intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Đa dạng hóa các hình thức dạy học sáng tạo thông qua dạy chủ đề văn học dân gian Ngữ văn 10

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:41

17
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài “Đa dạng hóa các hình thức dạy học sáng tạo thông qua dạy chủ đề văn học dân gian Ngữ văn 10 ”, nhằm đưa ra những hình thức dạy học hiệu quả nhằm khơi gợi sự thích thú, say mê, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của học sinh . Đồng thời, giúp học sinh hiểu rõ về cội nguồn, truyền thống tốt đẹp của cha ông thuở xưa, biết vận dụng kiến thức hữu ích vào hoạt động diễn xướng, nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn ngày càng tươi đẹp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Đa dạng hóa các hình thức dạy học sáng tạo thông qua dạy chủ đề văn học dân gian Ngữ văn 10

  1. PHẦN A: ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Như chúng ta đã biết chương trình Giáo dục phổ thông mới đặc biệt đề cao đến tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Trong quá trình dạy học, học sinh được đặt vào trung tâm của hoạt động học. Bài toán đặt ra cho người dạy là cần thay đổi phương pháp dạy học. Trong đó phương pháp dạy học sáng tạo là việc lấy học sinh làm trung tâm của quá trình dạy học, giáo viên là người nêu và gợi mở lên vấn đề bằng nhiều cách khác nhau nhằm mang lại sự hào hứng, sự tự giác cho học sinh. Như vậy, học sinh sẽ tự học, tự nghiên cứu, tự trình bày và giải quyết các vấn đề để đưa ra kết luận cụ thể. Phương pháp này tăng cường sự kết nối, thực hành giữa các học sinh trong môn học, tiết học. Học sinh sẽ dễ dàng ghi nhớ kiến thức, thông qua việc tự mình tư duy và tìm tòi khám phá. Giáo viên áp dụng nhiều hình thức khác nhau để gợi mở vấn đề, vấn đáp, tương tác, thảo luận nhóm hay chơi các trò chơi… đánh thức sự tự suy luận, tự tìm tòi và ý thức tự học của học sinh. Để thực hiện được một tiết học sáng tạo, cả giáo viên và học sinh phải vượt qua được những giới hạn của bản thân. Hơn nữa, sáng tạo trong dạy học hiện nay còn có vai trò như một sự chuẩn bị để giáo viên, nhà trường bước vào chương trình giáo dục phổ thông mới một cách chủ động. Văn học không chỉ là môn học mà nó còn là cuộc sống. Sáng tạo trong dạy học ở các môn học khác đã khó, sáng tạo trong dạy học Ngữ văn lại càng khó hơn. Người thầy sáng tạo phải là người truyền lửa sáng tạo cho học sinh. Trong vai trò là người chỉ huy, hướng dẫn người dạy phải truyền tải được kiến thức bài học giúp học sinh phát triển những năng lực đặc thù của môn học, đó không chỉ là nghe- nói- đọc- viết mà còn nắm vững giá trị thẩm mĩ nằm trong bề sâu của câu từ, hiểu rõ thông điệp của nhà văn. Đồng thời qua bài học, học sinh biết vận dụng linh hoạt kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn trong đời sống, rèn luyện kỹ năng sống qua đó phát triển một cách toàn diện về thể chất, trí tuệ và rèn luyện trở thành một con người năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước những yêu cầu của thời đại mới. Điều đó cho thấy, một tiết học nhàm chán thì không mang lại kết quả, không đạt được mục tiêu một cách tròn trịa. Cách dạy truyền thống như: thầy đọc trò chép, dạy nhồi nhét, thầy thuyết giảng như một nhà nghiên cứu khoa học cần phải thay đổi. Sáng tạo trong dạy học Ngữ văn sẽ xóa bỏ được những điều xưa cũ, đó là sự nặng nề, khô khan, nhàm chán và buồn ngủ thay vào đó là sự hào hứng, sôi nổi, tích cực và đạt hiệu quả cao. Từ thực tế giảng dạy nhiều năm của bản thân cũng như việc đi dự giờ của đồng nghiệp, tôi nhận thấy rằng việc sáng tạo trong đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh; dạy học phát triển năng lực cho người học rất cần thiết, được xem như mục tiêu cốt lõi của chương trình giáo dục phổ thông mới. 1
  2. Trong chương trình Ngữ văn lớp 10, ở phân môn Văn học, học sinh được học nhiều văn bản với dung lượng khá lớn, lượng kiến thức tương đối nhiều với nhiều thể loại khác nhau, do đó đòi hỏi thầy cô phải sử dụng những phương pháp, kỹ thuật tích cực vào dạy học, đặc biệt là khi dạy các tác phẩm văn học dân gian. Xuất phát từ những lý do mang tính thực tiễn đó, tôi đã lựa chọn đề tài “Đa dạng hóa các hình thức dạy học sáng tạo thông qua dạy chủ đề văn học dân gian Ngữ văn 10” để chia sẻ với đồng nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả đổi mới trong dạy học môn Ngữ văn theo hướng phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh. II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU. Văn học dân gian là bộ phận văn học phong phú về cả nội dung lẫn thể loại. Vì thế, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về bộ phận văn học này. Riêng trong lĩnh vực giảng dạy, hầu hết giáo viên chỉ mới đề cập đến phương diện văn bản, tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh chưa được chú trọng ở mức cao. Các năng lực đặc thù ở học sinh chưa được hình thành, chưa hướng người học đến một môi trường văn hóa dân gian sống động. III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. “Đa dạng hóa các hình thức dạy học sáng tạo thông qua dạy chủ đề văn học dân gian Ngữ văn 10 ”, nhằm đưa ra những hình thức dạy học hiệu quả nhằm khơi gợi sự thích thú, say mê, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của học sinh . Đồng thời, giúp học sinh hiểu rõ về cội nguồn, truyền thống tốt đẹp của cha ông thuở xưa, biết vận dụng kiến thức hữu ích vào hoạt động diễn xướng, nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn ngày càng tươi đẹp. IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh THPT tại đơn vị tôi công tác trong thời gian năm học 2020- 2021 và 2021- 2022. 2. Phạm vi nghiên cứu: Trong đề tài này, tôi hướng đến việc “Đa dạng hóa các hình thức dạy học sáng tạo thông qua dạy chủ đề văn học dân gian Ngữ văn 10” ( Ban cơ bản). V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 1. Phương pháp phân tích tổng hợp 2. Phương pháp điều tra, quan sát 3. Phương pháp thống kê 4. Phương pháp xử lí thông tin 5. Phương pháp thực nghiệm 2
