intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Đổi mới dạy học lịch sử địa phương lớp 11. Tìm hiểu khởi nghĩa Ba Đình

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:24

14
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài “Đổi mới dạy học lịch sử địa phương lớp 11. Tìm hiểu khởi nghĩa Ba Đình” nhằm mục đích giáo dục cho học sinh tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc. Từ đó sẽ hình thành cho các em nhân cách, ý thức xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước, bảo vệ cuộc sống bình yên của quê hương mình và có ý thức học tập, rèn luyện để vươn lên xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp, vững mạnh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Đổi mới dạy học lịch sử địa phương lớp 11. Tìm hiểu khởi nghĩa Ba Đình

  1. TRƢỜNG THPT HOÀNG LỆ KHA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỔI MỚI DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƢƠNG LỚP 11 TÌM HIỂU KHỞI NGHĨA BA ĐÌNH Ngƣời thực hiện: Ngô Thị Bình Chức vụ: Giáo viên SKKNthuộc lĩnh vực (môn): Lịch sử 1
  2. MỤC LỤC 1. MỞ ĐẦU……………………………………………………...................... ……1 1.1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………...1 1.2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………….2 1.3. Đối tƣợng nghiên cứu…………………………………………………………2 1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu……………………………………………………..2 2. NỘI DUNG………………………………………………………………………3 2.1. Cơ sở lý luận…………………………………………………………………..3 2.1.1. Khái niệm…………………………………………………………………....3 2.1.2. Mối quan hệ ………………………………………………………………...3 2.2. Thực trạng vấn đề trƣớc khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm………….... 4 2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề…………………………..…….5 2.3.1. Giải pháp 1: Xác định mục tiêu bài học lịch sử địa phương….……….......5 2.3.2. Giải pháp 2: Xác định nội dung bài học lịch sử địa phương ………..……6 2.3.3. Giải pháp 3: Xác định hình thức tổ chức bài học lịch sử địa phương tại thực địa……………………………..………………………………….………….16 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục………..16 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ………………………………………………...18 3.1. Kết luận………………………………………………………………………18 3.2. Kiến nghị……………………………………………………………………..19 2
  3. 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành trung ƣơng khóa XI (Nghị quyết số 29 – NQ/TW) với nội dung: “ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo” đã xác định mục tiêu của đổi mới lần này là tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lƣợng, hiệu quả giáo dục, đào tạo, đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con ngƣời Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nội lực, tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả... Trong những năm qua, vấn đề đổi mới dạy học lịch sử là một vấn đề lớn, thu hút sự quan tâm không chỉ ở ngƣời làm công tác giáo dục, các nhà sử học, mà ngay cả ở các cấp, các ngành, ở trung ƣơng và địa phƣơng cũng rất quan tâm đến đổi mới dạy học lịch sử. Tuy nhiên, một thực tế cho thấy, việc đổi mới dạy học lịch sử địa phƣơng ở trƣờng THPT hiện nay lại chƣa đƣợc chú ý và đầu tƣ. Hầu nhƣ việc giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh về lịch sử địa phƣơng chỉ dừng lại ở mức độ chiếu lệ. Mặc dù, chúng ta đều biết rằng, lịch sử địa phƣơng và lịch sử có mối quan hệ biện chứng không thể tách rời. Tri thức lịch sử địa phƣơng là biểu hiện cụ thể, sinh động và đa dạng của lịch sử dân tộc. Lịch sử địa phƣơng là một bộ phận cấu thành của lịch sử dân tộc. Nói cách khác, lịch sử dân tộc đƣợc hình thành trên nền tảng khối lƣợng tri thức lịch sử địa phƣơng đã đƣợc khái quát và tổng hợp ở mức độ cao. Bất cứ một sự kiện, hiện tƣợng lịch sử nào sảy ra cũng mang tính chất địa phƣơng vì nó gắn với một vị trí không gian cụ thể, một địa phƣơng nhất định, dù rằng các sự kiện đó có tính chất, quy mô và mức độ ảnh hƣởng khác nhau. Có sự kiện hiện tƣợng chỉ có tác dụng, ảnh hƣởng ở một phạm vi nhỏ hẹp, có sự kiện, hiện tƣợng mà tác động của nó vƣợt qua khung giới địa phƣơng, mang ý nghĩa quốc gia, thậm chí là quốc tế. Xuất phát từ thực tế trên, trong những năm học vừa qua, đƣợc phân công giảng dạy lịch sử địa phƣơng ở khối lớp 11- THPT, tôi luôn mong muốn nâng cao chất 3
