intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp góp phần quản lí có hiệu quả việc chuyển đổi số nhằm thúc đẩy, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở trường Trung học phổ thông hiện nay

Chia sẻ: Ngaynangmoi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:22

36
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài là đề xuất cấp trên đầu tư thêm nguồn hỗ trợ về cơ sở vật chất cho nhà trường; khi sử dụng hồ sơ điện tử thì giảm phần hồ sơ giấy; tăng cường mở rộng đối tượng dự họp trực tuyến.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp góp phần quản lí có hiệu quả việc chuyển đổi số nhằm thúc đẩy, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở trường Trung học phổ thông hiện nay

  1. MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ: .................................................................................................... 1 B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: ............................................................................. 3 1. Cơ sở lí luận: ...................................................................................................... 3 1.1. Khái niệm “chuyển đổi số” .......................................................................... 3 1.2. Nội dung cơ bản của “chuyển đổi số” trong giáo dục và đào tạo................ 3 1.3. Tầm quan trọng và lợi ích của chuyển đổi số trong sự thúc đẩy chất lượng giáo dục hiện nay trong đơn vị trường học ......................................................... 4 2. Cở sở thực tiễn: .................................................................................................. 6 2.1. Thực trạng “chuyển đổi số” trong giáo dục đào tạo hiện nay và ở trường trung học phổ thông ............................................................................................ 6 2.2. Kết quả tìm hiểu các bài viết, sáng kiến kinh nghiệm đã có ....................... 8 3. Các biện pháp cụ thể .......................................................................................... 9 3.1. Triển khai các chương trình học tập trực tuyến, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí hoạt động dạy học ................................................. 9 3.2. Thúc đẩy công tác xã hội hóa giáo dục, tìm nguồn tài trợ tích cực trang bị cơ sở vật chất và thiết bị hiện đại phục vụ cho ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và học tập ................................................................................ 12 3.3. Tổ chức lồng ghép tuyên truyền, khích lệ việc “chuyển đổi số” và ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, thực hành ........................................... 14 3.4. Tăng cường quản lí việc tổ chức tập huấn, hướng dẫn kĩ cho cán bộ, giáo viên, nhân viên về công nghệ thông tin ............................................................ 16 4. Kết quả ............................................................................................................. 17 C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ: ........................................................................ 20 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 21
