intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Tổ chức, hướng dẫn học sinh khai thác, vận dụng kiến thức hóa học gắn với các hiện tượng thực tế

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

11
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm "Tổ chức, hướng dẫn học sinh khai thác, vận dụng kiến thức hóa học gắn với các hiện tượng thực tế" nghiên cứu về phương pháp dạy học Hóa học, về các hiện tượng thực tế liên quan đến các kiến thức hóa học để có cơ sở tư duy sáng tạo, áp dụng linh hoạt, đổi mới phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh của mình, giúp học sinh thêm hiểu, thêm yêu thích hóa học, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới của ngành.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Tổ chức, hướng dẫn học sinh khai thác, vận dụng kiến thức hóa học gắn với các hiện tượng thực tế

  1. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN: HÓA HỌC Tên sáng kiến: Tổ chức, hướng dẫn học sinh khai thác, vận dụng kiến thức hóa học gắn với các hiện tượng thực tế.
  2. A-ĐẶT VẤN ĐỀ: I- CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ: 1- Cơ sở lý luận: 1.1- Ở nước ta, trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế đã đề ra những yêu cầu đổi mới đối với giáo dục nước nhà: 1.1.1- Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã khẳng định: “ Phải đổi mới toàn diện GDĐT, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Những biện pháp cụ thể là: đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy học theo hướng phát huy trí sáng tạo, khả năng vận dụng, thực hành của người học”. 1.1.2- Định hướng trên đã được pháp chế hóa trong Luật giáo dục: “ Phương pháp GDPT phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Như vậy, định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được khẳng định. Cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS là: “giúp học sinh hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động”. Muốn đổi mới giáo dục thì phải đổi mới cách dạy và cách học, người giáo viên cần coi trọng việc hình thành và phát triển tiềm lực trí tuệ cho học sinh, đặc biệt là năng lực tư duy, năng lực hành động. Cần tạo điều kiện cho học sinh có ý thức và biết vận dụng tổng hợp kiến thức vào cuộc sống thực tiễn, đồng thời chú ý rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo; chú ý các thao tác tư duy cơ bản như phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá…. Muốn đổi mới phương pháp dạy học phải chống thói quen áp đặt, truyền thụ kiến thức theo một chiều mà phải tạo cơ hội cho học sinh phát hiện kiến thức và tiếp cận kiến thức để giải quyết vấn đề một cách linh hoạt và sáng tạo. 1.2- Đã nhiều năm bản thân tôi được nhà trường phân công giảng dạy môn Hóa học, tôi nhận thấy: 1.2.1- Môn Hóa học ở trường phổ thông trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản về cấu tạo chất, phân loại chất, tính chất của chất, ứng dụng và điều chế chất. Việc nắm vững kiến thức Hóa học cơ bản góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở bậc phổ thông, chuẩn bị cho học sinh tham gia các hoạt động sản xuất và các hoạt động khác sau này. 1.2.2- Bộ môn Hóa học nằm trong hệ thống khoa học tự nhiên. Ngoài hệ thống kiến thức lý thuyết, hệ thống bài tập, thí nghiệm hóa học đa dạng còn có các hiện tượng
  3. thực tế phong phú. Trong quá trình dạy học, việc dạy các kiến thức Hóa học gắn với các hiện tượng thực tế góp phần quan trọng trong việc tạo hứng thú học tập đồng thời chống lại cách học thụ động của học sinh. 2. Cơ sở thực tiễn: Với bộ môn hóa học, tính thực nghiệm được gắn liền với các bài giảng hàng ngày, việc định hướng đổi mới phương pháp dạy học hóa học cũng có sự khác biệt nhiều so với các môn học khác. Ngoài các phương pháp dạy học tích cực được sử dụng thường xuyên như: thảo luận nhóm, nêu vấn đề... Nhằm nâng cao khả năng tiếp thu, tính chủ động, sáng tạo trong học tập bộ môn Hóa học của học sinh thì việc gắn các kiến thức thực tế của bộ môn vào giảng dạy Hóa học ở các trường THCS hiện nay rất cần được chú trọng. Đối với môn Hóa học: các khái niệm, định luật hóa học nhiều khi rất trừu tượng, khó hiểu, làm học sinh khó tiếp thu, dễ chán học, đặc biệt với các học sinh tư duy chậm sẽ dễ sợ học bộ môn Hóa học. Xuất phát từ những thực tế đó và với kinh nghiệm trong giảng dạy bộ môn Hóa học, tôi nhận thấy để nâng cao hứng thú học bộ môn của học sinh, người giáo viên ngoài phát huy tốt các phương pháp dạy học tích cực cần khai thác thêm các hiện tượng hóa học thực tiễn trong đời sống để đưa vào bài giảng bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh. Từ những lý do đó, với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc tìm tòi phương pháp dạy học thích hợp, nhằm phát triển tư duy sáng tạo của học sinh ở bậc THCS, giúp các em tự lực hoạt động tìm tòi chiếm lĩnh tri thức. Nên tôi đã chọn đề tài: “ tổ chức, hướng dẫn học sinh khai thác, vận dụng kiến thức hóa học gắn với các hiện tượng thực tế” II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: 1- Từ yêu cầu thực tế: Nhận thức được yêu cầu cấp bách của ngành trong đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học Hóa học nói riêng. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình là phải không ngừng học tập nâng cao kiến thức, tích lũy kinh nghiệm, tích cực sáng tạo đổi mới phương pháp để nâng cao hiệu quả công tác giảng dạy phù hợp với yêu cầu đổi mới của thời đại, của ngành. Do vậy, tôi đã: * Tham gia học lớp Hóa – trường Đại học KHTN – ĐHQGHN( khóa 2003-2008) để nâng cao kiến thức chuyên môn. * Tham gia các lớp học Tin học để nâng cao hiểu biết, kĩ thuật soạn và thiết kế bài giảng bằng cách sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy Hóa học giúp cho