  4. lƣợng dạy và học nên đã tìm tòi, nghiên cứu, đổi mới khi dạy, vì vậy, để khắc phục những hạn chế trong việc dạy học lịch sử địa phƣơng, đồng thời nâng cao hứng thú và hiệu quả dạy - học lịch sử địa phƣơng tôi đã thực hiện đề tài “ Đổi mới dạy học lịch sử địa phƣơng lớp 11. Tìm hiểu khởi nghĩa Ba Đình”. 1.2. Mục đích nghiên cứu Đề tài “Đổi mới dạy học lịch sử địa phƣơng lớp 11. Tìm hiểu khởi nghĩa Ba Đình” nhằm mục đích giáo dục cho học sinh tình yêu quê hƣơng, đất nƣớc, lòng tự hào dân tộc. Từ đó sẽ hình thành cho các em nhân cách, ý thức xây dựng và bảo vệ quê hƣơng, đất nƣớc, bảo vệ cuộc sống bình yên của quê hƣơng mình và có ý thức học tập, rèn luyện để vƣơn lên xây dựng quê hƣơng, đất nƣớc ngày càng giàu đẹp, vững mạnh. 1.3. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài “Đổi mới dạy học lịch sử địa phƣơng lớp 11. Tìm hiểu khởi nghĩa Ba Đình” là dạy - học lịch sử địa phƣơng lớp 11, thông qua việc tìm hiểu Khởi nghĩa Ba Đình cuối thế kỷ XIX. 1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài “Đổi mới dạy học lịch sử địa phƣơng lớp 11. Tìm hiểu khởi nghĩa Ba Đình” đƣợc nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luận khoa học duy vật biện chứng; dựa trên lí luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Chính phủ về công tác giáo duc. Phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể của đề tài là vận dụng các phƣơng pháp nghiên cứu của bộ môn: đọc, phân tích, so sánh, tổng hợp… tài liệu lịch sử, những tài liệu có liên quan đến Khởi nghĩa Ba Đình; đồng thời kết hợp với tìm hiểu thực tế ở địa phƣơng. 4
  5. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Khái niệm Địa phƣơng là những vùng đất nhất định nằm trong một quốc gia, có những sác thái, đặc thù riêng, là một bộ phận cấu thành của đất nƣớc. Khái niệm “ địa phƣơng” có thể hiểu theo hai khía cạnh cụ thể và trừu tƣợng.Với nghĩa cụ thể, có thể gọi địa phƣơng là những đơn vị hành chính nhƣ các làng, xã, huyện, tỉnh, thành phố. Với nghĩa trừu tƣợng, có thể gọi địa phƣơng là những vùng đất nhất định đƣợc hình thành trong lịch sử, có ranh giới tự nhiên để phân biệt với vùng đất khác. Lịch sử địa phƣơng chính là lịch sử của các làng, xã, huyện, tỉnh, thành phố hoặc lịch sử của vùng, miền. Bản thân lịch sử địa phƣơng rất đa dạng và phong phú về cả nội dung và thể loại. Đổi mới dạy học lịch sử địa phƣơng lớp 11 là cách giải quyết thông qua giảng dạy kiến thức tại thực địa để nâng cao chất lƣợng dạy và học lịch sử địa phƣơng ở lớp 11 THPT. 2.1.2. Mối quan hệ Mối quan hệ giữa lịch sử dân tộc và lịch sử địa phƣơng là mối quan hệ biện chứng, không thể tách rời, nằm trong cặp phạm trù “ cái chung và cái riêng ”. Tri thức lịch sử địa phƣơng là biểu hiện cụ thể, sinh động và đa dạng của lịch sử dân tộc. Lịch sử địa phƣơng là một bộ phận cấu thành của lịch sử dân tộc. Nói cách khác, lịch sử dân tộc đƣợc hình thành trên nền tảng khối lƣợng tri thức lịch sử địa phƣơng đã đƣợc khái quát và tổng hợp ở mức độ cao. Bất cứ một sự kiện, hiện tƣợng lịch sử nào sảy ra cũng mang tính chất địa phƣơng vì nó gắn với một vị trí không gian cụ thể, một địa phƣơng nhất định, dù rằng các sự kiện đó có tính chất, quy mô và mức độ ảnh hƣởng khác nhau. Giảng dạy lịch sử địa phƣơng có ý nghĩa quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục ở trƣờng THPT. Việc giảng dạy lịch sử địa phƣơng góp phần rèn luyện và phát triển năng lực học tập và nghiên cứu của học sinh. Trong trƣơng 5
  6. trình Lịch sử lớp 11 THPT, tôi chọn Khởi nghĩa Ba Đình để giảng dạy giúp các em thấy đƣợc sự phát triển đa dạng, sinh động, phức tạp và thú vị của lịch sử địa phƣơng; thấy đƣợc mối quan hệ chặt chẽ giữa lịch sử địa phƣơng với lịch sử dân tộc; thấy đƣợc mối quan hệ chặt chẽ giữa cuộc khởi nghĩa Ba Đình với phong trào Cần Vƣơng cuối thế kỷ XIX. Lịch sử địa phƣơng có những độc đáo, đặc thù riêng song vẫn phải tuân theo quy luật phát triển chung của lịch sử dân tộc và lịch sử nhân loại. 2.2. Thực trạng vấn đề trƣớc khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Trong việc dạy học lịch sử hiện nay, chúng tôi gặp không ít khó khăn, trong đó ngay cả những tiết dạy học lịch sử địa phƣơng có ý nghĩa quan trọng đối với việc cung cấp, bổ sung những kiến thức khoa học về tự nhiên, xã hội của quê hƣơng trên mọi lĩnh vực. Nhƣng tiếc rằng trong nhiều năm qua những tiết học về lịch sử địa phƣơng chƣa đƣợc chú trọng, thậm chí có trƣờng còn xem là giờ phụ có thể dạy, hoặc bỏ qua. Do quan niệm khác nhau nên nhiều ngƣời chƣa coi trọng lịch sử địa phƣơng mặc dù trong chƣơng trình dạy môn lịch sử không thể thiếu mảng kiến thức này. Từ thủa bé thơ mỗi chúng ta đều biết về con ngƣời, cảnh vật, quá khứ nơi chôn rau, cắt rốn của mình. Những câu hát ru, những câu chuyện cổ tích của bà, của mẹ, của chị luôn có một phần không nhỏ nói về quê hƣơng, nó đã sớm in sâu vào tâm trí trẻ em, làm tăng thêm lòng yêu quê hƣơng da diết và là tri thức ban đầu về quê hƣơng. Dựa trên nền tảng đó chúng ta mới có thể giáo dục, hình thành cho các em lòng yêu quê hƣơng, đất nƣớc, lòng tự hào dân tộc và ý thức xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc. Thanh Hóa là một tỉnh lớn, có truyền thống văn hóa và bề dày lịch sử lâu đời, oanh liệt, gắn liền với lịch sử chung của dân tộc. Nhà sử học Phan Huy Chú khi viết về Thanh Hóa đã khẳng định “ Mạch núi cao vót, sông lớn lƣợn quanh, biển ở phía đông…..Vẻ non sông tƣơi tốt chung đúc nên sinh ra nhiều bậc vƣơng tƣớng, khí tinh hoa tụ họp lại, nên nảy sinh nhiều bậc nho văn. Đến những sản vật quý cũng khác mọi nơi. Bởi vì đất thiêng thì ngƣời giỏi, nên nẩy ra những bậc phi thƣờng, vƣơng khí 6