  3. PHẦN B: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI. 1. Cơ sở lý luận về dạy học sáng tạo 1.1. Khái niệm dạy học sáng tạo. Sự sáng tạo là khả năng nhìn nhận thế giới xung quanh theo một góc nhìn mới, kết nối các sự vật hiện tượng rời rạc lại với nhau để từ đó nảy sinh ra những sáng kiến độc đáo, hữu ích. - Hay theo như PGS.TS Phan Dũng: "Sáng tạo là hoạt động tạo ra bất cứ cái gì có đồng thời tính mới và tính ích lợi (trong phạm vi áp dụng cụ thể)" Sáng tạo là đi tìm cái mới, cách giải quyết mới mà trước đó chưa được nhắc tới. Đó cũng chính là tiêu chí hướng đến của nhiều lĩnh vực trong đó sự sáng tạo dạy học sẽ góp phần phát triển năng lực của học sinh, khơi dậy niềm đam mê, hứng thú của người học. Dạy học sáng tạo sẽ là bước đệm quan trọng trong việc chuyển đổi của giáo dục. Mà trong đó, người giáo viên đóng vai trò cốt lõi, đóng góp vào sự thành công của mỗi phương pháp dạy học mới. Như vậy hiểu đơn giản dạy học sáng tạo là giáo viên đưa ra những cách thức mới mẻ vận dụng vào tiết học để truyền tải những kiến thức bài học vào trong thực tế, biến những tri thức hàn lâm trở nên gần gũi để học sinh áp dụng vào thực tiễn một cách dễ dàng nhất. 1.2. Vai trò của dạy học sáng tạo Trong hai bài diễn thuyết trên TED talk, Sir Ken Robinson đã nêu lên tầm quan trọng của sáng tạo trong nền giáo dục ngày nay đó là “Liệu rằng trường học đã giết chết sự sáng tạo” và “Làm thế nào để có thể thoát khỏi thung lũng chết của giáo dục”. Để làm được điều đó, có lẽ chúng ta cần phải thực hiện rất nhiều công việc, nhưng trong đó quan trọng nhất vẫn là hoạt động dạy học, giáo viên – người có thể tạo dựng được môi trường học tập sáng tạo – người thực hành các phương pháp giảng dạy sáng tạo – người là hình mẫu và truyền cảm hứng cho học sinh về sự sáng tạo. Trước sự phát triển như vũ bão của thời đại thì các phương pháp dạy học truyền thống sẽ được thay thế. Người dạy cần phải đổi mới mình từng ngày và người học cũng phải thực hiện tốt nhiệm vụ“ đồng sáng tạo” để tạo ra những giờ học sáng tạo. Như vậy, sáng tạo trong dạy học có vai trò rất quan trọng. Trước hết, sáng tạo trong dạy học sẽ tạo nên niềm vui và sự hào hứng cho học sinh. Các lớp học sáng tạo tạo cơ hội cho học sinh học tập trong niềm vui. Các hoạt động giảng dạy như kể chuyện, diễn kịch, thiết kế mô hình… sẽ giúp học sinh học tập mà không cảm thấy bị áp lực. Học sinh sẽ có cơ hội tương tác với các bạn, nhận được sự hỗ trợ từ giáo viên, được thể hiện bản thân, được lắng nghe và chia 3
  4. sẻ. Chính điều đó khiến cho việc học không còn cảm giác nhàm chán, nặng nề. - Không giống như các phương pháp giảng dạy truyền thống, các lớp học sáng tạo cho học sinh cơ hội thể hiện bản thân. Cho dù đó là cuộc tranh luận hoặc thảo luận trong lớp học hoặc các chuyến đi thực địa, học sinh có cơ hội bước ra khỏi vùng an toàn và thể hiện bản thân. Việc có cơ hội được thể hiện sẽ mang lại cho học sinh cảm giác sung sướng và có động lực học tập. - Sáng tạo có thể kích thích khả năng tư duy tưởng tượng ở học sinh. Đó là lý do tại sao giáo viên thúc đẩy các hoạt động như câu hỏi mở, hoạt động nhóm, các buổi thảo luận, tranh biện. Một số giáo viên khéo léo sử dụng các kỹ thuật này để dạy những bài học khó để khiến học sinh học một cách vui vẻ và dễ dàng. Các câu hỏi mở sẽ mở ra một thế giới tư duy giàu trí tưởng tượng và học sinh có thể đưa ra những câu trả lời sáng tạo. - Sự sáng tạo rất quan trọng đối với sự phát triển cảm xúc của học sinh. Học sinh phải học cách tương tác và thể hiện bản thân trước các bạn xung quanh. Sáng tạo cho học sinh tự do khám phá môi trường xung quanh và học hỏi những điều mới. Học sinh sẽ luôn thích một khung cảnh lớp học giúp chúng khám phá tự do mà không có bất kỳ ranh giới nào. Khi học sinh có thể thể hiện cảm xúc thật của mình một cách sáng tạo trong lớp học, chúng sẽ cảm thấy tự tin hơn. - Tăng cường kỹ năng giải quyết vấn đề: Các hoạt động động não sẽ kích thích các kỹ năng giải quyết vấn đề ở học sinh. Sáng tạo thực sự có thể thay đổi cách học sinh tiếp cận một vấn đề, suy nghĩ sâu và giàu trí tưởng tượng hơn. Với cách này, học sinh có thể đưa ra được nhiều giả thuyết và giải pháp khác nhau, được thử, sai là làm lại để từ đó thực sự làm chủ quá trình học tập của bản thân. - Cải thiện sự tập trung và sự chú ý: Khoảng chú ý hoặc tập trung trung bình của một học sinh ở bậc tiểu học chỉ khoảng vài phút, đối với các lớp trên cũng không quá 10 phút. Các phương pháp giảng dạy truyền thống thường gây nhàm chán khiến học sinh cảm thấy buồn ngủ, mất tập trung. Các chiến lược giảng dạy sáng tạo sẽ cải thiện sự tập trung và sự chú ý của học sinh, từ đó khiến thời gian dành cho việc học trở nên hiệu quả hơn. - Việc tìm được điều là niềm đam mê và theo đuổi nó chính là yếu tố tạo nên thành công trong cuộc sống. Trong các lớp học sáng tạo, học sinh được học tập với các hoạt động học tập đa dạng dựa trên thế mạnh của người học. Học sinh có cơ hội theo đuổi niềm đam mê của bản thân cho dù đó là âm nhạc, khiêu vũ, thơ ca, vẽ hoặc các loại hình nghệ thuật khác. Điều này mang lại học sinh cảm giác hạnh phúc, tự do và thoải mái để sáng tạo. - Những người sáng tạo thường có lợi thế hơn hẳn trong tương lai so với những người có kỹ năng học tập đơn thuần. Nhất là trong bối cảnh thế giới có những chuyển biến mạnh mẽ như ngày nay, kĩ năng sáng tạo sẽ giúp học sinh có 4