  4. mỗi giờ học trở nên sinh động, trực quan, thu hút học sinh, giúp học sinh tiếp thu bài tốt hơn, nhất là trong thời điểm hiện nay khi mà phần lớn thời gian học sinh phải học tập dưới hình thức trực tuyến. * Tham gia đầy đủ, tích cực các chuyên đề do phòng giáo dục, do trường, do tổ chuyên môn tổ chức để học hỏi, tích lũy kinh nghiệm giảng dạy bộ môn. * Tích cực dự giờ đồng nghiệp trong nhóm, trong tổ chuyên môn trong và ngoài nhà trường để tích lũy thêm kinh nghiệm giảng dạy. * Đặc biệt tôi đã tiến hành nghiên cứu các tài liệu bồi dưỡng chuyên môn, chương trình thay sách giáo khoa THCS, truy cập thông tin trên mạng Internet... về phương pháp dạy học Hóa học, về các hiện tượng thực tế liên quan đến các kiến thức hóa học để có cơ sở tư duy sáng tạo, áp dụng linh hoạt, đổi mới phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh của mình, giúp học sinh thêm hiểu, thêm yêu thích hóa học, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới của ngành. 2- Từ thực tế của học sinh: * Trong điều kiện phát triển của các phương tiện truyền thông, trong bối cảnh hội nhập, mở rộng giao lưu, học sinh được tiếp cận nhiều nguồn thông tin đa dạng, phong phú từ nhiều lĩnh vực của cuộc sống, có hiểu biết nhiều hơn, linh hoạt và thực tế hơn so với các thế hệ cùng lứa tuổi trước đây, đặc biệt là học sinh trung học. * Trong học tập, các em không thỏa mãn với vai trò là người tiếp thu thụ động, không chỉ chấp nhận những giải pháp đã có sẵn mà nảy sinh nhu cầu lĩnh hội tri thức độc lập, mở rộng và phát triển kỹ năng vận dụng. Các em muốn được làm việc nhiều hơn, hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, nhất là việc vận dụng kiến thức được học để giải thích, áp dụng vào thực tế đời sống. Đặc biệt trong bối cảnh hầu hết học sinh phải học trực tuyến như hiện nay thì nhu cầu được học tập gắn với thực tế cuộc sống ngày càng trở nên cấp thiết hơn nữa. 3- Từ kinh nghiệm của bản thân: Với kinh nghiệm giảng dạy đã có và sự nỗ lực tìm tòi sáng tạo của bản thân, tôi nhận thấy: * Đối với học sinh THCS, các em chưa có nhiều định hướng nghề nghiệp cho tương lai nên ý thức học tập các bộ môn chưa cao. Người giáo viên dạy hóa học phải biết nắm tâm lý và đặc điểm lứa tuổi của học sinh, trong đó phương pháp dạy học bằng cách khai thác các hiện tượng hóa học thực tiễn trong tự nhiên và trong đời sống hàng ngày để các em thấy môn hóa học rất gần gũi với các em. * Trong hệ thống các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh thì phương pháp “ tổ chức, hướng dẫn học sinh khai thác, vận
  5. dụng kiến thức hóa học gắn với các hiện tượng thực tế” rất phù hợp với yêu cầu đổi mới, phù hợp với dạy Hóa học nói chung và Hóa học THCS nói riêng. * Việc “ tổ chức, hướng dẫn học sinh khai thác, vận dụng kiến thức hóa học gắn với các hiện tượng thực tế” giúp học sinh được làm việc nhiều hơn, hoạt động nhiều hơn, từ đó độc lập tư duy, phát triển kỹ năng, nâng cao hứng thú học tập bộ môn và hiểu sâu sắc kiến thức. * Tôi đã áp dụng phương pháp này vào giảng dạy từ những năm học trước, nhất là từ khi việc dạy học bị ảnh hưởng của dịch covid-19 mà phải dạy và học trực tuyến gần như hầu hết thời gian, do đó đã đạt được những kết quả nhất định, giúp học sinh hứng thú với môn học, ham học hơn và tự tin hơn khi tham gia học môn học. Trên đây là những lí do cơ bản nhất để tôi thực hiện đề tài này với mong muốn góp thêm một kinh nghiệm trong việc tìm ra cách thức hiệu quả, phù hợp để giảng dạy theo đúng đặc trưng bộ môn đồng thời phát huy tính tích cực của học sinh, góp phần: - Nâng cao hiệu quả dạy - học của giáo viên và học sinh, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. - Định hướng và phát huy hoạt động tích cực của học sinh theo hướng tích hợp, chủ động và vận dụng vào thực tế cuộc sống. - Rèn kỹ năng làm việc độc lập, sáng tạo, linh hoạt, khoa học cho học sinh. - Giúp học sinh thêm hiểu, thêm yêu thích môn học, có niềm tin khoa học đối với môn học, tin vào khả năng nhận thức của con người vào Hóa học... III- ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ ÁP DỤNG: 1- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài được thực hiện nghiên cứu tại các lớp 9A, 9B, 9C trường THCS Liên Trung năm học 2019 -2020 và năm học năm 2020-2021. 2- Phạm vi nghiên cứu và áp dụng: Đề tài được nghiên cứu và áp dụng ở hầu hết bài dạy hóa học trong chương trình hóa học THCS, áp dụng ở trường THCS Liên Trung – Đan Phượng – Hà Nội. B- QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN I- KHẢO SÁT THỰC TẾ: 1- Tình hình thực tế trước khi thực hiện đề tài: Qua thực tế giảng dạy của các năm học trước, để hiểu rõ thực trạng của học sinh đồng thời để giúp quá trình dạy học đạt hiệu quả cao hơn, trước khi thực hiện đề tài tôi đã thực hiện khảo sát thực tế đầu năm đối với học sinh khối lớp 9 ở hai năm học gần đây: năm học 2019 – 2020 và năm học 2020 – 2021. Qua khảo sát tôi thấy: * Ưu điểm:
  6. - Đa số các em nắm được các kiến thức, kỹ năng cơ bản được giới thiệu trong chương trình. - Nhiều em vận dụng được kiến thức được học để trả lời các câu hỏi định tính và giải bài tập định lượng cơ bản trong chương trình. Song, hầu hết các em còn bộc lộ nhiều nhược điểm cần được khắc phục sau đây: * Nhược điểm: - Nhiều học sinh mới chỉ tiếp thu kiến thức ở mức độ thụ động theo sự truyền đạt của giáo viên hoặc khai thác thông tin được giới thiệu trong sách giáo khoa. - Hầu hết các em nắm kiến thức rời rạc, dễ quên. Đa số các e chưa biết cách tổng hợp kiến thức, chưa hiểu sâu sắc kiến thức, thường lung túng khi gặp các bài tập ở mức độ vận dụng, nhất là bài tập có tính chất liên môn hay liên hệ thực tế. Nghĩa là – Đặc biệt là sự hứng thú, say mê, ham thích tìm hiểu khoa học nói chung và khoa học hóa học nói riêng còn chưa cao. Chính những tồn tại trên dẫn đến kết quả kiểm tra khảo sát các kiến thức hóa học ở mức độ vận dụng hay kiến thức liên quan đến ứng dụng thực tế của học sinh còn chưa cao. 2- Số liệu điều tra trước khi thực hiện đề tài: Cứ sau mỗi chủ đề kiến thức trong nửa đầu học kì I ở mỗi năm học( năm học 2019 – 2020 và năm học 2020 – 2021) tôi tiến hành điều tra khảo sát về khả năng ghi nhớ, thông hiểu và vận dụng kiến thức hóa học, mức độ yêu thích môn học của học sinh, kết quả như sau: * Năm học 2019-2020: Lớp Tổng số HS Khả năng ghi nhớ, thông hiểu, vận dụng kiến thức hóa học tham gia Tốt Khá Trung bình Yếu khảo sát SL % SL % SL % SL % 9A 38 6 15 13 34 14 37 5 14 9B 36 4 11 10 27 14 39 8 23 9C 35 4 11 8 23 14 39 10 27 * Năm học 2020-2021: Lớp Tổng số HS Khả năng ghi nhớ, thông hiểu, vận dụng kiến thức hóa học tham gia Tốt Khá Trung bình Yếu khảo sát SL % SL % SL % SL % 9A 40 10 25 15 37 10 25 5 13 9B 38 8 21 12 32 10 26 8 21