  7. chung đúc nên đứng đầu cả nƣớc.” (Lịch triều hiến chƣơng loại chí – Phan Huy Chú). Đất Thanh Hóa trải qua nhiều tên gọi khác nhau đến đời Lý đƣợc đổi tên thành Thanh Hóa. Theo sách Dƣ địa chí, Thanh Hóa là vùng địa lý thuận lợi, hình thể tốt có thể xem nhƣ yết hầu của đất nƣớc. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa khiến Thanh Hóa thuận lợi trở thành nơi xƣng vƣơng, dựng nƣớc. Liên tiếp các triều vua, chúa xuất phát từ đất Thanh. Theo thống kê thì từ thời Văn Lang cho đến khi kết thúc chế độ phong kiến cuối cùng là triều Nguyễn với vua Bảo Đại thì Thanh Hóa chính là khởi nguồn của nhiều dòng vua, chúa nhất nƣớc vì vậy nên mới có câu “Vua xứ Thanh”. Là vùng đất “địa linh” chúng ta còn có rất nhiều các cuộc khởi nghĩa lớn, với nhiều anh hùng dân tộc: Kháng chiến chống Tống dƣới sự chỉ huy của Thập đạo tƣớng quân Lê Hoàn; Khởi nghĩa Lam Sơn dƣới sự chỉ huy của anh hùng dân tộc Lê Lợi; Khởi nghĩa Ba Đình dƣới sự chỉ huy của Phạm Bành, Đinh Công Tráng…; rồi trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ chúng ta càng tự hào với những chiến thắng làm nức lòng ngƣời: Đò Lèn còn đó, Hàm Rồng – Nam Ngạn còn đây…; và những tấm gƣơng hy sinh anh dũng để bảo vệ nền độc lập của tổ quốc: anh Tô Vĩnh Diện, anh Lê Mã Lƣơng, chị Ngô Thị Tuyển... Vì lẽ đó, không có lý do nào để chúng ta - những ngƣời dạy lịch sử lại bỏ trống mảng này. Cá nhân tôi cho rằng, với nguồn tƣ liệu lịch sử địa phƣơng hết sức phong phú nhƣng với bốn tiết trong phân phối chƣơng trình ba năm THPT và lớp 11 chỉ có một tiết quả là quá ít. Vậy nên, chúng ta cần phải tận dụng triệt để thời gian và càng không thể bỏ qua mà không dạy. Bởi vì, chúng ta có rất nhiều điều cần giảng dạy cho các em và các em cũng có nhiều điều chƣa biết, cần phải biết để làm hành trang cho các em vững bƣớc xây dựng, phát triển và bảo vệ quê hƣơng, đất nƣớc. 2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề 2.3.1. Giải pháp 1: Xác định mục tiêu bài học lịch sử địa phương lớp 11 Tìm hiểu chuyên đề lịch sử địa phƣơng: Đổi mới dạy học lịch sử địa phƣơng lớp 11. Tìm hiểu khời nghĩa Ba Đình cần xác định những mục tiêu cơ bản sau: * Về kiến thức: hƣớng dẫn học sinh tìm hiểu và nắm vững: 7
  8. + Tình hình Thanh Hóa trƣớc cuộc khởi nghĩa Ba Đình. + Vị trí địa lý của Ba Đình. + Kỹ thuật đào đắp và bố trí hào lũy ở căn cứ Ba Đình. + Cách tổ chức và sử dụng lực lƣợng trong khởi nghĩa Ba Đình. + Bài học kinh nghiệm của khởi nghĩa Ba Đình. + Đóng góp xây dựng và chiến đấu của nhân dân Hà Trung trong cuộc khởi nghĩa Ba Đình. * Về kỹ năng: Giúp học sinh biết sƣu tầm, nghiên cứu, sử dụng tài liệu truyền thống dân tộc, địa phƣơng vào học tập và đời sống. * Về thái độ: + Giáo dục tƣ tƣởng, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ cho học sinh. + Khơi dậy cho các em tự hào về những chiến công của cha ông mình ngay trên quê hƣơng mình; tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất trong đấu tranh, tự hào về chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong xây dựng và sản xuất. + Giáo dục các em có ý thức thừa kế, giữ gìn và phát huy truyền thống của địa phƣơng và dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay. 2.3.2. Giải pháp 2: Xác định nội dung bài học lịch sử địa phương lớp 11 - Khởi nghĩa Ba Đình. Để bài học lịch sử địa phƣơng lớp 11: “ Khởi nghĩa Ba Đình ” thành công, giáo viên cần chú ý hƣớng dẫn học sinh nắm vững những vấn đề trọng tâm của cuộc khởi nghĩa. 2.3.2.1.Tình hình Thanh Hóa trước cuộc khởi nghĩa Ba Đình Vào cuối thế kỷ XIX, triều đình phong kiến nhà Nguyễn lâm vào khủng hoảng, suy vong và trở thành miếng mồi ngon của các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây đang khao khát thuộc địa. Ngày 01-09-1858, thực dân Pháp bất ngờ tấn công vào bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), rồi tiếp tục đánh chiếm 6 tỉnh Nam Bộ. Sau khi chiếm xong các tỉnh phía Nam , thực dân Pháp tìm mọi cách tấn công ra phía Bắc. Từ năm 1873 đến năm 8
