghi rõ đơn vị) và đặt điều kiện cho ẩn. ­ Biểu diễn các đại lượng  chưa biết theo ẩn và các đại lượng đã biết. ­ Lập phương trình biểu thị mối quan hệ giữa các đại lượng. Bước 2: Giải phương trình: Tùy từng phương trình mà chọn cách giải cho ngắn gọn và phù hợp.  Bước 3: Trả lời (Kiểm tra xem trong các nghiệm của phương trình, nghiệm  nào thỏa mãn điều kiện của ẩn, nghiệm nào không rồi kết luận). Lưu ý: Trước khi thực hiện bước 1, học sinh cần phải đọc kỹ đề bài, nhận dạng bài toán là dạng toán nào, sau đó tóm tắt đề bài rồi giải. Bước 1 có tính chất quyết   định nhất. Tùy từng dạng toán mà chọn ẩn số cho phù hợp (Thường đầu bài hỏi số  liệu gì thì ta đặt cái đó là  ẩn số). Xác định đơn vị  và điều kiện của  ẩn phải phù  hợp với thực tế cuộc sống. Trang4
  5. Tuy đã có quy tắc trên nhưng người giáo viên trong quá trình hướng dẫn cần  đảm bảo cho học sinh thực hiện theo các yêu cầu sau: 2.2.1. Đọc kỹ  đề  bài, tóm tắt, xác định dạng và lập bảng phân tích bài  toán.  Trước khi giải bài toán bằng cách lập phương trình giáo viên phải yêu cầu  học sinh đọc thật kỹ đề bài, đọc lại đề bài nhiều lần, từng câu, từng chữ trong đề  bài và tóm tắt bài toán  ở  nháp để  nắm được đề  bài đã cho những gì, yêu cầu tìm   những gì.  Bước tiếp theo là phải xác định được bài toán thuộc dạng nào (chuyển động,  năng suất, cấu tạo số…) , tìm mối liên hệ  giữa các đại lượng từ  đó giúp học sinh  hiểu kỹ đề  toán và trong quá trình giải không có sai sót nhỏ  hoặc không phạm sai   lầm. Việc hiểu kỹ  nội dung đề  bài là tiền đề  quan trọng trong việc giải bài tập   toán. Nó giúp học sinh rất nhiều trong việc chọn  ẩn, đặt điều kiện của  ẩn, suy   luận, lập luận logic, kỹ năng tính toán, …  Đặc biệt trong các dạng toán về  chuyển động, năng suất… Giáo viên phải   rèn cho học sinh thói quen lập bảng phân tích bài toán, đặt điều kiện cho ẩn và đối   chiếu với điều kiện của  ẩn cho thích hợp để  tránh việc sai sót khi kết luận bài  toán. Ví dụ: Một ca nô xuôi dòng từ bến A đến bến B mất 4 giờ và ngược dòng từ   bến B về  bến A mất 5 giờ. Tính khoảng cách giữa hai bến A và B, biết rằng vận   tốc của dòng nước là 2km/h. (Bài tập 54 SGK Toán 8 tập 2 ­ trang 34) Để  giải được bài toán này giáo viên cần rèn luyện cho học sinh các bước  sau: *Bước 1: Tóm tắt: Cần trả lời được :  Bài toán cho biết gì? ( Biết: vận tốc xuôi dòng, vận tốc ngược dòng,   vận tốc dòng nước) Bài toán cần tìm gì? (Tìm: Khoảng cách giữa hai bến A và B) *Bước 2: Xác định dạng của bài toán ( dạng toán chuyển động)                Các đại lượng của toán chuyển động? (Vận tốc, thời gian, quãng đường)                Mối liên hệ giữa các đại lương? ( quãng đường = vận tốc x thời gian) Đối với dạng toán chuyển động xuôi dòng, ngược dòng cần lưu ý cho học sinh:     + Vận tốc xuôi dòng của ca nô = vận tốc thực của ca nô + vận tốc dòng nước     +Vận tốc ngược dòng của ca nô = vận tốc thực của ca nô ­ vận tốc dòng nước     +Quãng đường AB = Quãng đường BA.      +Thông thường các bài toán chuyển động xuôi dòng, ngược dòng ta nên chọn ẩn  là vận tốc của ca nô khi dòng nước đứng yên.      +Vận tốc ca nô phải lớn hơn vận tốc dòng nước. *Bước 3: Lập bảng phân tích: (Gọi vận tốc ca nô khi dòng nước đứng yên là x(km/h, x > 2) Trang5