  7. 9C 40 8 20 10 25 12 30 10 25 Về hứng thú, say mê khi tham gia học bộ môn và vận dụng kiến thức, liên hệ thực tế ở mỗi chủ đề: * Năm học 2019-2020: Lớp Tổng số HS Số HS yêu Số HS có thái Số HS không Số HS sợ tham gia thích môn học độ bình thích môn học học môn học khảo sát thường với môn học SL % SL % SL % SL % 9A 38 8 21 12 32 14 37 4 10 9B 36 5 14 12 33 14 39 5 14 9C 35 4 11 8 23 17 49 6 17 * Năm học 2020-2021: Lớp Tổng số HS Số HS yêu Số HS có thái Số HS không Số HS sợ tham gia thích môn học độ bình thích môn học học môn học khảo sát thường với môn học SL % SL % SL % SL % 9A 40 12 30 15 37 10 25 3 8 9B 38 8 21 12 32 14 37 4 10 9C 40 8 20 12 30 15 38 5 12 Qua khảo sát tôi thấy: - Tỷ lệ số học sinh có khả năng ghi nhớ, thông hiểu và vận dụng kiến thức hóa học ở mức độ trung bình và yếu còn cao. - Số học sinh chưa yêu thích môn học còn nhiều, thậm chí một số em còn sợ học môn Hóa học. Nếu không chú trọng rèn luyện khả năng tự lực học tập cho học sinh thì kiến thức học sinh tiếp thu rất hời hợt; Độ bền và nhớ kiến thức không lâu. Năng lực tư duy của học sinh còn yếu, khả năng vận dụng kiến thức bộ môn vào giải thích các hiện tượng hóa học trong tự nhiên còn hạn chế. Trước tình hình đó tôi thấy mình cần phải vận dụng, tìm tòi, sáng tạo từ những kinh nghiệm đã có để đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học và vận dụng kiến thức hóa học của học sinh. Biện pháp chủ yếu tôi xác định để giúp học sinh tự
  8. tin khi học hóa học là: “ tổ chức, hướng dẫn học sinh khai thác, vận dụng kiến thức hóa học gắn với các hiện tượng thực tế”. II- CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: 1- Các biện pháp kĩ thuật vận dụng khi nghiên cứu đề tài: Trong đề tài, tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: phân tích lý thuyết, điều tra cơ bản, tổng kết kinh nghiệm sư phạm và sử dụng một số phương pháp thống kê toán học trong việc phân tích kết quả thực nghiệm sư phạm … Phương pháp trao đổi kinh nghiệm: tiến hành trao đổi, học hỏi từ đồng nghiệp, các tích lũy qua việc dự giờ đồng nghiệp. Sưu tầm, liệt kê các hiện tượng hóa học thực tiễn áp dụng cho một số bài dạy cụ thể ở chương trình hóa học trung học cơ sở và lồng ghép giảng dạy cho lớp 9A, 9B, 9C trong các giờ học. Lấy điểm bài kiểm tra giữa học kì I của năm học 2019 - 2020 và bài kiểm tra giữa học kì I của năm học 2020 - 2021 làm bài kiểm tra đánh giá trước khi áp dụng đề tài, lấy điểm bài kiểm tra học kì II năm học 2019-2020 và bài kiểm tra học kì II của năm học 2020 - 2021 làm bài kiểm tra đánh giá sau khi kết thúc nội dung nghiên cứu. 2- Những yêu cầu sư phạm khi áp dụng đề tài: Giáo viên cần tổ chức được các hoạt động tự lực học tập cho học sinh theo những hình thức sau: * Tổ chức hướng dẫn học sinh học tập theo hướng tích hợp: Với sự bùng nổ của các thành tựu khoa học trong các lĩnh vực vật lí, sinh học, hóa học thì chương trình đào tạo cũng được phân chia thành các mảng kiến thức tương đối tách rời, với những khái niệm khó nhớ. Xu hướng hiện nay trong dạy học hóa học nói riêng và trong các lĩnh vực khoa học nói chung đang cố gắng trình bày cho học sinh thấy mối quan hệ hữu cơ của các lĩnh vực không những của hóa học với nhau mà còn giữa các lĩnh vực khoa học khác như hóa học, vật lý, sinh học ... Vì vậy, khi dạy các kiến thức hóa học liên quan đến kiến thức vật lí, sinh học hay nhiều hiện tượng thiên nhiên, thầy cô nên sử dụng những câu hỏi mở rộng theo hướng tích hợp để giúp cho học sinh chủ động tìm tòi câu trả lời, đồng thời thấy được sự liên hệ giữa các môn học với nhau. Ví dụ: khi học vật lí ta giải thích hiện tượng: càng lên cao thì không khí càng loãng dựa vào lực hút của trái đất, thì với hóa học các em sẽ hiểu rõ hơn là do khối lượng mol các khí nặng nhẹ khác nhau nên bị hút mạnh yếu khác nhau, khí oxi có khối lượng mol nặng hơn so với khối lượng mol trung bình của không khí nên tập trung chủ yếu ở tầng dưới, tầng trên của không khí chỉ còn lại các khí có khối lượng mol nhỏ như: H2, He...ít khí oxi nên không khí loãng.
  9. Tuy nhiên, để dạy theo cách tích hợp, thầy cô nên chọn những vấn đề quan trọng, mấu chốt nhất của chương trình để giảng dạy, còn phần kiến thức dễ hiểu nên hướng dẫn học sinh về nhà đọc SGK hoặc các tài liệu tham khảo. Ngoài ra, thầy cô cần chọn các hiện tượng thực tiễn phù hợp với nội dung bài đang dạy mới tăng hứng thú, say mê học tập, tìm hiểu bộ môn của học sinh. Nếu thầy cô kết hợp tốt phương pháp dạy học tích hợp sử dụng các hiện tượng thực tiễn, ngoài việc giúp học sinh chủ động, tích cực say mê học tập còn lồng ghép được các nội dung khác nhau như: bảo vệ môi trường, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe con người thông qua các kiến thức thực tiễn đó. Đây cũng là hướng đi mà ngành giáo dục nước nhà đang đẩy mạnh trong các năm gần đây. * Tổ chức hướng dẫn học sinh cách thiết lập sự liên hệ các nội dung học với thực tiễn: Học sinh thấy hứng thú và dễ ghi nhớ bài hơn nếu trong quá trình dạy và học thầy cô luôn có định hướng liên hệ thực tế giữa các kiến thức được giới thiệu trong sách giáo khoa với thực tiễn đời sống hàng ngày. Ví dụ: Vì sao ta để muối ăn thô trong lọ không có nắp dễ bị chảy nước? Giải thích: Muối ăn có thành phần chính là natri clorua ngoài ra còn có