  9. 1883, Pháp liên tục tiến đánh và chiếm miền Bắc. Sau khi thành Hà Nội thất thủ, quan quân triều đình nhà Nguyễn kẻ hàng, ngƣời trốn, có những thành nhƣ Phủ Lý, Ninh Bình, có đến hàng ngàn quân canh giữ, nhƣng chỉ cần 5 - 6 tên lính Pháp đã hạ đƣợc thành. Năm 1883, 1884, Triều đình nhà Nguyễn đã phải chấp nhận đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp, nƣớc ta từ nƣớc phong kiến độc lập trở thành nƣớc nửa thuộc địa nửa phong kiến. Thanh Hóa là tỉnh thuộc Trung kỳ, hƣởng chế độ cai trị do quan lại cấp tỉnh vẫn tiếp tục cai trị nhƣ trƣớc. Nhƣng thực tế Pháp đã dọn đƣờng cho bọn công sứ mở rộng quyền lực. Chính quyền thực dân phong kiến huy động tối đa lực lƣợng phản động tập trung tại Thanh Hóa để đàn áp và nô dịch nhân dân. Chính quyền thực dân phong kiến còn tăng cƣờng lực lƣợng quân sự tại Thanh Hóa với một sƣ đoàn đóng tại Kép, một lữ đoàn bộ binh phụ trách Thanh Hóa. Từ sau Hiệp ƣớc ngày Hác – măng, Pa- tơ- nốt (1883, 1884), triều đình nhà Nguyễn bị phân hóa thành 2 bộ phận: bộ phận chủ hòa và bộ phận chủ chiến. Bộ phận chủ hòa đã trở thành tay sai đắc lực cho thực dân Pháp. Bộ phận chủ chiến đứng đầu là Tôn Thất Thuyết đã tập hợp lực lƣợng, phát động nhân dân các nơi trong nƣớc đứng lên chống thực dân Pháp xâm lƣợc. Năm 1885, sau khi kinh thành Huế thất thủ, Tôn Thất Thuyết đƣa vua Hàm Nghi lên chiến khu Tân Sở (Quảng Trị), ra Chiếu Cần Vƣơng, kêu gọi toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc. Phong trào Cần Vƣơng do các văn thân, sỹ phu yêu nƣớc lãnh đạo phát triển mạnh mẽ, đƣợc nhân dân trên khắp cả nƣớc hƣởng ứng. Chiếu Cần Vƣơng đã mở ra một giai đoạn mới trong phong trào chống Pháp của nhân dân Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Hƣởng ứng Chiếu Cần Vƣơng, phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc của nhân dân cả nƣớc diễn ra sôi sục. Lúc này phong trào ở Thanh Hóa phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các huyện, lôi cuốn những văn thân có tiếng nhƣ: Tuần Bát Nô; bố chính Nguyễn Xuân Quỳnh; Tổng đốc Lê Văn Rạng; tiến sỹ Tống Duy Tân; đốc học Phạm Bành; quan huyện Hoàng Bật Đạt; Cử nhân Lê Khắc Thảo, Hà Văn Mao vv... 9
  10. Tôn Thất Thuyết cho rằng, Thanh Hóa là yết hầu giữa miền Trung và miền Bắc, là một vị trí chiến lƣợc quan trọng, hình mạch hƣớng vào, thế lớn nhóm lên, có đủ ba điều lợi cho việc dấy binh tụ nghĩa, mở mang nghiệp lớn, chống giặc cứu nƣớc. Biết Đinh Công Tráng là một tƣớng giỏi thao lƣợc, nhiều mƣu kế, đã từng đánh Pháp ở Hà Nam, Ninh Bình và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, Tôn Thất Thuyết đã mời ông vào Thanh Hóa bàn quốc sự. Đến cuộc họp ở chùa Trang Các, Phủ Tống Sơn (huyện Hà Trung ngày nay) vào tháng 3 - 1886, Trần Xuân Soạn đã phân tích cái lợi, cái hại và quyết định lập căn cứ Ba Đình và ông khẳng định "Ngƣời giữ vùng này, ngoài Đinh Công Tráng không ai đảm nhiệm nổi". Thế là Đinh Công Tráng, Phạm Bành, Hoàng Bật Đạt,… đƣợc giao trọng trách xây dựng, bảo vệ vị trí trọng yếu này trong thế trận chung, nhằm biến Thanh Hóa thành một căn cứ kháng chiến vững chắc cho cả nƣớc. 2.3.2.2. Cuộc khởi nghĩa Ba Đình * Vị trí địa lí của Ba Đình Ba Đình là một xã đồng chiêm trũng thuộc huyện Nga Sơn, Tỉnh Thanh Hóa. Phía Bắc giáp Nga Vịnh, phía Nam giáp Nga Thắng, phía Đông giáp Nga Văn, phía Tây giáp huyện Hà Trung. Cách Ba Đình 3km về phía Đông Nam là núi Sa Liễn (núi Sến), xa hơn chút nữa là núi Chiêm Ba, Tam Linh, núi Vân Hoàn nằm bên bờ sông Lèn và bến Thắm, phía Tây có núi Giao Thụy, phía Đông Bắc là dẫy núi Tam Điệp hiểm trở nhƣ bức tƣờng thành. Căn cứ Ba Đình đƣợc xây dựng trên địa bàn ba làng Mỹ Khê, Thƣợng Thọ, Mậu Thịnh. Vào mùa mƣa, căn cứ này trông nhƣ một hòn đảo nổi giữa cánh đồng nƣớc mênh mông, tách biệt với các làng khác. Căn cứ này gọi là Ba Đình vì mỗi làng có một cái đình, từ đình làng này có thể nhìn thấy đình của hai làng kia. Mỗi làng chỉ có một con đƣờng độc đạo đi vào. * Kỹ thuật đào đắp và bố trí hào lũy ở căn cứ Ba Đình Để chuẩn bị chiến đấu lâu dài, Đinh Công Tráng đã họp các tƣớng lĩnh, trình bầy kế hoạch xây dựng căn cứ Ba Đình. Việc xây thành ông giao cho Đốc Khế chỉ 10
  11. huy. Việc huy động dân phu và nguyên liệu giao cho các tƣớng khác. Nhân dân ở các làng quanh Ba Đình bao gồm cả hai huyện Nga Sơn và Tống Sơn đã hết lòng ủng hộ nghĩa quân. Mỗi làng góp 30 cái rọ lớn cao 2m, 100 cây tre tƣơi còn nguyên cả cành và 10 gánh rơm để nghĩa quân xây dựng công sự. Nhân dân ba làng Mỹ Khê, Thƣợng Thọ và Mậu Thịnh đã nhƣờng lại nhà cửa, vƣờn tƣợc, chuyển đi ở nơi khác để nghĩa quân xây dựng căn cứ. Nhờ tinh thần yêu nƣớc và sự đóng góp to lớn của nhân dân, chỉ trong vòng một tháng, căn cứ Ba Đình đã đƣợc xây dựng thành một cụm cứ điểm chiến đấu hết sức kiên cố, bằng cách triệt để lợi dụng địa hình, địa vật, với một hệ thống công sự hầm, hào, thế trận chặt chẽ, liên hoàn, tập trung hỏa lực, phân tán binh lực, bí mật, bất ngờ. Điều đáng lƣu ý là ý thức đƣợc tính chất gay go, ác liệt của cuộc chiến đấu sắp tới, nghĩa quân đã tổ chức cho ngƣời già và trẻ em đi sơ tán ở những vùng phụ cận, nhằm tránh cho nhân dân những tổn thất không cần thiết. Bao bọc xung quanh căn cứ là luỹ tre dày đặc và một hệ thống hào rộng, rồi đến một lớp thành đất cao 3m, chân rộng từ 8-10m, thành rộng 400m, dài 1.200m, mặt thành có thể đi lại đƣợc. Trên mặt thành, nghĩa quân đặt các rọ tre đựng bùn trộn rơm. Phía