  6. Thời gian (h) Vận tốc (km/h) Quãng đường AB Xuôi dòng 4 x + 2 4.(x + 2) Ngược dòng 5 x ­ 2 5.(x – 2) *Bước 4: Tìm mối liên hệ để lập phương trình         Vì quãng đường AB = quãng đường BA nên ta có phương trình                              5.(x + 2) = 4.(x ­2) Giải: Gọi vận tốc ca nô khi dòng nước đứng yên là x (km/h, x>2). Vận tốc ca nô khi xuôi dòng: x +2 (km/h) Quãng đường xuôi dòng AB là: 4.(x + 2) (km) Vận tốc ca nô khi ngược dòng: x ­ 2 (km/h) Quãng đường ngược dòng BA là: 5.(x ­ 2) (km) Theo bài ra ta có phương trình: 5.(x ­ 2) = 4.(x + 2)                                                5x + 10 = 4x – 8                                                 x = 18 (TMĐK) Vậy vận tốc ca nô khi dòng nước đứng yên là 18(km/h) Khoảng cách giữa hai bến A và B là: 4.(18 + 2) = 80(km)  Sau khi tìm ra x = 18, giáo viên lưu ý học sinh đối chiếu với điều kiện ban   đầu của đề bài xem đã thỏa mãn các điều kiện chưa. 2.2.2.Lời giải phải lập luận chặt chẽ, những căn cứ phải cụ thể và  chính xác. Khi giải bài toán bằng cách lập phương trình, giáo viên cần lưu ý học sinh   lập luận phải chặt chẽ, có căn cứ và phải chính xác, khoa học. Vì mỗi câu lập luận   trong bài giải đều liên quan đến ẩn số  và các dữ kiện đã cho trong đề  toán. Do đó  giáo viên cần phải giúp học sinh hiểu được đâu là ẩn số, đâu là các dữ kiện đã cho  trong bài toán, để  từ  đó dựa vào những yếu tố  và các mối liên quan giữa các đại   lượng đã cho và  ẩn số  để  lập luận và lập nên phương trình. Vì thế, trước khi   hướng dẫn học sinh giải bài toán bằng cách lập phương trình, giáo viên nên hướng   dẫn học sinh luyện tập các phương pháp biểu diễn sự  tương quan giữa các đại  lượng bởi một biểu thức chứa ẩn, trong đó ẩn số đại diện cho một đại lượng nào   đó chưa biết. Học sinh có thể sử dụng cách lập bảng (có thể viết ngoài giấy nháp)   để  biểu diễn các đại lượng chưa biết bởi những biểu thức của  ẩn cùng với các  quan hệ của chúng. Ví dụ :   Một xí nghiệp kí hợp đồng dệt một số tấm thảm len trong 20 ngày.   Do cải tiến kĩ thuật, năng suất dệt của xí nghiệp đã tăng 20%. Bởi vậy, chỉ  trong   18 ngày, không những xí nghiệp đã hoàn thành số  thảm cần dệt mà còn dệt thêm   được 24 tấm nữa. Tính số tấm thảm len mà xí nghiệp phải dệt theo hợp đồng. (Bài   tập 45­  SGK toán 8 tập 2 ­ trang 31) Phân tích : Trang6