một số muối khác như magie clorua (MgCl2). Chính MgCl2 rất ưa nước, nó hấp thụ hơi nước trong không khí và rất dễ tan trong nước nên làm cho muối ăn thô dễ bị chảy nước nếu lọ đựng không có nắp đậy. * Tổ chức hướng dẫn học sinh thông qua các tình huống giả định bằng các hiện tượng thực tiễn: Trong quá trình dạy học, nếu ta chỉ áp dụng một kiểu dạy thì học sinh sẽ nhàm chán. Thầy cô có thể áp dụng nhiều phương pháp dạy học lồng ghép vào nhau, trong đó hình thức giảng dạy bằng cách đưa ra các tình huống giả định kèm vào các phương pháp dạy để học sinh tranh luận vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh vừa tạo được môi trường thoải mái để các em trao đổi, từ đó giúp học sinh thêm yêu thích môn học hơn. Ví dụ: Khi học về axetilen, thầy cô có thể đưa ra tình huống: Vì sao khi ném đất đèn xuống ao sẽ làm cá trong ao chết ? Khi đó học sinh sẽ nhanh chóng trả lời đó là đất đèn có thành phần chính là canxi cacbua CaC2, khi phản ứng với nước sinh ra khí axetilen và canxi hiđroxit: CaC2 + 2H2O C2H2 + Ca(OH)2 Tuy nhiên, nếu hỏi chất nào làm cá chết thì học sinh không dễ giải thích được. Khi đó thầy cô có thể mở rộng kiến thức cho học sinh để giải thích: Axetilen có thể phản ứng với nước tạo ra anđehit axetic, chính chất này làm tổn thương đến hoạt động hô
  10. hấp của cá vì vậy có thể làm cá chết. Tình huống mang tính thách đố như vậy sẽ kích thích học sinh học tập và thi đua nhau tìm câu trả lời. Các em sẽ nhớ kiến thức lâu hơn. III - MỘT SỐ TÌNH HUỐNG ÁP DỤNG CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN TRONG GIỜ DẠY: 1. Đặt tình huống vào bài mới: Giờ dạy có gây sự chú ý của học sinh hay không nhờ vào thầy cô rất nhiều. Trong đó phần mở đầu đặc biệt quan trọng, nếu ta biết đặt ra một tình huống thực tiễn hoặc một tình huống giả định yêu cầu học sinh cùng tìm hiểu, giải thích qua bài học sẽ cuốn hút được sự chú ý của học sinh trong tiết dạy. 2- Lồng ghép tích hợp môi trường trong bài dạy: Vấn đề môi trường: nước, không khí, đất,...đang được con người nhắc đến rất nhiều. Trong cuộc sống hằng ngày, các hiện tượng thường xuyên gặp như: nước thải của một chuồng nuôi gia súc, gia cầm...; khói bụi của các nhà máy, xí nghiệp, của các cánh đồng sau thu hoạch,... có liên quan gì đến những diễn biến bất thường của thời tiết hiện nay không. Thầy cô dạy bộ môn hóa có thể lồng ghép các hiện tượng đó vào phần sản xuất các chất, hay ứng dụng của một số chất... Ngoài việc gây sự chú ý của học sinh trong tiết dạy thầy cô còn giáo dục được ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường cho từng học sinh. Tùy vào thực trạng của từng địa phương mà ta lấy các hiện tượng cho cụ thể và gần gũi với các em. 3- Liên hệ thực tế sau khi hình thành kiến thức mới: Khi học xong vấn đề, học sinh thấy có ứng dụng vào thực tiễn cho cuộc sống thì các em sẽ chú ý hơn, tìm tòi, chủ động tư duy để tìm hiểu, để nhớ hơn. Do đó, trong mỗi bài học, thầy cô đưa ra được một số ứng dụng thực tiễn sẽ lôi cuốn được sự chú ý của học sinh. Thầy cô cũng cần chú ý khi sử dụng các hiện tượng hóa học thực tiễn nên khéo léo trong giải thích vấn đề, vì cấp độ bộ môn hóa ở THCS chưa tìm hiểu sâu cơ chế của quá trình diễn biến hiện tượng. Do đó, thầy cô chú ý lựa chọn cách giải thích phù hợp, nếu học sinh tỏ ra tìm tòi hơn thì chúng ta có thể khích lệ, mở ra hướng giáo dục vai trò quan trọng của bộ môn mà các em sẽ được tìm hiểu ở các cấp học cao hơn. IV- CỤ THỂ VIỆC THỰC HIỆN “TỔ CHỨC HƯỚNG DẪN HỌC SINH KHAI THÁC, VẬN DỤNG KIẾN THỨC HÓA HỌC GẮN VỚI CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TẾ”: 1. Hệ thống các hiện tượng thực tế sử dụng khi dạy về “Các hợp chất vô cơ - Chương 1 – Hóa học lớp 9”:
  11. *Hiện tượng 1: Khi cho vôi sống vào nước, ta thấy khói bốc lên mù mịt, nước vôi như bị sôi lên và nhiệt độ hố vôi rất cao có thể gây nguy hiểm cho tính mạng của người và động vật. Do đó cần tránh xa hố đang tôi vôi hoặc sau khi tôi vôi ít nhất 2 ngày. Giải thích: Vôi sống chính là tên thường gọi của canxi oxit, có CTHH là CaO. Khi tôi vôi đã xảy ra phản ứng: CaO + H2O Ca(OH)2 Phản ứng này tỏa rất nhiều nhiệt nên làm nước trong hố vôi sôi lên và bốc hơi đem theo cả những hạt Ca(OH)2 rất nhỏ tạo thành như khói mù trắng. Vì nhiệt tỏa ra nhiều nên nhiệt độ của hố vôi rất cao. Do đó, người và động vật cần tránh xa hố vôi để tránh rơi xuống hố vôi tôi sẽ gây nguy hiểm đến tánh mạng. Áp dụng: Tôi sử dụng tình huống này để đặt vấn đề vào bài ở Bài 2: Một số oxit quan trọng. *Hiện tượng 2: "Hiện tượng mưa axit" là gì ? Tác hại như thế nào ? Giải thích: Khí thải công nghiệp và khí thải của các động cơ đốt trong (của ô tô, xe máy) có chứa các khí SO2, NO, NO2, Các khí này tác dụng với oxi O2 và hơi nước trong không khí nhờ xúc tác oxit kim loại (có trong khói, bụi của nhà máy hoặc ozon) tạo ra axit sunfuric H2SO4 và axit nitric HNO3. 2SO2 + O2 + 2H2O 2H2SO4 2NO + O2 2NO2 4NO2 + O2 + 2H2O 4HNO3 Axit H2SO4 và HNO3 tan vào nước mưa tạo ra mưa axit. Mở rộng: Hiện nay, mưa axit là nguồn ô nhiễm chính ở một số nơi trên thế giới. Mưa axit làm mùa màng thất thu và phá hủy các công trình xây dựng, các tượng đài làm từ đá cẩm thạch, đá vôi, đá phiến (các loại đá này thành phần chính là CaCO3): CaCO3 + H2SO4 CaSO4 + CO2 + H2O CaCO3 + 2HNO3 Ca(NO3)2 + CO2 + H2O Ngày nay hiện tượng mưa axit và những tác hại của nó đã gây nên những hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là ở những nước công nghiệp phát triển. Vấn đề ô nhiễm môi trường luôn được cả thế giới quan tâm. Việt Nam chúng ta đang rất chú trọng đến vấn đề này. Áp dụng: Tôi cung cấp cho học sinh những hiểu biết về hiện tượng mưa axit cũng như tác hại của nó nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Cụ thể tôi sử dụng tình huống này trong các bài :Không khí – Sự cháy - Hóa học 8; bài: Lưu huỳnh đioxit - Hóa học 9. *Hiện tượng 3: Axit clohiđric có vai trò như thế nào đối với cơ thể ?