trong thành có hệ thống giao thông hào dùng để vận chuyển lƣơng thực và vận động khi không chiến đấu, tải lƣơng thực, tiếp tế đạn dƣợc. Ngoài thành là 3 vòng hào lũy, vòng trong rộng khoảng 50m cắm chông ngầm bằng tre tƣơi đẽo vát, xiên về phía ngoài, làm vật cản hoặc sát thƣơng địch. Vòng giữa là lũy tre xanh dầy đặc gai góc, rậm rạp. Vòng ngoài cùng là một tầng cọc tre ngầm, đẽo nhọn và thả những cành tre, ngọn tre bùng nhùng nhƣ dàn mƣớp. Ở những nơi xung yếu đều có công sự vững chắc. Các hầm chiến đấu đƣợc xây dựng theo hình chữ "chi", nhằm hạn chế thƣơng vong. Lợi dụng ba ngôi đình có sẵn, nghĩa quân lập ba đồn tiền tiêu: Thƣợng Thọ có đồn Thƣợng, Mậu Thịnh có đồn Trung, Mỹ Khê có đồn Hạ. Ba đồn này có thể hỗ trợ tác chiến lẫn nhau khi bị tấn công,nhƣng cũng có thể độc lập tác chiến. Đầu mỗi làng đều xây dựng chốt gác kiên cố, có bãi chông mìn cẩn mật và súng thần công. Chốt một: Án ngữ con đƣờng phía tây từ Thạch Lễ vào làng Mỹ Khê. Chốt hai: Chặn 11
  12. đƣờng từ Sa Liễn, Nga Thôn, vào làng Mậu Thịnh. Chốt ba: Ngăn chặn từ Tuân Đạo, Điền Hộ từ phía đông và phía đông bắc vào làng Thƣợng Thọ. Các ngọn núi cao ở bên ngoài căn cứ đƣợc đặt các trạm gác và đồn tiền tiêu nhƣ: Trạm viễn vọng Nga Châu, trạm gác ở Xa Loan, Thổ trung ở phía đông, trạm Thanh Đồn, Tuân Đạo ở phía bắc, trạm Hang Giơi, núi Răng Cƣa (núi Tam Điệp) phía đông. Để đánh lạc hƣớng địch. Nghĩa quân ở các nơi đã tiến đánh, gây rối thu hút lực lƣợng quân Pháp, tạo điều kiện giữ bí mật cho nghĩa quân Ba Đình xây dựng căn cứ. Xây dựng xong thành lũy, Đinh Công Tráng cho mở cống Hói Cái. Nƣớc thủy triều dâng cao thì lấp cống lại. Ba Đình thành một pháo đài nổi lềnh bềnh giữa biển nƣớc mênh mông. Có thể nói, với cách xây dựng và bố phòng cẩn mật nhƣ vậy, căn cứ Ba Đình là căn cứ tiêu biểu nhất, một chiến tuyến phòng ngự quy mô nhất thời kỳ Cần Vƣơng cuối thế kỷ XIX. Bộ chỉ huy quân sự Pháp phải thực sự lo lắng khi tấn công vào cứ điểm đƣợc xây dựng vững chắc của Ba Đình. Pháp đã phải thừa nhận: Trong chiến dịch 1886 – 1887, cuộc công hãm Ba Đình là quan trọng nhất, cuộc chiến đấu này thu hút nhiều quân lực nhất và làm cho các cấp chỉ huy lo ngại nhiều nhất… Trong chiến đấu nghĩa quân Ba Đình không bị cô lập. Gần Ba Đình có các đội quân của Nguyễn Kiên đóng ở Bồ Giông, Mậu Yên, Trƣờng Phi Lai. Tống Duy Tân đóng ở Bồng Trung; Cao Điển đóng ở Sơn Thôn; Thanh Xá; Cầm Bá Thƣớc đóng ở Thƣờng Xuân; Trần Xuân Soạn đóng ở Thạch Đằng; căn cứ Mã Cao của Hà Văn Mao. Từ Ba Đình nghĩa quân có thể tỏa đi các nơi, chặn đánh các đoàn xe vận tải của địch và tập kích các toán lính hành quân đi qua gần căn cứ. * Cách tổ chức và sử dụng lực lƣợng chống Pháp trong khởi nghĩa Ba Đình Sau khi xây dựng căn cứ và tổ chức lực lƣợng. Ngày 18-8-1886 nghĩa quân tiến hành lễ thệ quân. Trong buổi lễ thệ quân, Trần Xuân Soạn thay mặt đức vua Hàm Nghi phong chức "Đề đốc chỉ huy sứ Bình Tây Đại Tƣớng Quân" và trao quyền thống lĩnh căn cứ địa Ba Đình cho tƣớng quân Đinh Công Tráng. Bên cạnh Đinh Công Tráng còn có nhiều thủ lĩnh tài giỏi khác tham gia và hỗ trợ khởi nghìa Ba Đình 12
  13. nhƣ: Phạm Bành, Hoàng Bật Đạt, Hà Văn Mao, Cầm Bá Thƣớc, Trần Xuân Soạn, Cao Điển, Tống Duy Tân,… Cùng với việc xây thành đắp lũy, kêu gọi nhân dân hƣởng ứng, giúp đỡ xây dựng căn cứ, vấn đề tổ chức lực lƣợng cũng đƣợc nghĩa quân hết sức chú ý. Đội ngũ chiến đấu đƣợc tuyển chọn kỹ lƣỡng từ những ngƣời trai tráng ở địa phƣơng và nhiều nơi khác: Nga Sơn, Tống Sơn ( Hà Trung ), Hậu Lộc, Hoàng Hóa,…Trong hàng ngũ nghĩa quân có cả con em các dân tộc Mƣờng, Thái…cũng hào hứng tham gia. Lúc đầu nghĩa quân Ba Đình chỉ độ 300 ngƣời, nhƣng sau đó đƣợc bổ sung thêm. Nhân dân Nga Sơn là một trong những nguồn bổ sung lực lƣợng đông đảo nhất cho nghĩa quân. Nghĩa quân chia làm 10 cơ đội, mỗi cơ đội có 30 tráng binh do một Hiệp quản và một Tắc vị phụ trách. Mỗi cơ đội gồm 3 toán, mỗi toán 10 tráng binh do một suất đội chỉ huy. Tùy theo tình hình và ý đồ tác chiến của bộ chỉ huy, các cơ đội và các toán tráng binh đƣợc phân công nhiệm vụ trên các chốt khác nhau, sẵn sàng chiến đấu hoặc chi viện cho nhau. Ngoài lực lƣợng chính kể trên, còn có hàng trăm ngƣời khác, trong đó có nhiều phụ nữ, thiếu niên làm công tác hậu cần, liên lạc, theo dõi tình hình, truyền đạt tin tức, mệnh lệnh trong hàng ngũ nghĩa quân và các mặt đảm bảo chiến đấu trong căn cứ Ba Đình và các vùng trong huyện. Để có sức chiến đấu cao, vấn đề kỷ luật đƣợc nghĩa quân thực hiện nghiêm túc, ngƣời chỉ huy kịp thời thƣởng phạt nghiêm minh, kỷ luật quan hệ với nhân dân luôn đƣợc nhắc nhở và đề cao. Chính vì vậy, nhân dân đã đoàn kết, tin tƣởng và hết lòng ủng hộ nghĩa quân. Bên cạnh đó, nghĩa quân luôn luôn đƣợc rèn luyện, tập dƣợt về chiến thuật và kỹ thuật chiến đấu, nhƣ sử dụng thành thạo và có hiệu quả hỏa mai, súng thần công, súng trƣờng, cung nỏ, giáo mác vv...Tinh thần thƣợng võ truyền thống của dân tộc đƣợc cổ vũ phát triển nhƣ: vật, côn, quyền. Công tác bảo mật, thông tin liên lạc trong và ngoài căn cứ đƣợc nghĩa quân nghiêm chỉnh chấp hành, ngƣời ra vào thành phải theo mật khẩu. Truyền đạt mệnh lệnh, tin tức trong ngoài do một đội quân tin cậy đảm nhiệm. Với ý đồ chiến đấu trong một thời gian dài, nghĩa quân đã thực hiện một phƣơng thức tác chiến đúng đắn, bố trí trận địa và điều động 13