  5. khả năng thích ứng và khẳng định mình, tạo ra sự khác biệt của bản thân trong cuộc sống. Chính các lớp học sáng tạo là nơi nuôi dưỡng và chuẩn bị điều đó cho học sinh. - Tư duy đổi mới: Câu hỏi mở và thảo luận trong lớp là hai chiến lược giảng dạy sáng tạo phổ biến giúp học sinh phát triển tư duy đổi mới. Học sinh có cơ hội suy nghĩ nghiêm túc hơn các chủ đề và đưa ra những ý tưởng sáng tạo. Các lớp học sáng tạo luôn đòi hỏi học sinh phải làm việc và tư duy tích cực để tạo nên những ý tưởng và sản phẩm mới chứ không phải là lặp lại một cách máy móc các kiến thức trong sách. Đó cũng là nơi mà học sinh được rèn luyện tư duy đổi mới trước khi bước vào cuộc sống. - Thúc đẩy việc học tập suốt đời: Một người có tư duy sáng tạo luôn có mong muốn học những điều mới. Đó chính là kĩ năng học tập suốt đời. Nó giúp học sinh luôn tích cực tham gia vào các hoạt động học tập không chỉ trên lớp mà cả ngoài cuộc sống. Nói cách khác, chính các lớp học sáng tạo sẽ dạy học sinh các kĩ năng cần thiết của việc học tập suốt đời. Như vậy có thể khẳng định, sáng tạo trong dạy học là việc làm hết sức cần thiết và cấp thiết. Mỗi giáo viên cần phải nỗ lực hết mình để đổi mới các hình thức dạy học phù hợp với từng đối tượng nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. 1.3. Các hình thức dạy học sáng tạo Đổi mới phương pháp dạy học là tiêu chí mà các nhà trường đặt ra từ trước đến nay. Trong nhiều năm qua, giáo viên đã áp dụng rất nhiều hình thức để truyền tải nội dung bài học. Tuy nhiên, đa số giáo viên đều còn đơn điệu, bị động, chưa xem học sinh là trung tâm nên chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các em. Đó là các hình thức dạy học như: nêu vấn đề, thảo luận, vấn đáp, đọc diễn cảm….Chính vì thế mà các tiết học chưa thật sinh động, chưa tạo được hứng thú cho người học. Trước yêu cầu của chương trình trung học phổ thông mới đặc biệt là đổi mới sách giáo khoa đòi hỏi người dạy phải vận dụng một số hình thức và kĩ thuật dạy học tích cực. Đối với môn Ngữ văn, sáng tạo trong quá trình dạy học lại hết sức cần thiết. Để phát huy tính tích cực và tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học nhiều giáo viên đã áp dụng rất nhiều hình thức sáng tạo, nhiều tiết học đã được khoác lên mình tấm áo mới đa màu sắc. Trong muôn vàn hình thức dạy học sáng tạo, bản thân tôi đã áp dụng một số hình thức dạy học sáng tạo chủ đề văn học dân gian ở chương trình ngữ văn 10 và đạt được hiệu quả khả quan. Đó là: + Tạo tâm thế tiếp nhận cho học sinh qua hoạt động khởi động + Tổ chức thảo luận nhóm + Tích hợp liên môn + Tổ chức và lồng ghép trò chơi: đuổi hình bắt chữ, ghép tranh, giải ô chữ, 5
  6. vòng quay kì diệu…. + Đóng vai, hóa thân vào nhân vật văn học Dạy văn là công việc không chỉ đòi hỏi công sức mà còn cả tâm sức của người dạy. Bởi “ văn học là nhân học”, nó không đơn giản dừng lại ở tri thức, kĩ năng mà còn giáo dục cả về nhân cách, gieo vào tâm hồn các em niềm tin, bản lĩnh để vận dụng vào thực tiễn. Đồng thời còn hình thành và phát huy ở các em năng lực làm chủ và phát triển bản thân và năng lực xã hội. 2. Cơ sở lý luận về chủ đề văn học dân gian trong chương trình ngữ văn cơ bản 10. 2.1. Hướng tiếp cận các văn bản văn học dân gian trong chương trình Ngữ văn cơ bản 10. Nhắc đến văn học dân gian, có lẽ ai trong mỗi chúng ta đều nhớ đến một bộ phận văn học ra đời từ xa xưa, khi chữ viết chưa xuất hiện. Văn học dân gian là bộ bách khoa vĩ đại, là nơi kết tinh rực rỡ những tri thức và tài năng nghệ thuật tư tưởng, tình cảm của nhân dân. Nó chính là cội nguồn của văn học dân tộc. Chính vì vậy, khi tìm hiểu về văn học Việt Nam chúng ta không thể bỏ qua chủ đề văn học dân gian. Dạy học về văn học dân gian chính là hành trình giúp học sinh tìm về nguồn cội, tinh hoa về tư tưởng, cảm xúc được kết tinh từ ngàn đời của cha ông. Văn học dân gian đóng vai trò quan trọng đối với việc hình thành bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần nâng cao ý thức trân trọng di sản văn học cho thế hệ sau. Qua thực tế giảng dạy ở trường trung học phổ thông hiện nay tôi nhân thấy rằng đa số học sinh chưa thật sự trân trọng cái hay, cái đẹp của văn học dân gian. Bởi lẽ, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ đã lôi kéo các em vào những tác phẩm có tính chất “ ăn theo”, “ăn xổi” từ điện thoại, ipat, tivi….. khoảng cách giữa các em với văn học dân gian lại càng kéo xa hơn. Mặt khác, trong quá trình giảng dạy giáo viên khai thác tác phẩm còn theo kiểu diễn xuôi truyền thống, chỉ đầu tư ở các tiết thao giảng, dự giờ..chưa mạnh tay, thẳng tay ở các tiết học khác. Vì thế, học sinh chưa nhận ra được cái hay, cái đẹp, nét độc đáo của văn bản dẫn đến tình trạng không có hứng thú, không tích cực, sáng tạo khi tiếp nhận. Các em thường nhầm lẫn các chi tiết của tác phẩm này với tác phẩm kia, nhiều khi còn sáng tạo quá đà so với văn bản gốc. Nhịp cầu đầu tiên nối liền việc học Văn ở bậc THCS sang bậc THPT chính là các tác phẩm văn học dân gian. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của phương pháp dạy học sáng tạo khi dạy truyện dân gian, cụ thể là dạy tác phẩm văn học dân gian trong chương trình Ngữ văn lớp 10. Bài toán đặt ra đối với giáo viên là ngay từ bài học đầu tiên phải giúp các em có hứng thú say mê học tập môn Ngữ văn thông qua sự hấp dẫn, lôi cuốn từ những truyện cổ tích, truyền thuyết, câu ca dao... giúp các em không chỉ nhận biết thể loại, thông hiểu nội dung mà còn biết vận 6
  7. dụng hành văn và giải quyết các tình huống trong thực tiễn. Để từ đó tạo đà bước những bước tiếp theo trong việc học môn Ngữ văn cho các em học sinh. 2.2. Sơ lược về văn bản dân gian và nội dung các văn bản dân gian trong chương trình Ngữ văn cơ bản 10. Văn học dân gian Việt Nam giữ một vai trò quan trọng trong chương trình văn học của nhà trường phổ thong. Nó góp phần bồi dưỡng vẻ đẹp tâm hồn, giáo dục nhân cách cho học sinh. Đồng thời, qua văn học dân gian học sinh có điều kiện tốt nhất, hiệu quả nhất để tiếp cận nền văn hóa của dân tộc. Văn học dân gian còn được gọi là văn chương bình dân hay văn chương truyền miệng. Khái niệm chỉ những sáng tác nghệ thuật ngôn từ của nhân dân lao động, phát sinh từ thời kì nguyên thủy và phát triển mạnh mẽ trong các xã hội có giai cấp cho đến cả thời kì hiện đại. Văn học dân gian tồn tại và phát triển trong mối lien quan chặt chẽ với các hoạt động lao động và sinh hoạt gia đình, sinh hoạt xã hội của nhân dân và thể hiện thành những sinh hoạt văn hóa dân gian. VHDG là những sáng tác tập thể và truyền miệng của nhân dân