  2. A. ĐẶT VẤN ĐỀ Nước ta hiện nay đang ở vào “giai đoạn bản lề” trong cuộc cách mạng công nghệ. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ đem đến đổi thay nhiều mặt của đời sống xã hội. Xã hội đi lên theo hướng hiện đại, một xã hội “mở”, xã hội tri thức, đòi hỏi con người phải phát triển toàn năng. Nếu như trước đây, tri thức phụ thuộc vào sách vở trong thư viện hay trí nhớ của con người, qua sự truyền đạt của người thầy thì ngày nay kỉ nguyên số không những mang đến nhiều khái niệm mới trong cuộc sống như internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, robotics, xử lý dữ liệu lớn… mà còn mang đến cho cộng đồng cơ hội chia sẻ, giao lưu, tiếp cận và đóng góp chung vào thành tựu văn minh nhân loại. Do đó, người học cần biết tận dụng lợi thế mà kỷ nguyên số mang lại với nguồn không gian và dữ liệu mở để có thể tiếp cận tri thức từ nhiều nguồn, kết nối những cái chưa biết và đã biết, truyền thống với hiện đại, góp phần đẩy mạnh xã hội học tập, mở rộng quan điểm sống, không gian, thời gian và phương pháp học tập. Thực tiễn năm học 2019 – 2020 và 2020 -2021, ngành giáo dục đứng trước những khó khăn chung như nhiều ngành thuộc lĩnh vực khác do ảnh hưởng của dịch covid – 19 kéo dài, thiên tai lũ lụt… Để đảm bảo duy trì hoạt động dạy học, một số trường ở các địa phương trong nước phải sử dụng hình thức dạy học online, dạy học trực tuyến, qua các phần mềm công nghệ thông tin. Đây là một trong lí do buộc chúng ta phải tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào nâng cao chất lượng hoạt động dạy học trong các nhà trường nói chung và bậc Trung học phổ thông nói riêng hiện nay. Đồng thời với điều đó, các nhà lãnh đạo phải nâng cao vai trò của mình trong công tác quản lí việc chuyển đổi số ở đơn vị trường học mình đảm trách. Để bắt kịp với yêu cầu và tiêu chuẩn thời đại, ngành giáo dục nói chung và các trường học nói riêng chú trọng đặc biệt đến việc phát triển chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo đội ngũ cán bộ, giáo viên và học sinh. Chỉ thị 32/CT-UBND của tỉnh Nghệ An ngày 19/09/2020 cũng đặt ra nhiệm vụ quan trọng cho các trường bậc Trung học phổ thông “là phải thúc đẩy chuyển đổi số, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục đào tạo, tập trung hoàn thiện chính sách phát triển phương thức giáo dục đào tạo trực tuyến, quản lí giáo dục trên môi trường mạng; phát triển kho học liệu số toàn ngành; triển khai hiệu quả hệ thống quản lí học tập qua mạng để bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lí theo phương thức thường xuyên, liên tục ngay tại nhà trường” và văn bản 1769/SGD&ĐT- GDTrH Nghệ An ngày 14/09/2020 nêu rõ nhiệm vụ của các nhà trường là phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy, học và quản lí giáo dục, thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo. Thực tiễn công tác quản lí dạy và học ở các trường phổ thông nói chung và quá trình trải nghiệm trong lĩnh vực quản lí trường học, tôi nhận thấy đối tượng học sinh – phụ huynh hiện nay có nhu cầu và đòi hỏi bức thiết về sự phát triển toàn 1
  3. diện, nhu cầu tiếp cận với khoa học kĩ thuật hiện đại. Vì thế, việc vận dụng công nghệ số vào giảng dạy và học tập là một quy luật phát triển tất yếu của thời đại. Chính từ những lí do đó, tôi chọn đề tài “Giải pháp góp phần quản lí có hiệu quả việc “chuyển đổi số” nhằm thúc đẩy, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở trường Trung học phổ thông hiện nay” 2
  4. B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lí luận: 1.1. Khái niệm “chuyển đổi số” Có nhiều định nghĩa khác nhau về chuyển đổi số (Digital transformation) nhưng có thể nói chung đó là chuyển các hoạt động của chúng ta từ thế giới thực sang thế giới ảo ở trên môi trường mạng. Theo đó, mọi người tiếp cận thông tin nhiều hơn, rút ngắn về khoảng cách, thu hẹp về không gian, tiết kiệm về thời gian. Chuyển đổi số là xu thế tất yếu, diễn ra rất nhanh đặc biệt trong bối cảnh của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) hiện nay. Wikipedia lại định nghĩa như sau: “Chuyển đổi số là một quá trình hoàn chỉnh áp dụng số hóa và ứng dụng số hóa nhưng ở một cấp độ cao hơn. Chuyển đổi số mô tả những chuyển đổi vô cùng lớn ở quy mô doanh nghiệp hay thậm chí là thị trường. Chuyển đổi số là một chuỗi những hoạt động thay đổi về cách thức vận hành và những việc làm cụ thể từ trước đến nay”. 