  14. binh lực tích cực, linh hoạt. Nghĩa quân chọn Mậu Thịnh làm địa điểm đóng sở chỉ huy, Đồn Trung đƣợc đặt ở đây, do Đinh Công Tráng trực tiếp chỉ huy. Đồn Thƣợng đặt ở Thƣợng Thọ và Đồn Hạ ở Mỹ Khê. Từ các đồn binh quan trọng đó, một hệ thống hào giao thông tỏa ra các công sự trong và ngoài chiến lũy. Lúc thƣờng nghĩa quân đóng thành các cụm đƣợc quy định, khi địch đến, theo hệ thống hào chiến đấu, các cơ đội nhanh chóng vận động chiếm lĩnh trận địa, sẵn sàng tác chiến; quan sát theo dõi và nắm vững tình hình, khi cần thiết, các đồn có thể dùng tín hiệu trống, mõ (ban ngày) ánh lửa (ban đêm) để thông báo về sở chỉ huy. Để động viên tinh thần của binh sỹ trong chiến đấu, các thủ lĩnh nghĩa quân đã tổ chức thƣờng xuyên hai gánh hát chèo chia nhau đến các đồn, công sự để hát, động viên tinh thần quân sĩ. Ngay sau khi xây dựng xong căn cứ Ba Đình, nghĩa quân từ đây tỏa ra đánh địch ở quanh vùng, nhƣ Đồn Tam Cao, Ninh Bình, chặn đánh các đoàn quân vận tải trên đƣờng. Những hoạt động của nghĩa quân đã gây cho địch nhiều thiệt hại, các tuyến đƣờng giao thông của địch bị tê liệt. Những tin tức về hoạt động của nghĩa quân Ba Đình làm cho giặc Pháp hết sức lo ngại và chúng tìm mọi cách tiêu diệt bằng đƣợc căn cứ này. Sau khi tổ chức hai cuộc tấn công thăm dò, nắm tình hình, ngày 18-12-1886 quân Pháp mở cuộc tấn công quy mô lần thứ nhất vào Ba Đình. Lực lƣợng của địch đƣợc chia làm hai cánh: cánh quân thứ nhất do trung tá Métđanhgiê chỉ huy gồm 167 lính, có một cỗ đại bác 80ly yểm hộ tấn công từ phía tây nam, cánh quân thứ hai do trung tá Đốt chỉ huy có 350 lính tiến công từ phía đông bắc. Lần này, cả hai cánh quân của địch đều bị chặn đứng trƣớc những tay súng, tay cung thiện xạ của nghĩa quân. Nhiều tên bị tiêu diệt trƣớc chiến luỹ. Chúng phải dùng đại bác 80ly bắn chặn đƣờng truy kích của nghĩa quân để rút lui, cuộc tấn công lần thứ nhất của giặc Pháp vào căn cứ Ba Đình bị thất bại thảm hại. Rõ ràng, căn cứ Ba Đình nhƣ là một cái gai án ngữ hai miền Trung và Bắc mà bọn giặc Pháp cƣơng quyết phải nhổ. Cuối năm 1886, Pháp đã huy động về Ba Đình một số lƣợng tới 2.488 quân, thuộc đủ loại binh chủng, với nhiều sỹ quan cao cấp, 14
  15. trong đó có đại tá Brítxô, một sỹ quan lão luyện thạo nghề công thành của quân đội Pháp, sang chỉ huy mặt trận Ba Đình, với nhiệm vụ cụ thể là tiêu diệt toàn bộ lực lƣợng khởi nghĩa và đặc biệt phải tiêu diệt bằng đƣợc thủ lĩnh Đinh Công Tráng. Ngoài ra, chúng còn điều động các pháo hạm vào yểm trợ cho các đƣờng tiếp tế. Bọn phong kiến tay sai cung cấp cho Pháp 5.000 phu và 3 thuyền lớn để chuyên chở lƣơng thực. Bên cạnh đó, chúng lại đƣợc "cha Sáu" (tức Trần Lục) thông thạo địa hình, bày mƣu tháo cạn nƣớc cánh đồng Ba Đình và vạch kế hoạch đánh phá nghĩa quân. Lần này, bọn Pháp sử dụng chiến pháp sở trƣờng là: một trận tuyến, một vòng vây, tiến dần từng bƣớc sát vị trí nghĩa quân và tập trung lực lƣợng công phá. Ngày 6-1-1887, thực dân Pháp mở đợt tấn công lần thứ hai: Quân giặc chia làm 3 mũi tiến vào căn cứ sau một hồi pháo kích dữ dội. Lần này chúng tiến đƣợc sâu hơn trƣớc, nhƣng đến gần thành thì bị nghĩa quân chặn lại. Ở những nơi khác, quân địch bị sa lầy trong bùn nƣớc sâu, lại bị hỏa lực của nghĩa quân bắn rát nên rất hoang mang. Giặc Pháp phải tự thú nhận: "Tình cảnh của chúng ta ở Ba Đình lúc này đã đến mức không thể trông địch hàng, mà phải trông vào sự rộng lƣợng của họ, một khi chúng ta bại trận". Địch bị tổn thất nặng nề và phải lui quân. Sau trận đánh này, địch nhận thấy không dễ dàng tấn công chiếm lĩnh nhanh chóng trận địa của nghĩa quân. Tên chỉ huy Britxô cho bao vây nghĩa quân bằng 2 phòng tuyến, cắt đứt sự chi viện từ bên ngoài. Đồng thời xin tăng thêm viện binh và đại bác. Bọn thực dân Pháp ra lệnh cho Brítxô "phải tiêu diệt Ba Đình bằng mọi giá". Để thực hiện mục đích đó, Y tiến hành bao vây và lấn dần từng bƣớc, nhằm cô lập căn cứ, cắt đứt nguồn tiếp tế của nghĩa quân, ngày càng thắt chặt vòng vây. Ngày 15- 1-1887, Britxô hạ lệnh tấn công căn cứ. Quân địch lấy dầu phun lửa đốt cháy luỹ tre, cùng lúc tập trung đại bác bắn dồn dập vào căn cứ. Sáng ngày 20-1, toán công binh của địch đã tiến sát phòng tuyến thứ nhất của chiến luỹ tre bao quanh Ba Đình. Nhƣng chúng thấy "khó khăn vẫn còn lớn, những đƣờng hào đầy nƣớc và chơm chởm cọc tre vót nhọn thật sự tạo thành một rừng lao đáng sợ". Công binh Pháp đã phải tƣới dầu hỏa vào những cây tre bằng bơm chữa cháy rồi phóng hỏa, nhƣng chỉ một 15