lao động. Các tri thức có thể tham gia sáng tác. Song những sáng tác đó phải tuân thủ những đặc trưng của VHDG và trở thành tiếng nói tình cảm chung của nhân dân. Hệ thống thể loại của văn học dân gian bao gồm: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, dân ca, vè, truyện thơ, chèo.Dựa vào đặc trưng thể loại, người ta chia thành 2 nhóm: tự sự dân gian ( sử thi, truyền thuyết, thần thoại, truyện cười, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện thơ) và trữ tình dân gian( tục ngữ, ca dao, câu đố, dân ca, vè, chèo). Theo khảo sát của cá nhân tôi thì hệ thống văn bản văn học dân gian ở đầu chương trình Ngữ văn 10 được sắp xếp theo thể loại tự sự: sử thi ( Chiến thắng Mtao Mxây), truyền thuyết ( Truyện An Dương Vương, Mị Châu và Trọng Thủy), truyện cổ tích ( Tấm Cám), truyện cười ( Tam đại con gà, Nhưng nó phải bằng hai mày) và trữ tình dân gian ( Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa và ca dao hài hước). Cách sắp xếp này làm nổi bật đặc trưng thể loại, thuận lợi để học sinh đối chiếu, so sánh thể loại này với thể loại kia phát huy được tính sáng tạo, tích cực , chủ động của học sinh. Tiếp cận các tác phẩm tự dân gian, giáo viên không chỉ giúp học sinh khai thác nội dung và đặc sắc nghệ thuật của mỗi tác phẩm theo đặc trưng thể loại và phải tạo ra hứng thú để các em rút ra được thông điệp và bài học mà ông cha ta gửi gắm, đồng thời giúp các em hóa thân vào nhân vật tái hiện một cách nhuần nhuyễn và sinh động các chi tiết trong tác phẩm. Ví dụ khi dạy truyện cổ tích “ Tấm Cám”, giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác được: + thể loại truyện cổ tích: khái niệm, đặc trưng, phân loại đặc biệt là 7
  8. đặc trưng của truyện cổ tích thần kì. Từ đó liên hệ đến các tác phẩm dân gian khác cùng mô típ. + Phân tích được các mối mâu thuẫn, xung đột trong truyện: mâu thuẫn gia đình, mâu thuẫn xã hội. + Ý nghĩa của các chi tiết nghệ thuật: yếm đỏ, cá bống, lễ hội thử giày, các lần hóa thân, các yếu tố thần kì,… Từ đó, giáo viên giúp học sinh rút ra được những bài học ý nghĩa để vận dụng vào thực tiễn: Đó là bài học về lối sống: “Ở hiền gặp lành, gieo gió gặp bão”, bài học mối quan hệ xã hội: Trong cuộc sống, những lúc gặp khó khăn chúng ta phải nhờ đến sự giúp đỡ của bạn bè và mọi người xung quanh. Bài học về sự đấu tranh: muốn lấy lại hạnh phúc bản thân phải đứng lên để đấu tranh, không nên nhẫn nhục và cam chịu. Văn bản trữ tình dân gian bao gồm: ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa và ca dao hài hước. Có thể nói, ca dao là thể loại có số lượng phong phú diễn tả đời sống nội tâm của con người lao động. Ca dao là viên ngọc quý, là tấm gương soi chiếu tâm hồn con người. Ca dao dạy cho chúng ta nhiều bài học quý: yêu thương con người, kinh nghiệm lao động sản xuất, về truyền thống tốt đẹp, đối nhân xử thế… Nếu trong tác phẩm tự sự, đối tượng hướng đến là thế giới khách quan- những gì xảy ra ở ngoài thực tại, độc lập với con người, nội tâm được ngoại hiện bằng hành động, những lời nói, cử chỉ của nhân vật… thì trong tác phẩm trữ tình, đối tượng hướng đến để phản ánh là đời sống nội tâm, cảm xúc của con người trước thực tại. Trong quá trình tìm hiểu ca dao, một công việc quan trọng là cần tìm hiểu về cái tôi trữ tình. Ca dao cũng như các thể loại khác của VHDG mang tính tập thể trong sáng tác, tính truyền miệng trong lưu hành, giao tiếp khiến cái tôi trữ tình của ca dao không có dấu vết cá nhân, cá thể. Trong ca dao dân ca Việt Nam, cái tôi trữ tình thường là những cảm xúc chủ đạo được thể hiện tinh tế, đa dạng. Vì thế, trong quá trình giảng dạy giáo viên phải giúp học sinh khai thác được ý nghĩa bề sâu trong từng câu chữ bằng các hình thức sáng tạo để lưu giữ trong trí nhớ của các em những câu ca, điệu hát giàu ý nghĩa. Như vậy, văn học dân gian là bộ phận có ý nghĩa quan trọng. Mục đích khi dạy chủ đề văn học dân gian là giúp học sinh biết giữ gìn và phát huy được những nét đẹp truyền thống của cha ông. Chủ đề đặt ở mở đầu của chương trình Ngữ văn 10 THPT nên nó sẽ là tiền đề định hướng cách tiếp cận tác phẩm theo đặc trưng thể loại, rèn kĩ năng hành văn nghị luận, vận dụng để giải quyết các tình huống trong thực tiễn và định hướng tương lai của các em. II. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI. 1. Thực trạng dạy và học, nguyên nhân tồn tại. 8
  9. Từ thực tế, vấn đề đổi mới dạy học phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh đã được đề cập nhiều và đã được áp dụng ở nhiều trường học, nhiều cơ sở giáo dục. Ở trường THPT Nam Yên Thành, vấn đề này cũng hết sức được quan tâm từ chỉ đạo của nhà trường đến đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên. Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy của bản thân và việc dự giờ của đồng nghiệp, qua nhiều năm, tôi thấy việc dạy - học các văn bản văn học dân gian trong chương trình tại đơn vị chưa thật phát huy và khơi dậy tối đa các năng lực, đặc biệt là năng lực sang tạo của học sinh. Điều đó, thể hiện ở những tồn tại sau: Thứ nhất: dạy đọc – hiểu còn mang nặng tính truyền thụ một chiều những cảm nhận của giáo viên về văn bản. Mặt khác, trong quá trình giảng dạy giáo viên thường chỉ tập trung vào các kiến thức và kĩ năng cần nắm trong bài đề phục vụ cho kiểm tra, thi cử mà chưa thật sự quan tâm đến việc tạo hứng thú, sự sáng tạo, tích cực cho học sinh . Cụ thể là trong quá trình hình thành kiến thức mới các thầy cô chưa đưa ra được các câu hỏi, bài tập hoặc các tình huống thực tiễn để học sinh liên tưởng và áp dụng các kiến thức đã học. Thứ hai: để chuẩn bị cho bài mới, giáo viên thường xuyên yêu cầu học sinh về đọc trước nội dung bài học trong sách giáo khoa mà chưa chú ý trong việc giao nhiệm vụ cho các em về nhà tìm hiểu cuộc sống, môi trường xung quanh, tìm các vấn đề trong thực tiễn có liên quan đến bài học kế tiếp để học sinh có tâm thế vào bài mới một cách hứng thú hơn. Giáo viên thường không chú ý dành thời gian để các em đưa ra các khúc mắc và giải đáp cho