1.2. Nội dung cơ bản của “chuyển đổi số” trong giáo dục và đào tạo Trong lĩnh vực giáo dục, chuyển đổi số sẽ hỗ trợ đổi mới Giáo dục & Đào tạo theo hướng giảm thuyết giảng và truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực người học, đồng thời tăng khả năng tự học, tạo cơ hội học tập mọi lúc, mọi nơi, cá nhân hóa việc học, góp phần tạo ra xã hội học tập và học tập suốt đời. Sự bùng nổ của nền tảng công nghệ IoT, Big Data, AI, SMAC (mạng xã hội - di động - phân tích dữ liệu lớn - điện toán đám mây) đang hình thành nên hạ tầng giáo dục số. Theo đó, nhiều mô hình giáo dục thông minh đang được phát triển trên nền tảng ứng dụng CNTT; hỗ trợ đắc lực việc cá nhân hóa học tập (mỗi người học một giáo trình và một phương pháp học tập riêng không giống với người khác, việc này do các hệ thống CNTT thực hiện tự động); làm cho việc truy cập kho kiến thức khổng lồ trên môi trường mạng được nhanh chóng, dễ dàng; giúp việc tương tác giữa gia đình, nhà trường, giáo viên, học sinh gần như tức thời. Chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục tập trung vào hai nội dung chủ yếu là chuyển đổi số trong quản lý giáo dục và chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu khoa học (NCKH). Trong quản lý giáo dục bao gồm số hóa thông tin quản lý, tạo ra những hệ thống cơ sở dữ liệu (CSDL) lớn liên thông, triển khai các dịch vụ công trực tuyến, ứng dụng các Công nghệ 4.0 (AI, blockchain, phân tích dữ liệu, ..) để quản lý, điều hành, dự báo, hỗ trợ ra quyết định trong ngành GDĐT một cách nhanh chóng, chính xác. Trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá gồm số hóa học liệu (sách giáo khoa điện tử, bài giảng điện tử, kho bài giảng e- learning, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm), thư viện số, phòng thí nghiệm ảo, triển 3
  5. khai hệ thống đào tạo trực tuyến, xây dựng các trường đại học ảo (cyber university). 1.3. Tầm quan trọng và lợi ích của chuyển đổi số trong sự thúc đẩy chất lượng giáo dục hiện nay trong đơn vị trường học Chuyển đổi số đang trở nên phổ biến trong xã hội hiện nay, mô tả việc ứng dụng công nghệ số vào tất cả các lĩnh vực. Trong đó có giáo dục; chúng ta có thể hiểu, chuyển đổi số trong giáo dục là sự thay đổi phương pháp dạy học, áp dụng công nghệ thông tin hiện đại vào dạy và học nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh sinh viên và giáo viên, giúp người dạy và người học phát huy tối đa khả năng tư duy, sáng tạo, chủ động. Việc chuyển đổi số trong giáo dục sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Nhờ có các thành tựu công nghệ như IoT (Internet Of Things - Internet vạn vật) giúp người quản lí tăng cường quản lý, giám sát hoạt động dạy học và các hoạt động khác của đơn vị. Từ đó có phương pháp hỗ trợ, tư vấn phù hợp đối với học sinh, Công nghệ số còn giúp chúng ta xây dựng hệ thống quản lý thông tin và hồ sơ giáo dục của giáo viên và học sinh; quản lý và chia sẻ dữ liệu từ nhiều trường học, ghi chép lại lịch sử học tập, bảng điểm của học sinh để đảm bảo thông tin dữ liệu được đồng nhất, minh bạch. Vào các kì tuyển sinh Đại học và Cao đẳng trên cả nước hay nước ngoài, một số trường đã kết nối và nhận dữ liệu về kết quả học tập của học sinh như học bạ điện tử. Hoặc những học sinh chuyển trường cũng có thể chuyển hồ sơ về trường mới theo kênh