  16. phần ít bắt lửa. Bọn địch dẫm bừa lên xác chết để xông vào. Cuộc chiến của Nghĩa quân Ba Đình trở nên vô cùng ác liệt, phải chống chọi với một đội quân đƣợc trang bị hiện đại, với số lƣợng đông hơn ít nhất là mƣời lần; bệnh dịch tả và kiết lỵ lại bắt đầu xuất hiện bên phía nghĩa quân do nguồn nƣớc bị ô nhiễm. Trƣớc tình hình trên, để tránh khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn, dành sức cho cuộc chiến đấu lâu dài tiếp theo, Phạm Bành và Đinh Công Tráng quyết định rút quân khỏi căn cứ Ba Đình. Đêm ngày 20-1-1887, trong màn sƣơng dày đặc, tiết trời giá rét, đội cảm tử do Đốc Khế chỉ huy bất ngờ tấn công các đồn địch ở phía trong và nghĩa quân do Trần Xuân Soạn chỉ huy cũng tấn công các đồn ngoại vi của chúng. Giữa lúc ấy, đại bộ phận nghĩa quân Ba Đình chia làm hai đội do Đinh Công Tráng và Phạm Bành chỉ huy theo hai hƣớng khác nhau thoát ra ngoài. Đội quân của Đinh Công Tráng rút theo hƣớng tây bắc đã vƣợt qua sông Hoạt, lên Hà Trung rồi về Ma Cao tiếp tục kháng chiến. Cánh quân của Phạm Bành vƣợt đƣợc về làng Gũ (Cự Thôn, Hà Trung) rồi tự phân tán về các địa phƣơng. Sáng ngày 21-1-1887, sau những đợt công phá dữ dội của đại bác, giặc Pháp mới dám vào căn cứ Ba Đình, khi tiếng súng của nghĩa quân đã im lặng từ lâu. Tên Brútxô đã trả thù một cách hèn hạ, ra lệnh triệt phá ba làng Thƣợng Thọ, Mậu Thịnh, Mỹ Khê. Cuộc chiến đấu ở Ba Đình Kết thúc với việc căn cứ Ba Đình và Mã Cao lần lƣợt thất thủ. Các thủ lĩnh đã anh dũng chiến đấu, hy sinh hoặc tự sát để giữ vững khí tiết. Thực dân Pháp cho ngƣời lùng bắt và đàn áp dã man tất cả những ai tham gia cuộc khởi nghĩa, bắt bọn phong kiến Nam triều xóa bỏ tên ba làng ra khỏi bản đồ Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa Ba Đình đã trở thành nỗi khiếp sợ, không chỉ của quân xâm lƣợc Pháp và bè lũ phong kiến tay sai ở mặt trận Ba Đình, mà còn chấn động tới tận sào huyệt của bọn thực dân xâm lƣợc ở chính quốc. * Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của cuộc khởi nghĩa Ba Đình Cuộc khởi nghĩa Ba Đình năm 1886-1887 là đỉnh cao của phong trào Cần Vƣơng chống thực dân Pháp xâm lƣợc cuối thế kỷ XIX ở Thanh Hóa. Cuộc khởi nghĩa Ba Đình tiếp tục tô đẹp thêm truyền thống vẻ vang của dân tộc ta trong chiến 16
  17. tranh chống xâm lƣợc. Đó là tinh thần yêu nƣớc nồng nàn, sức mạnh đoàn kết hùng hậu của các tầng lớp nhân dân, tinh thần chiến đấu kiên cƣờng, bất khuất trong cuộc chiến tranh vô cùng gian khổ, đầy hy sinh để bảo vệ độc lập dân tộc. Cuộc khởi nghĩa Ba Đình còn để lại những bài học vô cùng quý giá về trí thông minh, sáng tạo và nghệ thuật quân sự. Trên ý nghĩa chiến lƣợc, hình thức tác chiến làng xã đƣợc thể hiện đậm nét trong cuộc khởỉ nghĩa Ba Đình. Đó là hình thức tác chiến chủ yếu của nhân dân ta trong lịch sử giữ nƣớc, mà khởi nghĩa Ba Đình là một bƣớc phát triển mới, làng xã đƣợc tổ chức lại thành một hệ thống phòng thủ chặt chẽ, khoa học, đảm bảo kỹ thuật, phát huy đƣợc chiến thuật của nghĩa quân, hạn chế đƣợc binh khí, kỹ thuật hiện đại, nhất là phát huy tối đa tác dụng của vũ khí thô sơ. Cuộc khởi nghĩa Ba Đình là niềm vinh dự, tự hào và là nguồn cổ vũ, động viên lớn lao đối với các thế hệ ngƣời dân Nga Sơn, ngƣời dân Thanh Hóa, ngƣời dân Việt Nam, trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc trƣớc đây, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay. Cái tên Ba Đình không những không bị xóa, mà còn mãi mãi lung linh toả sáng trong lịch sử dân tộc Việt Nam. 2.3.2.3. Đóng góp xây dựng và chiến đấu của nhân dân Hà Trung (Tống Sơn) trong cuộc khởi nghĩa Ba Đình Trong cuộc khởi nghĩa Ba Đình nhân dân Hà Trung ( Tống Sơn ) đã có những đóng góp to lớn về nhân tài, vật lực để xây dựng và chiến đấu chống Pháp và tay sai. Nhân dân Hà Trung ( Tống Sơn ) đã tham gia xây dựng và đóng góp các vật liệu nhƣ: cọc, sọt, tre, rơm rạ…để góp phần xây dựng căn cứ Ba Đình kiên cố, vững chắc. Nhân dân Hà Trung ( Tống Sơn ) đã trực tiếp tham gia canh phòng, chiến đấu, ngăn chặn quân địch từ xa. Đặc biệt các thống lĩnh Hà Trung nhƣ: Lĩnh Toại, Lĩnh Tráng, Đốc Cả, Đốc Phong, Cai Mao…vừa tổ chức lực lƣợng bảo vệ các tuyến đƣờng để dân phu trong huyện vận chuyển vật liệu xây thành, vừa tranh thủ huấn luyện binh sĩ để cung cấp cho khởi nghĩa Ba Đình. 17