các em về những hiện tượng các em quan sát được trong cuộc sống. Trong quá trình dạy học, giáo viên đã tiến hành dạy học tích hợp, tuy nhiên, dạy học tích hợp vẫn mang tính khiên cưỡng, nội dung tích hợp vào bài học như Tấm Cám, An Dương Vương, Mị Châu và Trọng Thủy….còn cứng nhắc, qua loa. Chưa làm cho học sinh huy động kiến thức, kỹ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực… để giải quyết các nhiệm vụ học tập (ví dụ như khi dạy bài An Dương Vương, Mị Châu và Trọng Thủy có thể vận dụng kiến thức của môn địa lí, lịch sử, giáo dục quốc phòng…). Rõ ràng, việc tích hợp nội môn và liên môn chưa thật sự hiệu quả. Chính vì vậy chưa giúp học sinh hình thành kiến thức, kỹ năng mới. Thứ ba: việc vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực còn mang tính hình thức. Phương pháp thảo luận nhóm được tổ chức nhưng chủ yếu dựa vào một vài cá nhân học sinh tích cực tham gia, các thành viên còn lại dựa dẫm, ỉ lại chưa thật sự chủ động. Mục đích của thảo luận nhóm chưa đạt tính dân chủ, mọi cá nhân được tự do bày tỏ quan điểm, thói quen bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng để hình thành cá nhân, tất cả đều chưa đảm bảo. Bên cạnh đó, phương pháp đóng vai thực sự là phương pháp chưa được giáo viên chú trọng. Nếu có thực hiện thì chỉ là dạng bài viết, việc xử lý các tình huống giả định, trình bày một vấn đề chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy mà học sinh ít có cơ hội bày tỏ 9
  10. thái độ, chưa hứng thú, chưa hình thành được các năng lực của người học. Mặc dù cũng đã có giáo viên thực hiện thay đổi phương pháp dạy học, thay đổi cách thức tổ chức giờ học song kết quả chưa đạt được như mong muốn mà nguyên nhân là: Về phía giáo viên: Việc đổi mới phương pháp dạy học cũng không được thực hiện một cách triệt để, vẫn còn nặng nề phương pháp truyền thống truyền thụ một chiều; còn áp đặt, đổ dồn kiến thức cho học sinh. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy học còn hạn chế - một phần là do kỹ năng sử dụng máy chiếu của họ hạn chế, chỉ sử dụng ở các tiết thao giảng còn các tiết dạy trên lớp chủ yếu là dạy chay do sợ mất thời gian soạn giáo án. Mặt khác có thể do cơ sở vật chất của nhà trường chưa chuẩn bị đầy đủ những trang thiết bị phục vụ cho việc dạy, không đáp ứng tốt cho việc đổi mới phương pháp dạy học. Về phía học sinh: Học sinh trường THPT Nam Yên Thành chủ yếu là học sinh nông thôn, có hướng đi xuất khẩu lao động nên việc tiếp cận và tìm tòi những thông tin cho bài học còn hạn chế. Một số học sinh chưa có phương pháp học tập phù hợp, chưa tích cực chủ động trong việc tìm tòi nghiên cứu bài học và chưa có ý thức vận dụng kiến thức giải quyết các vấn đề trong thực tiễn. Như vậy, yêu cầu đặt ra là phải thay đổi, thay đổi cả ở người dạy và ở người học để sau mỗi bài học, học sinh không chỉ có hiểu biết (kiến thức) mà còn phải phát triển các năng lực trong đó chú trọng đến năng lực sáng tạo, chủ động và tự học của học sinh. 2. Thuận lợi và khó khăn. 2.1 Thuận lợi: - Các hoạt động chuyên môn của nhà trường luôn nhận được quan tâm chỉ đạo sát sao từ lãnh đạo Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Nghệ An. - Việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá được ban giám hiệu nhà trường quan tâm chỉ đạo thực hiện tích cực như thực hiện thao giảng nhân các ngày lễ lớn trong năm học khuyến khích sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học, đặc biệt là đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm để phát huy tính chủ động, sáng tạo cho học sinh. - Đội ngũ giáo viên trẻ khỏe và giàu kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn vững, được đào tạo trên chuẩn và đã được tham gia các lớp tập huấn, BDTX, bồi dưỡng về chuyên môn do Sở giáo dục và đào tạo tổ chức hàng năm. - Đa số học sinh học tập tích cực và có sự tương tác chặt chẽ với giáo viên trong quá trình dạy học. - Văn học dân gian là bộ phận văn học khá gần gũi, quen thuộc với các em nên nhiều em dành sự yêu thích cho bộ phận văn học này. 10
  11. - Cơ sở vật chất trong mấy năm nay đã được đầu tư: Mạng, máy tính, máy chiếu được trang bị phục vụ dạy học, học sinh được trang bị kiến thức về vi tính để khai thác thông tin trên mạng Internet. - Nhiều học sinh có năng khiếu văn nghệ: ca hát, diễn xuất…. 2.2. Khó khăn: Bên cạnh những mặt thuận lợi trên thì trong quá trình dạy học còn một số khó khăn ảnh hưởng đến việc dạy học nhằm phát triển năng lực cho học sinh như: Một số giáo viên chưa mạnh dạn thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, dạy học còn mang nặng cách dạy truyền thống truyền thụ kiến thức mà chưa chú ý đến phát triển năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn ở học sinh. Một số học sinh chưa có động cơ học tập, thời gian dành cho việc học còn ít, chú tâm vào trò chơi đánh điện tử, facebook…Một số phụ huynh cũng chưa thật sự quan tâm đến việc học của con cái. Họ còn có suy nghĩ phó mặc cho nhà trường, “Trăm sự nhờ thầy”. Do chủ yếu là con nhà nông nên nhiều gia đình học sinh của trường THPT Nam Yên Thành chưa có máy tính nên việc khai thác nguồn thông tin thời sự về các vấn đề xảy ra xung quanh cuộc sống trên mạng để phục vụ cho việc học còn hạn chế. III. ĐA DẠNG HÓA MỘT SỐ HÌNH THỨC DẠY HỌC SÁNG TẠO THÔNG QUA DẠY CHỦ ĐỀ VĂN HỌC DÂN GIAN NGỮ VĂN CƠ BẢN 10. Văn học dân gian Việt Nam chiếm số lượng số tiết học khá nhiều và được đặt ở mở đầu của chương trình Ngữ văn 10. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của bộ phận văn học ra đời từ ngàn xưa này. Mặt khác, sự sắp xếp đó cũng góp phần tạo nên sự hứng thú, khơi dậy ở các em truyền thống nhớ về nguồn cội, biết gìn giữ và phát triển tinh hoa văn hóa, văn học dân tộc. Vậy nên, mỗi giáo viên cần phải lựa chọn các hình thức khác nhau để giúp học sinh sống lại trong không gian đậm màu sắc qua truyện cổ tích hay không gian lịch sử hào hùng khi đọc truyện truyền thuyết… Trong đề tài sáng kiến này, người viết đề xuất một số những hình thức dạy học sáng tạo để phát triển năng lực học sinh, phát huy tính chủ động tích cực sáng tạo của các em qua dạy học chủ đề văn học dân gian Ngữ văn 10 1.Tạo hứng thú và phát huy năng lực phẩm chất học sinh thông qua hoạt động khởi động Hoạt động khởi động được tổ chức khi bắt đầu một bài học nhằm giúp học sinh huy động vốn kiến thức và kĩ năng đã có để chuẩn bị tiếp nhận kiến thức và kĩ năng mới. Tại sao cần có hoạt động này? Việc tiếp thu kiến thức mới bao giờ cũng dựa trên những kinh nghiệm đã có trước đó của người học, giúp giáo viên tìm hiểu xem học sinh có hiểu biết như thế nào về những vấn đề trong cuộc sống có liên quan đến nội dung của bài học; tạo hứng thú và một tâm thế tích cực để học sinh bước vào bài học mới. Có thể nói hoạt động khởi động có nhiệm vụkhơi gợi, kích 11