  7. Từ giả thiết xí nghiệp phải dệt trong 20 ngày thì xong số tấm thảm len theo   hợp đồng (và được xem là xong 1 công việc), ta suy ra trong một ngày xí nghiệp   1 dệt được  20  số tấm thảm len theo hợp đồng. Tương tự, số tấm thảm len đã dệt và  mỗi ngày dệt được theo thực tế. Năng suất của xí nghiệp tăng 20% tức là số thảm  thực tế dệt trong một ngày bằng 120% số thảm dự định dệt trong một ngày. Khi đó nếu gọi: x là số tấm thảm len mà xí nghiệp phải dệt theo hợp đồng  Ta có bảng sau : Số thảm len dệt   Số ngày   Số thảm len dệt trong 1 ngày được dệt Theo hợp đồng x (tấm,  x N* ) 20 x 20 Thực tế x + 24 18 x + 24 18 Phương trình x + 24 x x + 24 6 x = 120% ( = . ) 18 20 18 5 20 Trong ví dụ trên, nếu chọn ẩn số theo cách khác:  Nếu gọi: x là số tấm thảm len một ngày xí nghiệp dệt được theo hợp đồng Ta có bảng sau:  Số thảm len dệt   Số ngày   Số thảm len dệt được được trong 1 ngày dệt Theo hợp đồng x (tấm,  x N ) * 20 20x Thực tế 120%x  18 18.120%x 108 x Phương trình 18.120% x − 20 x = 24 ( − 20 x = 24) 5 Qua đó ta thấy rằng khi chọn  ẩn là “Số thảm len dệt được” thì phương trình   phức tạp hơn so với khi chọn  ẩn là “Số thảm len dệt được trong 1 ngày”. Do đó  khi giải cần chú ý đến việc chọn ẩn. Giải: Gọi x là số tấm thảm len một ngày xí nghiệp dệt được theo hợp đồng (tấm,  x N* ) Thì số tấm thảm len xí nghiệp dự định dệt: 20x (tấm) Số tấm thảm len thực tế đã dệt trong một ngày: 120%x (tấm) Số tấm thảm len thực tế đã dệt: 18.120%x (tấm) Trang7
  8. Vì năng suất xí nghiệp của xí nghiệp tăng nên ngoài số  thảm len phải dệt theo   kế hoạch xí nghiệp còn dệt thêm được 24 tấm, ta có phương trình: 108x 18.120%x − 20x = 24 − 20x = 24 5 108x − 100x = 120 8x = 120 x = 15 (TM ᄃ K ) Vậy số tấm thảm len dự định dệt là 15.20 = 300 (Tấm) 2.2.3.Lời giải phải đầy đủ  về  nội dung, chính xác, không thừa, không  thiếu. Giáo viên khi giảng dạy cho học sinh giải loại toán này cần phải chú ý đến   tính toàn diện của bài giải. Nghĩa là lời giải của bài toán phải đầy đủ, chính xác,  không thừa cũng không thiếu. Phải làm sao sử dụng hết tất cả các dữ kiện của đề  bài, không bỏ sót một dữ kiện, một chi tiết nào dù là nhỏ, khi đã sử dụng hết tất cả  các dữ  kiện của bài toán, lập được phương trình, giải tìm được kết quả  thì cuối   cùng các em phải chú ý đối chiếu kết quả  với điều kiện của  ẩn hoặc có thể  thử  lại kết quả  để  trả  lời, kết luận bài toán cho chính xác. Có như  vậy mới thể  hiện   được tính đầy đủ và toàn diện nhất. Ví dụ :   Một người lái ô tô dự  định đi từ  A đến B với vận tốc 48km/h. Nhưng sau khi đi   được một giờ với vận tốc ấy, ô tô bị tàu hỏa chắn đường trong 10 phút. Do đó, để   kịp đến B đúng thời gian đã định, người đó phải tăng vận tốc thêm 6km/h. Tính độ   dài quãng đường AB. (Bài tập 46 SGK Toán 8 tập 2­  trang 31) Hướng dẫn giải: (GV vẽ sơ đồ minh họa) Gọi độ dài của quãng đường AB là x (km, x > 48)        Ta có bảng sau : Thời gian   Vận tốc (km/h) Quãng đường (km) (giờ) x Dự định 48 x 48 Thực tế Một giờ đầu   48 48 1 (Đoạn AC) Trang8