  12. Giải thích: Axit clohiđric HCl có vai trò rất quan trọng trong quá trình trao đổi chất của cơ thể. Nó có trong dịch dạ dày của người với nồng độ khoảng 0,0001 đến 0,001 mol/l . Ngoài việc hòa tan các muối khó tan, HCl còn là chất xúc tác cho các phản ứng phân hủy các chất gluxit (chất đường, bột) và chất protein (đạm) thành các chất đơn giản hơn để cơ thể có thể hấp thụ được. Lượng axit HCl trong dịch dạ dày nhỏ hơn hay lớn hơn mức bình thường đều gây bệnh cho người. Mở rộng: Nhu cầu ngày càng cao của con người kéo theo nhu cầu ăn uống ngày càng đa dạng, phong phú. Vấn đề ăn uống ảnh hưởng đến dạ dày ngày càng tăng. Một số thuốc chữa đau dạ dày chứa muối hiđrocacbonat NaHCO 3 (còn gọi là thuốc muối) có tác dụng trung hòa bớt lượng axit trong dạ dày. NaHCO3 + HCl NaCl + CO2 + H2O Áp dụng: Tôi vận dụng tình huống này khi dạy bài : “Tính chất hóa học của axit”. *Hiện tượng 4: Trong bất kì quyển sách hóa học nào cũng ghi câu sau để cảnh báo bạn đọc: " Trong bất kì tình huống nào cũng không được đổ nước vào axit sunfuric đậm đặc, mà chỉ được đổ từ từ axit sunfuric đặc vào nước". Vì sao vậy ? Giải thích: Axit sunfuric có tính háo nước, khi gặp nước thì lập tức sẽ có phản ứng rất mạnh, đồng thời tỏa ra một nhiệt lượng lớn. Mặt khác, axit sunfuric đặc là chất lỏng, sánh giống như dầu, nó nặng hơn nước. Nếu chúng ta cho nước vào axit thì nước sẽ nổi trên bề mặt axit. Khi đó axit và nước phản ứng mạnh mẽ với nhau và tỏa nhiều nhiệt làm cho nước sôi mãnh liệt và bắn tung tóe gây nguy hiểm. Ngược lại khi chúng ta cho axit sunfuric vào nước thì tình hình sẽ khác: axit sunfuric đặc nặng hơn nước, nếu cho từ từ axit vào nước, nó sẽ chìm xuống đáy nước, sau đó phân bố đều trong toàn bộ dung dịch. Như vậy khi có phản ứng thì nhiệt lượng sinh ra sẽ được phân bố đều trong dung dịch và nhiệt độ sẽ tăng từ từ không làm cho nước sôi lên quá nhanh và như vậy sẽ an toàn hơn nhiều. Mở rộng: Một chú ý thêm là khi pha loãng axit sunfuric chúng ta luôn luôn nhớ rằng " phải đổ từ từ " axit vào nước và không nên pha trong các bình thủy tinh. Bởi vì thủy tinh có độ giãn nở vì nhiệt kém sẽ dễ bị vỡ khi nhiệt độ tăng trong quá trình chúng ta pha loãng axit. Áp dụng: Vấn đề an toàn khi làm thí nghiệm được đặt lên hàng đầu trong những tiết dạy có sử dụng hóa chất. Đặc biệt khi tiếp xúc với axit H 2SO4 đặc thì rất nguy hiểm. Do vậy tôi đặt câu hỏi trên cho học sinh trả lời về cách pha loãng axit H 2SO4 khi dạy phần tính chất vật lí của axit sunfuric đặc trong bài : “Axit sunfuric”. *Hiện tượng 5: Vì sao sau khi ăn trái cây không nên đánh răng ngay ? Giải thích: Vì chất chua (tức axit hữu cơ) có trong trái cây sẽ kết hợp với những
  13. thành phần trong kem đánh răng rồi theo bàn chải tấn công vào các kẽ răng và gây tổn thương cho lợi. Bởi vậy chúng ta nên đợi đến khi nước bọt trung hòa hết lượng axit trong trái cây, nhất là táo, cam, nho, chanh thì mới đánh rang thì sẽ an toàn cho răng hơn. Áp dụng: câu hỏi tình huống trên áp dụng để mở rộng tính chất hóa học của axit khi phản ứng với bazơ tạo phản ứng trung hòa bài: “Tính chất hóa học của axit” và bài “Tính chất hóa học của bazơ”. *Hiện tượng 6: Vắt chanh vào nước luộc rau muống thì nước luộc chuyển sang trong suốt. Giải thích: Có một số chất hóa học gọi là chất chỉ thị màu, chúng làm cho màu sắc của dung dịch thay đổi khi nồng độ axit trong dung dịch thay đổi. Trong rau muống (và một số loại rau khác) có chất chỉ thị màu này, còn trong chanh có khoảng 7% axit xitric. Khi ta vắt chanh vào nước luộc rau đã làm thay đổi nồng độ axit của nước luộc, do đó làm thay đổi màu của nước rau. Mở rộng: Khi chưa vắt chanh, nước rau muống màu xanh là do trong rau muống có chứa chất kiềm. Áp dụng: Tình huống trên dùng để mở rộng cho tính chất hóa học của axit khi tác dụng với quỳ tím ở bài: “Tính chất của Axit”. *Hiện tượng 7: Khi bôi vôi tôi vào chỗ bị ong đốt, kiến đốt sẽ đỡ đau hơn. Giải thích: Do trong nọc của ong, kiến(và một số con khác) có axit hữu cơ tên là axit fomic (HCOOH), nó có thể gây bỏng cho da. Vôi tôi là chất bazơ nên khi ta bôi vôi tôi sẽ xảy ra phản ứng trung hòa với axit làm ta đỡ đau. Áp dụng: Tôi sử dụng tình huống này để mở rộng tính chất hóa học của canxi hiđroxit ở bài : “Tính chất hóa học của canxi hiđroxit”. *Hiện tượng 8:Khi quét dung dịch vôi tôi lên tường thì chỉ ít lâu sau vôi khô và cứng lại. Giải thích: Vôi tôi là canxi hiđroxit, là chất tan ít trong nước nên khi cho nước vào tạo dung dịch trắng đục, khi quét lên tường thì Ca(OH) 2 nhanh chóng khô và cứng lại vì xảy ra phản ứng với khí CO2 trong không khí theo phương trình: Ca(OH)2 + CO2 CaCO3 + H2O Do vậy chỉ ít lâu sau vôi sẽ khô và cứng lại. Áp dụng: Tình huống 8 để mở rộng tính chất hóa học của canxi hiđroxit ở Bài : “Tính chất hóa học của canxi hiđroxit”. *Hiện tượng 9: Khi đun nước giếng ở một số vùng, lâu ngày thường thấy xuất hiện lớp cặn cứng ở đáy ấm. Giải thích: Trong tự nhiên, nước ở một số vùng là nước cứng tạm thời( là nước có
  14. chứa các muối axit như: Ca(HCO3)2 và Mg(HCO3)2. Khi đun nước này sẽ xảy ra phản ứng hóa học theo phương trình: Ca(HCO3)2 CaCO3 + CO2 + H2O Mg(HCO3)2 MgCO3 + CO2 + H2O Do CaCO3 và MgCO3 là chất kết tủa nên lâu ngày sẽ đóng cặn. Mở rộng: Để tẩy lớp cặn này thì dùng giấm (dd axit CH3COOH 5%) cho vào ấm đun sôi để nguội khoảng một đêm rồi rửa là sẽ sạch. Áp dụng: Vận dụng tình huống này để mở rộng và liên hệ thực tế về ứng dụng trong bài “axit axetic”. Mục đích là cung cấp cho học sinh một số vấn đề có trong đời sống, từ đó có thể giải thích được bản chất vấn đề nhằm kích thích sự hưng phấn trong học tập. Đây là hiện tượng mà học sinh có thể quan sát và thực hiện được dễ dàng. *Hiện tượng 10: Người ta dùng tro bếp để bón cho cây. Giải thích: Trong tro bếp có chứa muối K2CO3 cung cấp nguyên tố kali cho cây. Áp dụng: Tình huống áp dụng để liên hệ thực tế ở bài: “Phân bón hóa học”. *Hiện tượng 11: Khi đi gần các sông, hồ, ao bẩn vào ngày nắng nóng ta thường ngửi thấy mùi khai. Giải thích: Khi nước sông, hồ bị ô nhiễm bẩn nặng bởi các chất hữu cơ giàu đạm như nước tiểu, phân hữu cơ, rác thải hữu cơ thì lượng urê trong các chất hữu cơ này sinh ra nhiều. Dưới tác dụng của men ureaza của các vi sinh vật, urê bị phân hủy tiếp thành CO2 và amoniac NH3 theo phản ứng: (NH2)2CO + H2O CO2 + 2NH3 Như vậy khi trời nắng (nhiệt độ cao), NH3 sinh ra do phản ứng trên sẽ bay vào không khí làm cho không khí xung quanh có mùi khai khó chịu. Áp dụng: Tình huống dùng để để nêu vấn đề trong bài: “Phân bón hóa học”. *Hiện tượng 12: Ca dao Việt Nam có câu: "Lúa chiêm lấp ló đầu bờ Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên" Mang ý nghĩa hóa học gì ? Giải thích: Câu ca dao có nghĩa là: Khi vụ lúa chiêm đang trổ đòng mà có trận mưa rào kèm theo sấm chớp thì rất tốt và cho năng suất cao. Vì sao vậy ? Do trong không khí có khí nitơ oxit NO và khí oxi. Khi có sấm chớp (tia lửa điện) thì xảy ra phản ứng: 2NO + O2 2NO2 Khí NO2 phản ứng với nước mưa: 4NO2 + O2 + H2O HNO3 HNO3 hòa tan trong đất rồi được trung hòa bởi một số muối tạo ra muối nitrat cung cấp nguyên tố nitơ cho cây.