internet, điều đó tạo điều kiện vô cùng tiện lợi cho việc tiếp nhận, xử lí hồ sơ của bộ phận văn phòng trong nhà trường. Học sinh và phụ huynh cũng giảm được những thủ tục hành chính mất thời gian, độ chính xác của công việc cao, thời gian làm việc cũng nhanh hơn. Áp dụng chuyển đổi số còn góp phần tăng tính tương tác, tính thực hành - ứng dụng. Trong quá trình dạy học, thực hiện các thí nghiệm, thiết kế các mô hình cho bài học khoa học tự nhiên; đồng thời giúp cho người học có những trải nghiệm đa giác quan, dễ hiểu, dễ nhớ và gây tò mò, hứng thú cho người học, đồng thời tăng tính tương tác, thực hành và ứng dụng kiến thức ngay trong lớp học. Bên cạnh đó, công nghệ hiện đại còn đem đến không gian và thời gian học linh động, thúc đẩy giáo dục mở - bình đẳng – cá thể hóa. Thời gian gần đây, khóa học trực tuyến đại chúng mở (MOOC) bùng nổ với các tên tuổi lớn trên thế giới như: Udacity, Coursera, edX, Udemy, FutureLearn, tạo điều kiện cho người học tiếp thu kiến thức một cách linh động và thuận tiện mọi lúc, mọi nơi. Điều này thúc đẩy một nền giáo dục mở, giúp con người tiếp cận thông tin đa chiều, thu hẹp mọi không gian, tiết kiệm tối ưu về thời gian, từ đó phát triển nhanh về kiến thức, nhận thức và tư duy. Đặc biệt trong thời gian phòng chống dịch covid – 19 hiện nay, việc tạo ra những không gian học tập trực tuyến sẽ tạo điều kiện giúp học sinh tạm 4
  6. dừng đến trường nhưng không dừng học; đảm bảo quy định về phòng chống dịch an toàn, tránh lây nhiễm trong cộng đồng nếu thuộc địa bàn có người nhiễm vi rut. Đi kèm với giáo dục mở là tài nguyên học liệu mở, việc khai thác tài nguyên mở sẽ giúp giáo viên và học sinh kết nối kiến thức hiệu quả dù họ ở đâu và trong khoảng thời gian nào một cách nhanh chóng, tiện lợi, tiết kiệm thời gian, tiền bạc. Tài nguyên học liệu mở là một xu hướng phát triển tất yếu của nền giáo dục hiện đại. Đặc biệt, tài nguyên mạng còn giúp giáo viên và học sinh tải về và sử dụng các phần mềm dạy học, phần mềm kiểm tra, đánh giá năng lực của học sinh một cách chính xác và nhanh nhất. Sử dụng những đánh giá của người học kết hợp với việc phân tích các dữ liệu, giáo viên có thể áp dụng các thông tin mà họ có được để tiến hành điều chỉnh các kế hoạch giảng dạy. Học sinh có thể trả lời các câu hỏi của giáo viên thông qua các phần mềm, từ đó việc đánh giá khả năng của học sinh đạt độ chính xác cao hơn. Truy cập tài liệu học tập không giới hạn với kho học liệu trực tuyến khổng lồ, người dùng có thể truy cập vào các tài nguyên học tập một cách dễ dàng và ít tốn kém hơn. Mặc khác chuyển đổi số cũng giúp học sinh và giáo viên có thể khai thác học liệu nhanh chóng bằng các thiết bị trực tuyến mà không bị giới hạn bất kể tình trạng kinh tế của họ. Điều đó có nghĩa, sử dụng công nghệ giúp việc chia sẻ tài liệu, giáo trình, học sinh và giáo viên trở nên dễ dàng và tiết kiệm hơn do giảm thiểu được các chi phí về in ấn. Bên cạnh đó, việc học tập trực tuyến cũng giúp giảm tải giao thông công cộng, hạn chế tai nạn xe cộ; giảm thời gian và chi phí di chuyển; đồng thời tăng hiệu suất quản lí công tác của nhân viên văn phòng. Sự bùng nổ về công nghệ đã, đang và sẽ tạo ra những phương thức giáo dục mới, thông minh hơn, tiết kiệm chi phí hơn. Hiện nay, xu hướng chuyển đổi số trong giáo dục mang tính thay đổi sâu sắc vì con người. Hiện nay, phần mềm quản lý trường học đã được khá nhiều đơn vị trường học công lập đưa vào sử dụng. Những doanh nghiệp đào tạo và giáo dục tư nhân hiện tại có sử dụng các phần mềm để quản lý, dần dần được số hóa bằng những phần mềm quản lý trường học chuyên biệt hay phần mềm quản lý tài sản… Giúp học sinh dễ dàng