  9. 1 Bị Tàu chắn 0 0 6 Đoạn còn lại   x − 48 48 + 6 = 54 x ­ 48 (Đoạn CB) 54 1 Giải:  Lưu ý học sinh: Đổi 10 phút =   giờ 6 Gọi độ dài của quãng đường AB là x (km, x > 48)  x Thời gian dự định là   (h) 48 Đoạn đường đi trong 1 giờ: 48 (km) Vận tốc sau khi tăng là 54 (km/h) Đoạn đường còn lại là: x ­ 48 (km) x − 48 Thời gian còn lại:   (h)  54 1 x − 48 x 1+ + = 6 54 48 Theo bài ra ta có phương trình:  432 + 72 + 8( x − 48) = 9x 504 + 8x − 384 = 9x x = 120(Th� am� n �K) Vậy quảng đương AB dài 120 km 2.2.4. Lời giải bài toán không phức tạp. Trong quá trình tìm lời giải cho bài toán, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm   cách giải nào đơn giản nhất, phương trình lập được phải dễ  nhất khi giải. Như  vậy khi giải bài toán bằng cách lập phương trình phải đảm bảo được các yêu cầu  không có sai sót mặc dù nhỏ; có lập luận chặt chẽ, những căn cứ phải cụ thể, đầy  đủ, chính xác và phù hợp kiến thức, trình độ của học sinh, đại đa số học sinh hiểu   và làm được  Ví dụ 4: Năm nay, tuổi mẹ gấp 3 lần tuổi Phương. Phương tính rằng 13 năm   nữa thì tuổi mẹ  chỉ  còn gấp 2 lần tuổi Phương thôi. Hỏi năm nay Phương bao   nhiêu tuổi? (Bài tập 40 SGK Toán 8 tập 2­  trang 31) Hướng dẫn:  Gọi tuổi của Phương năm nay là x (tuổi,  x N * )  Thì tuổi của mẹ Phương: 3x (tuổi) Tuổi Phương 13 năm sau: x + 13 (tuổi) Tuổi mẹ Phương 13 năm sau: 3x + 13 (tuổi) Vì 13 năm nữa tuổi mẹ chỉ còn gấp 2 lần tuổi Phương, nên ta có phương trình:  3x + 13 = 2(x + 13)                                                3x + 13 = 2x + 26                                                x = 13 (Thỏa mãn ĐK) Trang9
  10. Vậy năm nay Phương 13 tuổi Nếu ta giải quyết bài toán theo hướng trên thì lời giải ngắn gọn, phương   trình dễ giải hơn Nhưng nếu ta chọn ẩn số như sau:  Gọi tuổi của mẹ Phương năm nay là x (tuổi,  x N * )  x Thì tuổi của Phương:   (tuổi) 3 x Tuổi Phương 13 năm sau:  + 13  (tuổi) 3 Tuổi mẹ Phương 13 năm sau: x + 13 (tuổi) Vì 13 năm nữa tuổi mẹ chỉ còn gấp 2 lần tuổi Phương, nên ta có phương trình:  x x + 13 = 2(  + 13) 3 Giải phương trình trên và tính được năm nay Phương 13 tuổi. Nhưng nếu ta giải quyết bài toán theo hướng này  thì phương trình lập được   phức tạp hơn, dễ có sai lầm hơn trong quá trình giải. 2.2.5. Lời giải phải đảm bảo tính thứ tự, có tính kế thừa giữa các bước.   Khi giải bài toán bằng cách lập phương trình chúng ta cần lập luận dựa vào  các dữ kiện của đề  bài. Tuy nhiên khi lập luận trình bày lời giải cần phải có thứ  tự, vấn đề  nào cần lập luận trước, vấn đề  nào cần lập luận sau. Giữa các bước   lập luận biểu diễn sự  tương quan giữa các đại lượng phải logic, chặt chẽ  với   nhau, bước sau là sự  kế thừa của bước trước, bước trước nêu ra nhằm chủ  ý cho  bước sau tiếp nối. Không nên diễn giải lung tung, không có trình tự, dài dòng giữa   các bước.  Lưu ý: Trong quá trình dạy học, giáo viên phân loại và hướng dẫn giải các  dạng toán cụ  thể  về  giải bài toán bằng cách lập phương trình (Dạng bài toán về  chuyển động, dạng toán “lao động sản xuất”, dạng toán “công việc”, dạng toán  “liên quan đến hình học”, dạng toán “liên quan đến Hóa học, Vật lí”, …) Trên đây là 5 giải pháp quan trọng khi thực hiện giải bài toán bằng cách lập   phương trình mà giáo viên cần lưu ý cho học sinh. Để học sinh học được tốt, hiểu  được bài, vận dụng được lý thuyết