  15. Mở rộng: Nhờ có sấm chớp ở các cơn mưa giông, mỗi năm trung bình mỗi mẫu đất được cung cấp khoảng 6-7 kg nitơ. Áp dụng: Tình huống áp dụng để khắc sâu kiến thức và liên hệ thực tế ở bài: “Phân bón hóa học” *Hiện tượng 12: Để cải tạo đất ở một số ruộng chua người ta thường bón bột vôi. Giải thích: Thành phần của bột vôi gồm CaO và Ca(OH)2 và một số ít CaCO3. Ở ruộng chua có chứa axit nên sẽ có phản ứng giữa axit với CaO, Ca(OH) 2 và một ít CaCO3 làm giảm tính axit trong đất nên ruộng sẽ hết chua. Áp dụng: Tình huống dùng để khắc sâu kiến thức và vận dụng vào thực tế khi dạy bài: “Phân bón hóa học” hoặc áp dụng vào phần ứng dụng của CaO và Ca(OH) 2 trong bài: “Canxi oxit” và bài “Canxi hidroxit”. 2- Những hiện tượng thực tế sử dụng khi dạy về “ KIM LOẠI – Chương II – Hóa học 9”: *Hiện tượng 1: Dùng kim loại bạc để "đánh gió" khi bị bệnh cảm. Giải thích: Hiện tượng "đánh gió" đã được ông bà ta sử dụng từ rất xa xưa cho đến tận bây giờ để chữa bệnh cảm. Cách làm này rất có cơ sở khoa học mà mọi người cần phải biết: Khi bị bệnh cảm, trong cơ thể con người sẽ tích tụ một lượng khí H 2S tương đối cao. Chính lượng H2S sẽ làm cho cơ thể mệt mỏi. Khi ta dùng Ag để đánh gió thì Ag sẽ tác dụng với khí H2S. Do đó, lượng H2S trong cơ thể giảm và dần sẽ hết bệnh. Miếng Ag sau khi đánh gió sẽ có màu đen xám: 4Ag + 2H2S + O2 2Ag2S + 2H2O Áp dụng: hiện tượng sử dụng để khắc sâu, mở rộng kiến thức và liên hệ thực tế khi dạy về” Tính chất hóa học của kim loại”. *Hiện tượng 2: Nồi nhôm mới mua về sáng như bạc, chỉ cần dùng nấu nước sôi, bên trong nồi nhôm, chổ có nước biến thành màu xám đen. Giải thích: Thực tế trong nước có hòa tan nhiều chất, thường gặp nhất là các muối canxi, magiê và sắt. Loại nước chứa nhiều sắt " là thủ phạm" làm cho nồi nhôm có màu đen vì nhôm có tính kim loại mạnh hơn sắt nên nhôm sẽ đẩy sắt ra khỏi muối của nó và sắt bị đẩy ra sẽ bám vào bề mặt nồi nhôm làm cho nồi nhôm bị đen. Áp dụng: Tình huống áp dụng để giới thiệu vào bài : “Nhôm”. *Hiện tượng 3: Sử dụng đồ dùng bằng nhôm để nấu ăn có ảnh hưởng gì không ? Giải thích: Nhôm là kim loại có hại cho cơ thể, nhất là đối với người già. Bệnh lú lẫn và các bệnh khác của người già, ngoài nguyên nhân do cơ thể bị lão hóa còn có thể do sự đầu độc vô tình của các đồ nấu ăn, đồ dựng bằng nhôm. Tế bào thần kinh trong não người già mắc bệnh não có chứa rất nhiều ion nhôm Al 3+, nếu dùng đồ nhôm trong một thời gian dài sẽ làm tăng cơ hội ion nhôm xâm nhập vào cơ thể gây
  16. nguy hiể đến toàn bộ hệ thống thần kinh não. Mở rộng: Sử dụng đồ nhôm phải biết cách bảo quản, không nên đựng thức ăn bằng đồ nhôm hoặc không nên ăn thức ăn để trong đồ nhôm qua đêm, không nên dùng đồ nhôm để đựng rau trộn trứng gà và giấm Áp dụng: Tình huống dùng để mở rộng về tính chất hóa học trong bài: “Nhôm”. *Hiện tượng 4: Khi đánh phèn chua vào nước thì nước đục lại trở nên trong Giải thích: Công thức hóa học của phèn chua là muối sunfat kép của nhôm và kali ở dạng tinh thể ngậm 24 phân tử nước: K2SO4.Al2(SO4)324H2O. Do khi đánh phèn trong nước, phèn tan ra tạo kết tủa Al(OH)3 dạng keo trắng đã dính kết các hạt đất nhỏ lơ lửng trong nước đục thành các hạt đất to hơn, nặng và chìm xuống làm nước trong. Mở rộng: Phèn chua rất có ích cho việc xử lí nước đục ở các vùng lũ. Vì phèn chua trong và sáng cho nên đông y còn gọi là minh phàn (minh là trong trắng, phàn là phèn). Áp dụng: Tình huống dùng để liên hệ thực tế trong bài : “Nhôm”. *Hiện tượng 5: Đồ dùng bằng sắt thường bị gỉ tạo thành gỉ sắt và dần dần đồ vật không dùng được nữa. Giải thích: Trong không khí có oxi, hơi nước và các chất khác. Do tác dụng nhiệt của ánh nắng mặt trời, hơi nước, oxi và nước mưa (thường hòa tan khí CO 2 tạo môi trường axit yếu) có phản ứng với sắt tạo thành một số hợp chất của sắt, trong đó có Fe2O3, gọi là gỉ sắt. Gỉ sắt không còn tính cứng, ánh kim, tính dẻo của sắt mà xốp, giòn nên làm đồ vật bị hỏng. Mở rộng: Để bảo vệ đồ dùng bằng sắt, người ta thường phủ lên đồ vật bằng sắt một lớp sơn, kim loại khác để ngăn không cho sắt tiếp xúc với nước, oxi không khí và một số chất khác trong môi trường. Áp dụng: Tình huống áp dụng để liên hệ thực tế trong bài: “Sự ăn mòn kim loại”. *Hiện tượng 6: Chảo, dao đều được làm từ hợp kim của sắt.Vì sao chảo lại giòn? Còn dao lại sắc ? Giải thích: Chảo và dao đều được làm từ hợp kim. Chảo được là từ hợp kim “gang”, dao thường được làm từ hợp kim “thép”.Nhưng về hàm lượng các nguyên tố trong gang và thép có sự khác nhau. Gang có tính chất giòn còn thép vừa dẻo vừa dát mỏng được, có thể rèn, cắt gọt nên rất sắc. Áp dụng: Tình huống để giới thiệu bài bài : “ Hợp kim sắt: gang và thép”. 3- Những hiện tượng sử dụng trong những bài giảng về:PHI KIM – Chương III – Hóa học 9: *Hiện tượng 1: Nước máy thường dùng ở các thành phố hay có mùi khí clo.