tra cứu thông tin khi cần hoặc nhà quản lý, giáo viên có thể quản lý được thời khóa biểu, bảng điểm học sinh hay những thông tin liên quan. Chuyển đổi số giúp gia tăng tính tương tác và trải nghiệm thực tế cho người học thông qua phương pháp học face to face một - một với giáo viên hướng dẫn mà không bị giới hạn bởi không gian. Ngoài ra, việc ứng dụng thực tế ảo VR, thực tế tăng cường AR cũng tạo ra những trải nghiệm thực tế “thật” hơn, giúp người học có những trải nghiệm đa giác quan, tạo cảm giác tò mò, hứng thú hơn khi học tập. Chuyển đổi số mở ra một không gian tương tác thuận lợi và dễ dàng giúp mỗi người học có thể cùng trao đổi với các học viên khác, hay tham khảo những thông tin từ phía giáo viên tiện lợi,… Mọi vấn đề mà chúng ta thắc mắc, hay việc 5
  7. kết hợp học tập nhóm khi cần đều diễn ra thuận lợi và đạt kết quả lý tưởng như mong đợi. 2. Cở sở thực tiễn: 2.1. Thực trạng “chuyển đổi số” trong giáo dục đào tạo hiện nay và ở trường trung học phổ thông Thời gian vừa qua, đại dịch COVID-19 đã gây ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của cuộc sống, giáo dục đào tạo cũng không ngoại lệ. Tại Việt Nam, nhiều trường học đã áp dụng giảng dạy online trong suốt thời gian diễn ra dịch COVID-19. Các thầy cô cùng học trò đã nỗ lực biến thách thức thành cơ hội, từng bước thay đổi nhận thức về chuyển đổi số. Từ cấp Bộ đến các Sở, các trường học ở tất cả địa phương trên cả nước, các thầy giáo, cô giáo và học sinh luôn miệt mài mỗi ngày đồng hành với chiếc máy tính để thiết kế bài, chuẩn bị các tiết dạy – học online. Từ chỗ mù mờ về công nghệ, về dạy học trực tuyến, nhiều thầy giáo, cô giáo trở thành những giáo viên dạy online giỏi, sử dụng thành thạo các phần mềm như Zoom, Microsof, Class Shup... Đến nay, toàn ngành giáo dục đã chủ trương, xác định ứng dụng công nghệ thông tin là một trong chín nhóm nhiệm vụ trọng tâm triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 29 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản toàn diện Giáo dục & Đào tạo. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Đề án tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý giáo dục, hỗ trợ đổi mới dạy - học, nghiên cứu khoa học triển khai trong toàn ngành. Hàng loạt chính sách thúc đẩy chuyển đổi số giáo dục được ban hành, dần hoàn thiện hành lang pháp lý như các quy định ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý; mô hình ứng dụng công nghệ thông tin trường phổ thông, chuẩn dữ liệu kết nối. Theo kênh thông tin tại địa chỉ http://hvcsnd.edu.vn/nghien-cuu-trao- doi/dai-hoc-40/chuyen-doi-so-trong-linh-vuc-giao-duc-va-dao-tao-thuc-trang-va- giai-phap-6454 chúng ta có thể nắm bắt được những số liệu sau “Trong quản lý giáo dục, toàn ngành đã triển khai số hóa, xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung từ Trung ương đến 63 sở GDĐT, 710 phòng GDĐT và khoảng 53.000 cơ sở giáo dục. Hiện nay đã số hóa và định danh dữ liệu của khoảng 53.000 trường học, 1,4 triệu giáo viên, 23 triệu học sinh. Cơ sở dữ liệu này vừa qua đã hỗ trợ đắc lực công tác tuyển sinh và thống kê, báo cáo trong toàn ngành; giúp các cấp quản lý ban hành chính sách quản lý có hiệu quả, vừa qua đã góp phần giải quyết vấn đề thừa thiếu giáo viên ở các nhà trường theo từng địa phương, môn học. Khối phổ thông khoảng 82% các trường sử dụng phần mềm quản lý trường học, sổ điểm điện tử, học bạ điện tử và hầu hết các cơ sở giáo dục đại học đều sử dụng phần mềm quản trị nhà trường. Hệ thống quản lý hành chính điện tử kết nối 63 sở GDĐT và hơn 300 trường đại học, cao đẳng trên cả nước với Bộ GDĐT hoạt động thông suốt, ổn định, phát huy hiệu quả tích cực. 6