để  giải bài tập thì trước hết giáo viên phải  soạn bài thật tốt, chuẩn bị một hệ thống các câu hỏi phù hợp, một số bài tập trắc   nghiệm, tự  luận đơn giản phù hợp với từng đối tượng học sinh. Phân tích thật rõ   ràng và tỉ mỉ  các ví dụ  trong sách giáo khoa ở  các tiết dạy trên lớp hoặc phân tích   thật kĩ các bài tập mẫu cho học sinh qua các giờ học để làm nền tảng cho học sinh   giải các bài tập khác. Mặt khác giáo viên có thể chia học sinh thành các nhóm nhỏ,  mỗi nhóm có một nhóm trưởng tổ chức thảo luận các bài tập mẫu để  các em học   sinh yếu kém có thể hiểu được bài một cách sâu hơn, giúp các em có thể giải được   một số bài tập tương tự, làm cho các em không chán nản, không ngại khó khi giải  Trang10
  11. bài tập giải bài toán bằng cách lập phương trình. Từ  đó giúp các em có hứng thú  giải những bài tập dạng khó hơn. Do vậy giáo viên cần phải cho học sinh những   bài tập tương tự để các em tự làm và cũng cần phải phân loại rõ ràng cho học sinh   từng dạng toán giải bài toán bằng cách lập phương trình để từ  đó học sinh có thể  chọn ẩn và đặt điều kiện thích hợp cho ẩn.  Với giải pháp đã nêu trên tôi đã vận dụng vào trong quá trình hướng dẫn cho   học sinh giải các bài toán dạng này thì nhận thấy các em đã nắm được quy tắc giải   bài toán bằng cách lập phương trình, phân loại được các dạng toán, làm sáng tỏ  mối quan hệ  giữa các đại lượng dẫn đến lập được phương trình dễ  dàng, từ  đó  việc giải phương trình tìm ra đáp số của bài toán chính xác không gặp phải những  khó khăn và sai lầm, kích thích học sinh lòng say mê tìm hiểu cách giải để  từ  đó   phát huy được khả năng tư duy linh hoạt, nhạy bén khi tìm lời giải bài toán. 2.3. Kết quả đạt được Khảo sát chất lượng học kì II năm học 2018­2019, tôi đã thống kê về kết quả chất   lượng làm bài của các học sinh câu 3 phần giải bài toán bằng cách lập phương  trình (1,5 điểm) như sau: Tổng số  Số HS Số HS Số HS học sinh không làm được làm được từ 0,5 ­>1  làm được  từ 1­>1,5 điểm điểm SL % SL  % SL % 96 20 20,8 28 29,2 48 50 Kết quả trên cho thấy kỹ năng giải bài toán bằng cách lập phương trình của   tất cả các đối tượng học sinh khối 8 đã có bước chuyển biến.  Tuy chưa cao nhưng  tôi hi vọng khi đã có phương pháp tốt cho học sinh thì trong năm học 2019­2020   này điểm số đạt được trong phần giải bài toán bằng cách lập phương trình của các  em sẽ  tăng lên đáng kể  và đặc biệt các em không cảm thấy sợ  khi gặp dạng toán   này nữa. 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của đề tài: Từ thực tế nghiên cứu giảng dạy, tôi nhận thấy việc rèn luyện cho học sinh kỹ  năng giải bài toán bằng cách lập phương trình có ý nghĩa thực tế rất cao. Nó rèn luyện  cho học sinh tư duy logic, khả năng sáng tạo, khả năng diễn đạt chính xác nhiều quan  hệ toán học, … Việc áp dụng các giải pháp trên vào quá trình dạy học bộ môn tôi đã   rút ra một số bài học cơ bản. Một là:  Mỗi giáo viên cần phải thường xuyên tự  học, tự  bồi dưỡng, rèn  luyện để không ngừng trau dồi về kiến thức, kỹ năng dạy học. Trang11