  12. thích học trò mong muốn được tìm hiểu, khám phá bằng những hoạt động tiếp theo trong giờ học, thậm chí là sau giờ học. Hơn nữa, nếu hoạt động khởi động càng đa dạng thì sẽ luôn tạo nên những bất ngờ, thú vị cho HS. Vì thế người học sẽ không còn cảm giác lo lắng, căng thẳng... như khi GV kiểm tra bài cũ. Muốn như vậy, hoạt động khởi động cần tạo ra mâu thuẫn trong nhận thức cho học trò. Đây là tiền đề để thực hiện một loạt các hoạt động hình thành kiến thức, tìm tòi, giải quyết vấn đề. Và tất nhiên giáo viên phải là người có ý tưởng, phải thật khéo léo gợi mở vấn đề của bài học, kích thích trí tò mò và tạo hứng thú cho các em học sinh. Giáo viên có thể sử dụng các ứng dụng phần mềm trò chơi. Nhiều phần mềm trò chơi có kết hợp âm thanh và hình ảnh sinh động sẽ góp phần thu hút và tạo hứng thú cho HS. Rất nhiều trò chơi ngoài mục đích giải trí còn có thể giúp HS ôn tập kiến thức cũ hoặc dẫn dắt các em vào hoạt động tìm kiếm tri thức mới một cách tự nhiên, nhẹ nhàng. Hoặc có những trò chơi giúp các em vận động tay chân khiến cho cơ thể tỉnh táo, giảm bớt những áp lực tâm lý do tiết học trước gây ra. Giáo viên có thể vào bài mới qua việc tổ chức các trò chơi nhanh như: Đuổi hình bắt tác phẩm, Giải ô chữ, Vòng quay kì diệu, Ai nhanh hơn, Thi tài hiểu biết… - Chuẩn bị: Ở hoạt động khởi động bài học, giáo viên chuẩn bị máy tính, máy chiếu, một số hình ảnh, đoạn phim, đĩa nhạc ... (nếu không có máy móc công nghệ thì giáo viên có thể in sẵn một số hình ảnh) liên quan đến bài học. Sau đó thiết kế một số câu hỏi và đáp án về những vấn đề thuộc phạm vi kiến thức của bài học. - Cách thực hiện: + Hoạt động của giáo viên: GV nêu câu hỏi, cho học sinh xem hình ảnh, đoạn phim liên quan đến bài học ( nếu là video GV phải dự kiến thời gian trình chiếu video cho phù hợp).Sau thời gian suy nghĩ, học sinh đưa ra câu trả lời, giáo viên định hướng, nhận xét. Kết thúc hoạt động, giáo viên đánh giá, biểu dương tinh thần trả lời câu hỏi và có thể ghi điểm cho học sinh nào có câu trả lời đúng, ấn tượng. Từ đó dẫn vào bài mới. + Hoạt động của HS: HS xem hình ảnh, đoạn phim suy nghĩ hoặc trao đổi nhóm tùy theo yêu cầu của GV, trả lời câu hỏi về một vấn đề liên quan đến chủ đề bài học. Ví dụ 1: Khởi động bài “Ca dao yêu thương, tình nghĩa” bằng việc tổ chức HS tham gia trò chơi “Đuổi hình bắt tác phẩm”. Cách thức tổ chức: Trên máy chiếu sẽ hiện ra các hình ảnh là các gợi ý liên quan đến các bài ca dao: - Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai - Tay nâng chén muối đĩa gừng Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau 12
  13. - Nhớ ai bổi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa như ngồi đống than HS nhìn hình để đọc ra các bài ca dao. Đây đều là các bài ca rất quen thuộc và gần gũi với các em, cùng nói về chủ đề yêu thương nghĩa tình. Thông qua tổ chức trò chơi trên mà GV định hướng HS tìm hiểu nội dung bài mới một cách đầy hứng thú. Ví dụ 2: bài “Tấm Cám” (Ngữ văn 10), GV có thể tiến hành hoạt động khởi động bằng hình thức cho HS xem tranh và đoán tên truyện. Các truyện “Thạch Sanh”, “Em bé thông minh”, “Sọ dừa”, “Ông lão đánh cá và con cá vàng” đều là những truyện cổ tích các em đã được học từ cấp 2. Do vậy, sau khi học sinh đoán tên các truyện trên, GV yêu cầu Hs thảo luận nhóm bàn khoảng 2 phút và trả lời câu hỏi: ? Em hãy kể tên một số kiểu nhân vật quen thuộc thường xuất hiện trong truyện cổ tích (Đáp án: nhân vật bất hạnh, nhân vật dũng sĩ, nhân vật có tài năng kì lạ, nhân vật thông minh và nhân vật ngốc nghếch, nhân vật là động vật, con vật…) Các hình ảnh được sử dụng: (Tranh 1: Ông lão đánh cá và con cá vàng) (Tranh 2: Em bé thông minh) 13
  14. (Tranh 3: Thạch Sanh) (Tranh 4: Tấm Cám) Với hình thức khởi động này, GV đã giúp HS nhớ lại một thể loại của loại hình văn học dân gian (truyện cổ tích) mà các em đã được học. Từ đó, HS tiếp cận bài học mới được dễ dàng và hiệu quả hơn. 14
  15. Ví dụ 3: Khởi động bài “Truyện An Dương Vương và Mỵ Châu – Trọng Thủy”, GV cho HS xem video phim tư liệu “Đền Cuông – cội nguồn truyền thuyết An Dương Vương”. HS xem video phim tư liệu và trả lời câu hỏi: Qua đoạn video vừa xem, em có thêm hiểu biết gì về nguồn gốc ra đời của truyền thuyết – một thể loại văn học dân gian? Như vậy, để thực hiện các hoạt động khởi động bài học như trên, giáo viên đã vận dụng các phương pháp pháp dạy học tích cực như: - Phương pháp dạy học nhóm (học sinh trao đổi thảo luận với bạn rồi đưa ra ý kiến) - Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình (học sinh nghiên cứu cụ thể 1 nhân vật văn học đã biết đến). - Phương pháp giải quyết vấn đề (động não, suy nghĩ và giải quyết các câu hỏi/ bài tập tình huống mà giáo viên đưa ra) 1. Tổ chức hoạt động nhóm trong giảng dạy văn học dân gian nhằm phát huy tính tích cực, chủ động cho học sinh. Để giúp HS chủ động tiếp thu kiến thức, GV có thể sử dụng nhiều phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực. Trong đó, phương pháp hoạt động nhóm đem lại hiệu quả khá cao. Dạy học nhóm nếu được tổ chức tốt sẽ phát huy được tính tích cực, tính trách nhiệm, phát triển năng lực cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp, thuyết trình của học sinh. Trong hoạt