  8. Về dạy - học, giáo viên toàn ngành được huy động tham gia, đóng góp chia sẻ học liệu vào kho học liệu số toàn ngành; đóng góp lên Hệ tri thức Việt số hóa gần 5.000 bài giảng điện tử e-learning có chất lượng, kho luận văn tiến sĩ với gần 7.000 luận văn, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm với trên 31.000 câu hỏi…góp phần xây dựng xã hội học tập và đẩy mạnh học tập suốt đời. Về nhân lực số, ở bậc phổ thông, thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới, môn Tin học sẽ được đưa vào giảng dạy bắt buộc ngay từ lớp 3; giáo dục STEM được lồng ghép trong các môn học, gắn việc học của học sinh thông qua các hoạt động ứng dụng công nghệ để giải quyết các bài toán và hiện tượng trong cuộc sống. Trong giáo dục đại học, triển khai cơ chế đặc thù đào tạo nhân lực công nghệ thông tin, qua đó giúp các cơ sở đào tạo gia tăng cơ hội hợp tác với doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế để huy động các nguồn lực của xã hội tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực công nghệ thông tin, gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng nhân lực ở các doanh nghiệp và nhu cầu của xã hội”. Tuy vậy, chuyển đổi số ngành giáo dục đào tạo hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, tồn tại như trang thiết bị máy tính, camera, máy in, máy quyét, đường truyền, dịch vụ Internet cho nhà trường, giáo viên, học sinh - đặc biệt ở các vùng xa, vùng khó khăn – còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ, nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu cho chuyển đổi số (cả về quản lý giáo dục và dạy - học). Ngay ở đơn vị chúng tôi cũng chưa cung cấp máy móc hiện đại đủ cho các tiết dạy ứng dụng công nghệ thông tin của tất cả các môn học nên nhiều lúc dẫn đến lịch dạy vẫn bị trùng và chồng chéo. Vì thế, nhiều đồng chí giáo viên nản và thôi thì dạy chay cho kịp với tiến độ kế hoạch đã lên. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến hạn chế của việc thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông vào đổi mới phương pháp dạy học ở đa số trường Trung học phổ thông hiện nay. Bên cạnh đó, đội ngũ vẫn còn một bộ phận giáo viên nhiều tuổi, công tác lâu năm có hạn chế trong trình độ Tin học, chưa sử dụng thành thạo máy vi tính, lúng túng trong khai thác tài nguyên mạng, chưa biết cài đặt và sử dụng phần mềm hỗ trợ dạy học và kiểm tra đánh giá đối với môn Trắc nghiệm. Năng lực phần đa giáo viên không phải dễ dàng để thực hiện chuyên môn nâng cao và chuyên sâu như xây dựng hệ thống học liệu số. Các giáo viên trong đơn vị trường học chủ yếu dừng lại ở mức cập nhật, khai thác học liệu mạng, một số ít biết tìm tòi và sử dụng các phần mềm hỗ trợ dạy học và chấm bài kiểm tra. Đây thiết nghĩ cũng là một khó khăn đối với các trương học nói chung và trường chúng tôi nói riêng khi triển khai việc chuyển đổi số thúc đẩy học tập. Về phía học sinh, phụ huynh vẫn còn một bộ phận không nhỏ gia đình chưa có điều kiện lắp đặt và sử dụng mạng internet, chưa đủ điều kiện trang bị máy tính hay điện thoại thông minh nên dẫn đến các em không tham gia học online khi cần thiết phải tổ chức (như năm học 2019 - 2020); thậm chí học sinh cũng không truy cập các trang mạng xã hội để có thể nắm bắt thông tin liên quan đến việc học tập trong những giai đoạn xảy ra thiên tai bão lũ, dịch bệnh. 7