  17. Giải thích: Trong hệ thống nước máy ở thành phố, người ta cho vào một lượng nhỏ khí clo vào để có tác dụng diệt khuẩn. Một phần khí clo gây mùi và một phần tác dụng với nước: Cl2 + H2O HCl + HClO Axit hipoclorơ HClO sinh ra có tính oxi hóa rất mạnh nên có tác dụng khử trùng, sát khuẩn nước. Phản ứng trên có một lượng nhỏ khí clo sinh ra do phản ứng phân hủy axit( phản ứng ngược lại- phản ứng theo chiều nghịch)do đó khi ta sử dụng nước ta ngửi thấy mùi clo. Áp dụng: cho học sinh suy nghĩ để trả lời trong phần ứng dụng của clo trong bài Clo- Hóa 9. *Hiện tượng 2: Trong thực tế đời sống, các bà nội trợ thường cho thêm một ít muối ăn NaCl trước khi luộc rau muống. Giải thích: Dưới áp suất khí quyển thì nước sôi ở 1000C. Nếu cho thêm một ít muối ăn vào nước thì muối ăn có tác dụng giữ nhiệt làm cho nhiệt độ sôi của nước luộc rau cao hơn 1000C. Khi đó luộc rau sẽ nhanh chín, rau mềm và xanh hơn là luộc bằng nước không. Thời gian rau chín nhanh làm cho rau ít bị mất vitamin. Áp dụng: Tình huống áp dụng để liên hệ thực tế sau khi kết thúc bài : “Muối Natri clorua”. *Hiện tượng 3: Trong thực tế, nếu để than thành đống lớn có thể gây tự bốc cháy. Giải thích: Do than tác dụng với O 2 trong không khí tạo CO2, phản ứng này tỏa nhiệt. Nếu để than thành đống lớn, phản ứng trên diễn ra, tỏa nhiều nhiệt, nhiệt tỏa ra được tích dần đến khi đạt tới nhiệt độ cháy của than thì than sẽ tự bốc cháy. Áp dụng: Tình huống áp dụng để liên hệ thực tế sau dạy ở bài : “Cacbon”. *Hiện tượng 4: Khi cơm bị khê, ông bà ta thường cho vào nồi cơm một mẩu than củi. Giải thích: Do than củi xốp, có thành phần chính là cacbon, mà cacbon có tính hấp phụ nên có thể hấp phụ khí gây mùi khét của cơm khê làm cho cơm đỡ mùi khê. Áp dụng: Tình huống dùng để khắc sâu kiến thức về tính hấp phụ của cacbon liên hệ thực tế trong bài: “Cacbon” *Hiện tượng 5: Khi mở bình nước ngọt có ga ta thấy có nhiều bọt khí thoát ra. Giải thích: Ở các nhà máy sản xuất nước ngọt, người ta dùng áp lực lớn để nén CO2 ép CO2 hòa tan vào nước. Sau đó nạp vào bình và đóng kín lại để tạo bình nước ngọt. Khi mở nắp bình, áp suất bên ngoài thấp làm cho áp suất trong bình giảm nên CO2 lập tức thoát ra khỏi dung dịch nước ngọt dưới dạng các bọt khí và bay vào không khí tạo ga. Mở rộng: Về mùa hè người ta thường thích uống nước ngọt ướp lạnh. Khi ta uống nước ngọt vào dạ dày, trong dạ dày nhiệt độ cao nên CO 2 nhanh chóng theo đường
  18. miệng thoát ra ngoài, khi đó nó mang theo một lượng nhiệt trong cơ thể làm cho người uống có cảm giác mát mẻ, dễ chịu. Ngoài ra, CO2 còn có tác dụng kích thích nhẹ thành dạ dày, tăng cường việc tiết dịch vị, giúp cho việc tiêu hóa thức ăn diễn ra tốt hơn. Tuy nhiên, nếu ta uống quá nhiều nước ngọt có ga thì lượng CO2 này có thể gây triệu chứng đầy hơi hoặc làm tăng lượng axit trong dạ dày gây viêm dạ dày, không tốt cho sức khỏe. Áp dụng: Tình huống áp dụng khi dạy bài : “Axit cacbonic và muối cacbonat”. 4. Những hiện tượng có thể sử dụng trong những bài dạy phần “HÓA HỮU CƠ – Hóa học lớp 9”: *Hiện tượng 1: Vì sao ngày nay không dùng xăng pha chì ? Giải thích: Xăng pha chì có nghĩa là trong xăng có pha thêm một ít Tetraetyl chì (C2H5)4Pb, có tác dụng làm tăng khả năng chịu nén của nhiên liệu dẫn đến tiết kiệm khoảng 30% lượng xăng sử dụng. Nhưng khi cháy trong động cơ thì chì oxit sinh ra sẽ bám vào các ống xả, thành xilanh, nên thực tế còn trộn vào xăng chất 1,2 - đibrometan CH2Br – CH2Br để chì oxit chuyển thành muối PbBr2 dễ bay hơi thoát ra khỏi xilanh, ống xả và thải vào không khí gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe con người. Từ những điều gây hại trên mà hiện nay ở nước ta không còn dùng xăng pha chì nữa. Áp dụng: Tình huống áp dụng khi liên hệ thực tế dạy bài : “Dầu mỏ - Khí thiên nhiên”. *Hiện tượng 2: Vì sao đốt xăng, cồn thì cháy hết sạch, còn khi đốt gỗ, than đá lại còn tro? Giải thích: Bởi vì so với gỗ và than đá thì xăng và cồn là những hợp chất hữu cơ có độ thuần khiết cao. Khi đốt xăng và cồn chúng sẽ cháy hoàn toàn tạo thành CO 2 và hơi H2O, tất cả chúng đều bay vào không khí. Xăng tuy là hỗn hợp nhiều hiđrocacbon, nhưng chúng là những chất dễ cháy. Vì vậy cho dù ở trạng thái hỗn hợp nhưng khi đốt đều cháy hết. Với than đá và gỗ thì lại khác. Cả hai vật liệu đều có những thành phần rất phức tạp. Những thành phần của chúng như xenlulozơ, bán xenlulozơ, gỗ, nhựa là những hợp chất hữu cơ dễ cháy và có thể "cháy hết". Nhưng gỗ thường dùng còn có các khoáng vật. Những khoáng vật này đều không cháy được. Vì vậy sau khi đốt cháy gỗ sẽ còn lại và tạo thành tro. Than đá cũng vậy, trong thành phần than đá ngoài cacbon và các hợp chất hữu cơ phức tạp còn có các khoáng là các muối silicat. Nên so với gỗ khi đốt cháy than còn cho nhiều tro hơn. Áp dụng: Đây là câu hỏi nhằm kích thích tư duy học sinh khi dạy xong bài “Nhiên liệu”. *Hiện tượng 3: Cồn khô và cồn lỏng có cùng một chất không ? Tại sao cồn khô lại