động hợp tác nhóm, học sinh phải nhận thấy được trách nhiệm giải quyết nhiệm vụ chung của mình. Vì vậy các thành viên của nhóm phải gắn kết với nhau theo cách nghĩ mỗi cá nhân cũng như toàn nhóm chỉ có thể thành công nếu cố gắng hết sức mình. Nếu một bạn nào trong nhóm không hoàn thành thì chắc chắn nhiệm vụ của cả nhóm sẽ không hoàn thành. Vì vậy, ngay từ đầu tôi xác định rõ cho các em hiểu được trách nhiệm của mình trong nhóm học tập là: thực hiện nhiệm vụ được giao - đảm bảo các thành viên trong nhóm mình đều hoàn thành nhiệm vụ được giao (bạn nào xong trước thì cùng hỗ trợ cho bạn mình để nhiệm vụ của nhóm được hoàn thành, nhắc các bạn cùng tham gia thảo luận). Để kích thích sự hứng thú ở học sinh, bản thân tôi đã sử dụng nhiều kĩ thuật chia nhóm khác nhau để tránh sự nhàm chán: Chia nhóm theo nhân vật văn học, nhóm Họa sĩ, nhóm Hùng biện, nhóm nhà thơ, nhóm cùng tháng sinh, cùng sở thích…. Dù hình thức tổ chức nhóm cặp hay nhóm bàn, nhóm lớn, giáo viên cũng phải tuân thủ cách thức tổ chức hoạt động nhóm theo qui trình 5 bước cơ bản sau: + Bước 1: GV nêu nhiệm vụ, có thể chiếu câu hỏi lên máy chiếu (nếu không có máy chiếu có thể dùng bảng phụ) + Bước 2: Giao nhiệm vụ cho học sinh thảo luận. + Bước 3: Bao quát, kiểm tra quá trình hoạt động của học sinh. + Bước 4: Các nhóm báo cáo kết quả, nhận xét, bổ sung. 15
  16. + Bước 5: Giáo viên nhận xét, đánh giá – kết luận Như vậy, chúng ta có thể thấy phương pháp dạy học theo nhóm sẽ tránh được cách dạy học thụ động trước đây, học sinh sẽ phát huy được tính chủ động, sáng tạo. Học sinh tự khám phá, lĩnh hội kiến thức dưới sự dẫn dắt, hướng dẫn của thầy cô, các em có cơ hội sẻ chia kiến thức, trình bày trước lớp. Do vậy, giờ học sẽ rất sôi nổi, học sinh hứng thú. Các em nắm chắc kiến thức và ghi nhớ sâu, tránh được cách học vẹt, học hình thức trước đây. Và quan trọng hơn học sinh được rèn luyện thêm nhiều kĩ năng mềm, đặc biệt là kỹ năng thuyết trình, kỹ năng phản biện, kỹ năng hợp tác… Từ đó giúp các em phát triển toàn toàn diện cả năng lực và phẩm chất. Ví dụ: áp dụng phương pháp học nhóm vào giảng dạy bài “Ca dao than thân”. Mục tiêu của bài học là: giúp HS hiểu được thân phận, nỗi niềm của người phụ nữ, người nông dân ngày xưa; thấy được giá trị nghệ thuật của những hình ảnh so sánh, ẩn dụ và biểu tượng trong ca dao. Để đạt được mục tiêu trên, GV có thể tổ chức hoạt động nhóm như sau: * Hoạt động hình thành kiến thức: Nhóm 1: (tổ 1 và tổ 2) thảo luận tìm hiểu nội dung và nghệ thuật bài ca dao số 1, 2. Nhóm 2: (tổ 3 và tổ 4) thảo luận tìm hiểu nội dung và nghệ thuật bài ca dao số 3, 4. * Hoạt động luyện tập: Thảo luận nhóm bàn câu hỏi: Liệt kê những hình ảnh so sánh, ẩn dụ, biểu tượng của chùm ca dao trong bài học. Những hình ảnh này có phổ biến trong ca dao không? Vì sao? * Hoạt động vận dụng: GV giao nhiệm vụ cho nhóm tổ. Bài tập: Sưu tầm và viết đề cương giới thiệu chùm ca dao về chủ đề than thân. 3. Vận dụng hiệu quả phương pháp dạy học tích hợp trong giảng dạy văn học dân gian. Dạy học tích hợp liên môn là dạy học những nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học. "Tích hợp" là nói đến phương pháp và mục tiêu của hoạt động dạy học còn "liên môn" là đề cập tới nội dung dạy học. Đã dạy học "tích hợp" thì chắc chắn phải dạy kiến thức "liên môn" và ngược lại. Ở mức độ thấp thì dạy học tích hợp mới chỉ là lồng ghép những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học một môn học như: lồng ghép giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông... Mức độ tích hợp cao hơn là phải xử lí các nội dung kiến thức trong mối liên quan 16
  17. với nhau, bảo đảm cho học sinh vận dụng được tổng hợp các kiến thức đó một cách hợp lí để giải quyết các vấn đề trong học tập, trong cuộc sống, đồng thời tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau. Bằng phương pháp vận dụng linh hoạt, sáng tạo tri thức các ngành khoa học , GV đã dẫn dắt người học cùng tham gia khám phá, tìm hiểu tác phẩm thông qua hệ thống câu hỏi mở, có đích hướng của người dạy khiến bài giảng trở nên cuốn hút, lớp học trở nên sôi động, tác phẩm văn học được khai thác sâu, rộng. Hiệu quả của bài giảng không chỉ giúp người học thấy được giá trị của tác phẩm văn học mà còn thấy được giá trị văn hóa – xã hội – giáo dục, giá trị hiện đại, tính thời sự của nó, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Từ đó khẳng định sức sống mãnh liệt của văn học dân gian trong lòng dân tộc. Ví dụ: Khi giảng dạy truyện tổ tích “Tấm Cám”, Gv có thể tích hợp nhiều lĩnh vực khoa học với hệ thống các câu hỏi như sau: Tích hợp Câu hỏi của GV Dự kiến câu trả lời của Bài học/ Ý nghĩa môn học HS giáo dục Lịch sử địa Vì sao truyện có Cha mẹ đặt tên con dân Nhắc nhở cội nguồn: lý tên: “Tấm Cám”? dã, gần gũi đời sống nền văn minh lúa nước của dân tộc (tấm và cám nguồn gốc từ hạt lúa) Giáo dục 1. Vì sao Tấm bị - Tấm là con ghẻ - Sống phải tuân theo công dân/ ngược đãi? - Vì ích kỷ, ghét và coi pháp luật và có đạo Pháp luật 2. Vì sao mẹ con thường Tấm đức. Cám ngăn Tấm đi lễ - Bị lừa lấy hết cá, bị ăn - Cần phản ứng khi bị hội? mất cá bống, phải nhặt ngược đãi, không 3. Vì sao Tấm khóc? thóc, không có quần áo cam chịu bất công vô Diễn biến tâm lý của đi trảy hội. lý, cần có kỹ năng tự Tấm qua các lần bị bảo vệ bản thân. - Nhờ Bụt giúp đỡ. hại? - Ở hiền gặp lành 1.Vì sao Tấm đến được hội? Như vậy, chúng ta có thể thấy. nếu vận dụng tốt phương pháp dạy tích hợp, GV sẽ dẫn dắt học trò khai thác bài giảng được sâu sắc, đa diện, đa chiều, người học được khôn lớn, trưởng thành, giàu vốn sống hơn, biết cách ứng xử tình huống tốt hơn. Đây là định hướng mới và đúng đắn của nền giáo dục và đào tạo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập hiện nay. 17