  12. Hai là: Thường xuyên đổi mới về cách soạn, cách giảng, đưa các ứng dụng  công nghệ  thông tin vào dạy học, đa dạng hoá các phương pháp và hình thức tổ  chức dạy học để lôi cuốn được học sinh vào quá trình học tập. Ba là: Cần quan tâm sâu sát đến từng đối tượng học sinh đặc biệt là học sinh   yếu kém, giúp đỡ  ân cần, nhẹ  nhàng tạo niềm tin, hứng thú cho các em vào môn   học. Bốn là: Trong quá trình dạy giáo viên phải hướng dẫn học sinh vào việc phát  huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo. Trong mỗi tiết phải tạo ra được quan hệ giao  lưu đa chiều giữa giáo viên ­ học sinh, giữa cá nhân, tổ chức nhóm.             Nội dung sáng kiến kinh nghiệm trên đã được kiểm nghiệm qua thực tế  giảng dạy tại trường và đem lại kết quả khá khả quan. 3.2. Những kiến nghị, đề xuất: Phòng GD ­ ĐT cần tổ  chức nhiều hơn nữa các buổi sinh hoạt chuyên môn   liên trường, liên cụm đối với bộ  môn về  chuyên đề  “Kỹ  năng giải bài toán bằng   cách lập phương trình” để giáo viên học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Trên đây là toàn bộ  quá trình nhiên cứu về đề  tài “Rèn luyện kỹ năng giải   bài toán bằng cách lập phương trình cho học sinh lớp 8 ” mà bản thân đúc rút  được trong quá trình giảng dạy.  Mặc dù đã có nhiều cố  gắng, song có thể  còn những thiếu sót, tôi rất mong  nhận được sự đóng góp ý kiến của quý cấp trên và đồng nghiệp để sáng kiến kinh  nghiệm của tôi hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Quảng Bình, tháng 4 năm 2020                                                                                  Trang12
  13. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa Toán 8 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2. Sách giáo viên Toán 8 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 3. Chuẩn kiến thức kĩ năng môn Toán của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 4. Phương pháp dạy học môn Toán(NXB Giáo dục). Trang13
  14. MỤC LỤC Mục Trang 1.PHẦN MỞ ĐẦU 1 1.1. Lý do chọn đề tài 1        1.2. Điểm mới của đề tài     1        1.3. Phạm vi áp dụng của đề tài 1 2. PHẦN NỘI DUNG 2 2.1. Thực trạng trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài 2 2.1.1.Kết quả giảng dạy của bản thân trước khi áp dụng đề tài 2 2.1.2. Thực trạng trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài 2 2.2. Các giải pháp cần thực hiện 3 2.2.1. Đọc kỹ đề bài, tóm tắt, xác định dạng  và lập bảng phân tích  4 bài         toán. 2.2.2. Lời giải phải lập luận chặt chẽ, những căn cứ phải cụ  thể  6 và chính xác. 2.2.3.Lời giải phải đầy đủ  về  nội dung, chính xác, không thừa,  7 không thiếu. 2.2.4. Lời giải bài toán không phức tạp. 9 2.2.5. Lời giải phải đảm bảo tính thứ tự, có tính kế thừa giữa các  10 bước.  2.3. Kết quả đạt được 10 3. PHẦN KẾT LUẬN 11          3.1. Ý nghĩa của đề tài 11          3.2. Những kiến nghị, đề xuất 11 Trang14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0