  19. được? Giải thích: Cồn khô và cồn lỏng đều là cồn (rượu etylic nồng độ cao) vì người ta cho vào cồn lỏng một chất hút dịch thể, loại chất này làm cồn lỏng chuyển khô. *Hiện tượng 4: Tại sao rượu giả có thể gây chết người ? Giải thích: Để thu được nhiều rượu (rượu etylic), người ta thêm nước vào pha loãng ra vì vậy rượu nhạt đi, người uống không thích. Nên họ pha thêm một ít rượu metylic làm nồng độ rượu tăng lên. Chính rượu metylic gây ngộ độc, nó tác động vào hệ thần kinh và nhãn cầu, làm rối loạn chức năng đồng hóa của cơ thể gây nên sự nhiễm độc, nguy hiểm tới tính mạng. Áp dụng: Tình huống nhằm kích thích tính tò mò của học sinh khi dạy bài : “Rượu etylic”. *Hiện tượng 5: Vì sao cồn có khả năng sát khuẩn ? Giải thích: Cồn là dung dịch rượu etylic (C 2H5OH) có khả năng thẩm thấu cao qua màng tế bào biểu bì của vi khuẩn gây đông tụ protein trong tế bào của vi khuẩn, làm cho tế bào chết. Mở rộng: Thực tế là cồn 75o có khả năng sát khuẩn cao nhất. Nếu cồn lớn hơn 75 0 thì nồng độ cồn quá cao làm cho protein trên bề mặt vi khuẩn đông cứng nhanh hình thành lớp vỏ cứng ngăn không cho cồn thấm vào bên trong nên vi khuẩn không chết. Nếu nồng độ nhỏ hơn 750 thì hiệu quả sát trùng kém. Áp dụng: Tình huống giúp tạo hứng thú, giúp học sinh thêm yêu hóa học khi học phần ứng dụng trong bài : “Rượu etylic”. *Hiện tượng 6: Ăn sắn (khoai mì), ăn măng có thể bị ngộ độc. Giải thích: Trong sắn và măng có chứa nhiều hydro xyanua, còn gọi là axit xianhidric (HCN). Xianhiđric là chất khí có mùi hạnh nhân, có vị đắng và rất độc. Mở rộng: Trong tự nhiên thường gặp ở một số thực vật như hạt đào, hạt mận, củ sắn, măng tươi Sắn luộc hay măng luộc hoặc xào nấu có vị đắng là chứa nhiều xianhiđric có nguy cơ bị ngộ độc. Khi bị nhiễm độc nhẹ, người cảm thấy nhức đầu, nôn mửa, tim đập mạnh. Khi nhiễm độc nặng, người mất cảm giác, bị ngạt thở, có thể dẫn đến ngừng hô hấp và chết vì tim ngừng đập. Để giảm lượng HCN trong các loại thực phẩm này, khi luộc cần mở vung để xianhiđric bay hơi. Nếu phơi khô trước khi chế biến sẽ bị ngộ độc vì khi phơi khô xianhiđric đã bay hơi hết. Áp dụng: Tình huống dùng để mở rộng về một số axit hữu cơ trong bài “Axit axetic”. *Hiện tượng 7: Khi ăn đường glucozơ ta cảm thấy đầu lưỡi mát lạnh. Giải thích: Vì khi ăn, glucozơ tạo dung dịch đường trên lưỡi, sự phân bố các phân
  20. tử đường trong quá trình hòa tan là quá trình thu nhiệt, do đó ta cảm thấy đầu lưỡi mát lạnh. Áp dụng: hiện tượng dùng khi giới thiệu phần tính chất vật lý của glucozơ ở bài : “Glucozơ” *Hiện tượng 8: Khi ăn thịt, cá người ta thường chấm nước mắm giấm hoặc mắm chanh sẽ thấy ngon và dễ tiêu hóa hơn. Giải thích: Trong môi trường axit, protein trong thịt, cá dễ thủy phân hơn nên khi chấm vào nước mắm giấm hoặc chanh có môi trường axit thì quá trình nhai protein nhanh thủy phân thành các animo axit nên ta thấy ngon hơn và dễ tiêu hơn. Áp dụng: tình huống để đặt vấn đề vào bài : “Protein” giúp tạo hứng thú học và yêu thích bộ môn cho học sinh. V- KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÓ SO SÁNH ĐỐI CHỨNG: Sau nhiều năm giảng dạy có áp dụng phương pháp “ tổ chức, hướng dẫn học sinh khai thác, vận dụng kiến thức hóa học gắn với các hiện tượng thực tế” khi dạy môn Hóa học, đặc biệt là ở năm học 2019 – 2020 và năm học 2020 – 2021 tôi thấy rất cần thiết, vì áp dụng tốt phương pháp này mà các lớp Hóa học tôi giảng dạy ở hai năm học gần đây: - Phát huy được tính tích cực nhận thức của học sinh. - Rèn được sự tự tin, tác phong mạnh dạn, tính cẩn thận khi phân tích, tiếp thu và vận dụng kiến thức hóa học vào bài tập, vào cuộc sống. - Học sinh hăng hái phát biểu xây dựng bài. Trong giờ học, ngay cả khi học trực tuyến, các em tự giác hơn, say sưa hơn, cố gắng hơn, tương tác sôi nổi hơn nên hiệu quả giờ học cao hơn. - Trong quá trình chuẩn bị bài trước mỗi bài học, các em nghiêm túc, linh hoạt, tự giác, chủ động nên các giờ học đều rất sôi nổi, hiệu quả. - Trong các buổi hoạt động ngoại khóa của nhà trường, các em trong câu lạc bộ hóa học rất tự tin khi trình bày các tình huống liên quan đến kiến thức hóa học. - Các e nắm vững kiến thức, ghi nhớ lâu, vận dụng linh hoạt, khoa học các kiến thức hóa học để giải bài tập và liên hệ thực tế. * Kết quả khảo sát lần 2( trong các giờ ôn thi học kì II các năm học 2019 – 2020 và năm học 2020 – 2021): Về học tập: * Năm học 2019-2020: Lớp Tổng số HS Khả năng ghi nhớ, thông hiểu, vận dụng kiến thức hóa học tham gia Tốt Khá Trung bình Yếu khảo sát SL % SL % SL % SL % 9A 38 16 42 14 37 8 21 0 0
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2