  18. 4. Sân khấu hóa tác phẩm văn học dân gian – tăng cường các hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo coi trọng các hoạt động thực tiễn mang tính tự chủ của học sinh. Về cơ bản đây là hoạt động mang tính tập thể trên tinh thần tự chủ cá nhân. Khi dạy văn học dân gian, giáo viên có thể tăng cường các hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh bằng nhiều hình thức phong phú. Trong đó, sân khấu hóa các tác phẩm văn học dân gian là một hình thức trải nghiệm bổ ích, hấp dẫn, phát huy khả năng sáng tạo của học sinh thông qua việc các em được tự chọn lựa tác phẩm, được tham gia vào quá trình sáng tác kịch bản, được cùng đưa ra ý kiến thiết kế sân khấu... Sân khấu hóa tác phẩm chính là một hình thức đưa các tác phẩm văn học dân gian vào đời sống, giúp tác phẩm văn học dân gian gần gũi hơn các các em học sinh, giúp các em một lần nữa khắc sâu được kiến thức bài học. Sân khấu hóa văn học dân gian cũng giúp học sinh và giáo viên được đặt mình vào “trường sáng tạo” và “trường thưởng thức” các tác phẩm dân gian của nhân dân lao động, từ đó có cách cảm nhận, đánh giá tốt hơn về những giá trị của văn học dân gian. Ví dụ: - Thi tiếng hát dân ca: học sinh hát các làn điệu dân ca theo chủ đề tự chọn (dân ca quan họ Bắc Ninh, dân ca Nam Bộ, dân ca Bắc Bộ...) - Thi sáng tác ca dao, dân ca: học sinh tự sáng tác bài ca dao hoặc sáng tác các làn diệu dân ca (có thể dựa trên nền nhạc có sẵn – viết lời). - Đóng kịch: Tấm Cám, Mỵ Châu – Trọng Thủy. KỊCH TẤM CÁM CẢNH 1: TẤM KHÔNG ĐƯỢC ĐI XEM HỘI Nhạc dân gian nổi lên : HS phụ họa 1 vài động tác múa trong ngày hội. Năm cô thôn nữ (cùng nói một lúc, giọng háo hức vui vẻ): Hội làng đã mở rồi, mình đi xem hội các chị em ơi. (cười ) Thôn nữ 1: này các chị ơi. Mình gọi chị Tấm cùng đi nhé Thôn nữ 2: Nhưng giờ này chị Tấm còn phải băm bèo thái khoai, xay thóc giã gạo liệu có được đi xem hội không nhỉ? Thôn nữ 3: Khổ thân chị Tấm mồ côi, phải ở cùng dì ghẻ cay ghiệt, làm việc quần quật suốt ngày trong khi con Cám thì ăn trắng mặc trơn . Thôn nữ 4: Các chị có biết không, hôm nọ con Cám lừa gạt chị Tấm để cướp mất cái yếm đỏ đấy . Thôn nữ 5: mẹ con nó còn lừa Tấm đi chăn trâu đồng xa để bắt trộm, rồi làm thịt con cá bống mà chị Tấm yêu quí nhất đấy . Đúng là “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng ” 18
  19. Cám và dì ghẻ (vô tình đi qua nghe thấy bèn lên tiếng): Này này mấy chị kia, các chị lại to nhỏ nói xấu gì mẹ con tôi đấy hả? Thôn nữ bấm tay nhau ra hiệu đã nhìn thấy Cám , một người nói : Chúng tôi có nói gì đâu, chỉ là muốn đến rủ chị Tấm đi xem hội thôi Dì ghẻ (vừa bước đi vừa nói, giọng đầy nanh nọc): Ở đây làm gì có người đi hội, chỉ có người làm không hết việc. Cám (bước ra sân khấu, chỉ tay vào năm cô thôn nữ, giọng ngoa ngoắt): Này này các người kia! Con Tấm kia á: quần áo tứ thân chẳng có, nón ba tầm thì không, thử hỏi đến hội làm gì. Năm cô thôn nữ (giọng đã mất đi vẻ háo hức, dè dặt nói): Chị em chúng tôi cho mượn đây rồi! Cám (bĩu môi nguýt): Nhà tôi chẳng phải mượn ai sất! Đi hội đi hè, kéo bè kéo lũ, hứ! (dùng tay hất chiếc nón quai thao của mấy cô thôn nữ) Đàn đàn đúm đúm, nón nón quai quai! Tấm (đã xuất hiện từ trước, đến giờ chạy ra kéo Cám): Em! Đừng nói các chị ấy như thế Cám ơi! Dì ghẻ (kéo Cám về phía mình, chỉ tay vào mặt Tấm): Này, không được mắng em Cám. Con chỉ đua đòi theo chúng bạn! Ta có gì mặc nấy có kém ai. Đến nỗi nào phải mượn nón mượn quai! Con đến hội xem người hay khoe nón! Đừng làm người ta tưởng dì không cho con đủ cơm ăn áo mặc. Cám (nguýt dài nhìn Tấm): Ngữ ấy á, ăn mặc đẹp thì cũng uổng công! Có mây ngũ sắc nhuộm vào thì vẫn cứ là nhem nhuốc. Dì ghẻ (quay ra nói với các cô thôn nữ): Thôi, xin mời các cô đi trước! Lát ba mẹ con tôi sẽ đến hội sau. * Mục tiêu/Phương pháp/Kĩ thuật dạy học - Mục tiêu: + Những mâu thuẫn, xung đột giữa dì ghẻ và con chồng trong gia đình phụ quyền thời cổ, giữa thiện và ác trong xã hội. Sức sống mãnh liệt của con người và niềm tin của nhân dân được sân khấu hóa thông qua tác phẩm kịch “Tấm cám” + Kết cấu của vở kịch : người nghèo khổ, bất hạnh trải qua nhiều hoạn nạn cuối cùng được hưởng hạnh phúc. Sử dụng hợp lí, sáng tạo các yếu tố thần kì. - Phương pháp: Trực quan, đóng 01 vở kịch. * Hình thức tổ chức hoạt động: - GV: Yêu cầu học sinh chuẩn bị xây dựng nội dung và tập luyện vở kịch “Tấm Cám” 19
  20. + Chuẩn bị về trang phục diễn, âm thanh. + Phân vai cho từng nhân vật trong vở kich 1, Hà Phương trong vai Dì ghẻ. 2, Nhã Phương trong vai Cám. 3, Tú Anh trong vai Tấm 4, Ngân Anh, Phương Thúy, Ngọc Mai, Mai Anh, Lệ Bình trong vai 5 cô thôn nữ CẢNH 1: TẤM KHÔNG ĐƯỢC ĐI XEM HỘI Nhạc nổi lên → Các em chọn một bản nhạc có tính chất dân gian, dùng cho ngày hội. Năm cô thôn nữ (cùng nói một lúc, giọng háo hức vui vẻ): Hội làng đã mở rồi, mình đi xem hội các chị em ơi .(cười ) Thôn nữ 1: này các chị ơi. Mình gọi chị Tấm cùng đi nhé Thôn nữ 2: Nhưng giờ này chị Tấm còn phải băm bèo thái khoai, xay thóc giã gạo liệu có được đi xem hội không nhỉ? Thôn nữ 3 : Khổ thân chị Tấm mồ côi, phải ở cùng dì ghẻ cay ghiệt, làm việc quần quật suốt ngày trong khi con Cám thì ăn trắng mặc trơn . Thôn nữ 4: Các chị có biết không , hôm nọ con Cám lừa gạt chị Tấm để cướp mất cái yếm đỏ đấy . Thôn nữ 5: mẹ con nó còn lừa Tấm đi chăn trâu đồng xa để bắt trộm, rồi làm thịt con cá bống mà chị Tấm yêu quí nhất đấy . Đúng là “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng ” Cám và dì ghẻ (vô tình đi qua nghe thấy bèn lên tiếng): Này này mấy chị kia, các chị lại to nhỏ nói xấu gì mẹ con tôi đấy hử ? Thôn nữ bấm tay nhau ra hiệu đã nhìn thấy Cám , một người nói : Chúng tôi có nói gì đâu, chỉ là muốn đến rủ chị Tấm đi xem hội thôi Dì ghẻ (vừa bước đi vừa nói, giọng đầy nanh nọc): Ở đây làm gì có người đi hội, chỉ có người làm không hết việc. Cám (bước ra sân khấu, chỉ tay vào năm cô thôn nữ, giọng ngoa ngoắt): Này này các người kia! Con Tấm kia á: quần áo tứ thân chẳng có, nón ba tầm thì không, thử hỏi đến hội làm gì. Năm cô thôn nữ (giọng đã mất đi vẻ háo hức, dè dặt nói): Chị em chúng tôi cho mượn đây rồi! Cám (bĩu môi nguýt): Nhà tôi chẳng phải mượn ai sất! Đi hội đi hè, kéo bè kéo lũ, 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2