  18. Trong cuộc khởi nghĩa Ba Đình có sự đóng góp xây dựng căn cứ và chiến đấu dũng cảm của nhân dân Hà Trung ( Tống Sơn ). Sự đóng góp đó đã dấy lên thành một phong trào rộng lớn, mạnh mẽ và sôi nổi trên toàn huyện chống lại thực dân Pháp xâm lƣợc vào cuối thế kỷ XIX, khiến cho quân Pháp vô cùng khó khăn trong quá trình bình định Việt Nam. 2.3.3. Giải pháp 3: Xác định hình thức tổ chức: Bài học lịch sử địa phương lớp 11 tại thực địa Ba Đình, Nga Sơn, Thanh Hóa Trên cơ sở chƣơng trình giảng dạy, sinh hoạt ngoại khoá theo quy định của Bộ Giáo dục & Đào tạo và phần mềm phù hợp với tình hình của trƣờng THPT Hoàng Lệ Kha, Hà Trung, Thanh Hóa, giáo viên bộ môn, tổ chuyên môn lập kế hoạch và xin ý kiến của Ban giám hiệu nhà trƣờng, hội cha mẹ học sinh để thực hiện kế hoạch. Đồng thời kế hoạch dạy học lịch sử địa phƣơng lớp 11 tại thực địa Ba Đình, Nga Sơn, Thanh Hóa cần phối hợp với Đoàn thanh niên lồng ghép vào các hoạt động ngoại khóa. Thành lập các tổ ngoại khóa lịch sử địa phƣơng và tổ chức cho học sinh tham quan, dã ngoại… Xây dựng kế hoạch dạy học lịch sử địa phƣơng lớp 11 tại thực địa: Thứ nhất, xác định địa điểm ngoại khóa tại Ba Đình, Nga Sơn, Thanh Hóa; Thứ hai, phải lập dự trù kinh phí cho mỗi học sinh ( 45.000 VND / học sinh ); Thứ ba, phải cử ngƣời hƣớng dẫn liên hệ trƣớc; Thứ tƣ, phải trang bị cho học sinh kiến thức về khởi nghĩa Ba Đình; Thứ năm, phải yêu cầu học sinh sau khi tham quan viết bài thu hoạch nêu lên cảm nghĩ của mình… Thông qua bài học lịch sử địa phƣơng lớp 11 tại thực địa Ba Đình, Nga Sơn, Thanh Hóa và bài thu hoạch nêu lên cảm nghĩ của học sinh, Ban giám hiệu nhà trƣờng và giáo viên giảng dạy nắm đƣợc kết quả, chất lƣợng của phƣơng pháp dạy học lịch sử địa phƣơng, từ đó rút kinh nghiệm và tiếp tục đổi mới cho phù hợp. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục Trong tiết dạy học lịch sử địa phƣơng lớp 11 tại thực địa: Ba Đình, Nga Sơn, Thanh Hóa, bản thân tôi thấy rõ hiệu quả thực sự của việc dạy học lịch sử địa phƣơng tại 18
  19. thực địa. Đó là các em hào hứng sôi nổi học tập, chăm chú và thích thú. Các em bớt đi sự rụt rè, nhút nhát, phát huy đƣợc năng lực chủ động và sáng tạo, và vô cùng xúc động, tự hào về quê hƣơng mình. Sau khi dạy tiết lịch sử địa phƣơng lớp 11, thông qua bài thu hoạch của học sinh ở các lớp chỉ học lịch sử địa phƣơng lớp 11 tại lớp, với bài thu hoạch của học sinh ở các lớp đƣợc học lịch sử địa phƣơng lớp 11 tại thực địa: Ba Đình, Nga Sơn, Thanh Hóa, tôi thấy rõ kết quả khá chênh lệch. Cụ thể nhƣ sau: *KẾT QUẢ ĐIỂM KHẢO SÁT BÀI THU HOẠCH CỦA HỌC SINH LỚP 11 TRƢỜNG THPT HOÀNG LỆ KHA SAU KHI HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƢƠNG TẠI LỚP HỌC Tổng KẾT QUẢ XẾP LOẠI Khối lớp số học Giỏi Khá Trung bình Yếu sinh TS % TS % TS % TS % 3 6,7% 7 15,6 20 44,4 15 33,3% 11A1 45 % 2 4,8% 6 14,3 18 42,8 16 38,1% 11A3 42 % % *KẾT QUẢ ĐIỂM KHẢO SÁT BÀI THU HOẠCH CỦA HỌC SINH LỚP 11 TRƢỜNG THPT HOÀNG LỆ KHA SAU KHI HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƢƠNG TẠI THỰC ĐỊA BA ĐÌNH - NGA SƠN - THANH HÓA Tổng KẾT QUẢ XẾP LOẠI Khối lớp số học Giỏi Khá Trung bình Yếu sinh TS % TS % TS % TS % 15 32,6 17 36,9 12 26,2 2 4,3% 11A2 46 % % % 13 28,9 20 44,5 10 22,2 2 4,4% 11A4 45 % % % 19
  20. Nhƣ vậy, so với kết quả khi chƣa thực hiện đề tài “Đổi mới dạy học lịch sử địa phƣơng lớp 11. Tìm hiểu khởi nghĩa Ba Đình”, kết quả có thay đổi rõ rệt, tỉ lệ khá giỏi tăng, tỉ lệ trung bình, yếu giảm. Bên cạnh đó, kết quả khảo sát sau tiết dạy học lịch sử địa phƣơng lớp 11 tại thực địa: Ba Đình, Nga Sơn, Thanh Hóa, có tới 96 % học sinh thích học phần lịch sử địa phƣơng tại thực địa, học sinh cho rằng lịch sử là môn học bổ ích, các em cảm thấy thích học và yêu thích môn lịch sử; 4% học sinh còn lại cho rằng: Lịch sử là môn học bổ ích nhƣng khô khan, thiếu sinh động, quá nhiều mốc thời gian và khó nhớ. Kết quả nhƣ trên đã nằm ngoài dự kiến và mong muốn của ngƣời thực hiện đề tài. Mong rằng đề tài “Đổi mới dạy học lịch sử địa phƣơng lớp 11. Tìm hiểu khởi nghĩa Ba Đình” sẽ tiếp tục đƣợc thực hiện và khẳng định trong các năm học tiếp theo. 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận: Sáng kiến kinh nghiệm đƣợc rút từ thực tế giảng dạy lịch sử địa phƣơng ở lớp 11 -THPT, nó đã góp phần đổi mới phƣơng pháp dạy học lịch sử theo hƣớng tối ƣu, tích cực các hoạt động nhận thức của học sinh. Sáng kiến này đã chứng minh tính cần thiết và khả thi của việc sử dụng các di tích lịch sử ở địa phƣơng để dạy học lịch sử. Giáo viên lịch sử không nên xem nhẹ việc giáo dục học sinh bằng các di tích lịch sử, di tích cách mạng trên địa bàn. Mặc dù phần lớn hình ảnh, biểu tƣợng lịch sử này cũng chỉ đến với học sinh bằng con đƣờng tƣ duy trừu tƣợng, nhƣng những biểu hiện đó lại có ƣu thế đó là gần gũi hơn đối với các em về mặt không gian, về mặt nhận thức và về mặt tình cảm...Sâu thẳm trong tiềm thức ƣớc mơ của các em là một ngày nào đó, mình sẽ đƣợc nhìn thấy, mình sẽ đƣợc chiêm ngƣỡng tận mắt, mình sẽ đƣợc cầm nắm bằng cảm giác thực tế về các di tích lịch sử mà các thầy cô đã dạy cho mình. Đó cũng chính là cơ sở nền tảng cho các em nhận thức về lịch sử của dân tộc ta. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2