  9. Một trong những khó khăn nữa, đó là các đơn vị trường học chưa có đủ nhân lực (gồm cả nhân lực quản lý và nhân lực triển khai) cũng như tài chính để đảm bảo kho học liệu số đầy đủ, đạt chất lượng, đáp ứng yêu cầu học tập, nghiên cứu, tham khảo của học sinh. Có đi chăng nữa thì chúng tôi cũng chủ yếu dựa vào nhóm giáo viên dạy Tin học của trường và một số ít giáo viên trẻ thành thạo trong việc ứng dụng công nghệ thông tin, nhưng đây là con số rất ít. Vì vậy, hiện nay vấn đề xây dựng học liệu số (như sách điện tử, thư viện điện tử, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm, bài giảng điện tử, phần mềm học điện tử, phần mềm ứng dụng mô phỏng) còn phát triển tự phát, chưa đi vào nề nếp và thành hệ thống, khó kiểm soát chất lượng và nội dung học tập. Kéo theo đó là hệ thống giải pháp học tập VLE/LMS có tính tương tác cao (khác với các hệ thống họp trực tuyến) cũng triển khai tự phát, thiếu sự đồng bộ và chia sẻ giữa các nhà trường. Thu thập, chia sẻ, khai thác dữ liệu quản lý giáo dục và học liệu số cần hành lang pháp lý chung phù hợp với các quy định về bản quyền tác giả, sở hữu trí tuệ, an ninh thông tin, giao dịch điện tử và luật chia sẻ cung cấp thông tin, cụ thể như: Quy định danh mục các thông tin thuộc diện bắt buộc khai báo, nhập liệu - phân biệt với thông tin cá nhân riêng tư thuộc quyền cá nhân; quy định quyền tác giả cho các bài giảng điện tử (trường hợp nào được sử dụng, điều kiện gì, sử dụng toàn bộ hay một phần); quy định khai thác cơ sở dữ liệu, kho học liệu số (những ai được quyền khai thác, khai thác gì, mức độ đến đâu, điều kiện gì, ai thẩm định, ai cho phép); quy định tính pháp lý của hồ sơ điện tử nói chung và sổ điểm, học bạ điện tử nói riêng (đặc biệt trong trường hợp chuyển cấp, chuyển trường ở phạm vi toàn quốc). Chỉ khi những khó khăn nêu trên được tháo gỡ mới thúc đẩy phát triển được hệ thống dữ liệu số, học liệu số đủ lớn (gồm cả dữ liệu mở), đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số của ngành giáo dục đào tạo nói chung và đơn vị trường học chúng tôi nói riêng. 2.2. Kết quả tìm hiểu các bài viết, sáng kiến kinh nghiệm đã có Đọc sáng kiến kinh nghiệm có đề tài “Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý văn bản hành chính tại trung tâm GDTX tỉnh” của một đồng nghiệp trên trang https://xemtailieu.com/tai-lieu/skkn-ung-dung-cong-nghe-thong-tin-trong- quan-ly-van-ban-hanh-chinh-tai-trung-tam-gdtx-tinh-1114959.html , tác giả chỉ đề cập đến việc ứng dụng công nghệ thông tin ở phạm vi quản lí văn bản, chưa bao quát phạm vi rộng trong công tác quản lí nhà trường. Với đề tài “Một số đổi mới trong công tác quản lí của Hiệu trưởng trường THPT Nguyễn Hữu Huân”, tác giả đưa ra nội dung các giải pháp sau: chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong đời sống, xã hội nói chung và giáo dục nói riêng. Đặc biệt là việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Các cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung của Bộ GD&ĐT, “Mỗi thầy cô giáo là một gương về đạo đức, tự học và sáng tạo”, các phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt”, xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Điều lệ, quy chế giáo dục và 8
  10. các quy định về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, mục tiêu, nội dung, chương trình, đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông … và cách thức thực hiện: thể hiện qua Nghị quyết Chi bộ, kế hoạch năm học của nhà trường (lịch công tác theo tuần, tháng), kế hoạch chính trị tư tưởng, kế hoạch Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, có điều chỉnh bổ sung tùy theo tình hình thực tế. Phối hợp các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường; tuyên truyền, phổ biến trong các buổi họp Hội đồng sư phạm, sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt chủ nhiệm; qua các khẩu hiệu; văn bản của nhà nước và của ngành đưa về các tổ thảo luận, bản tin pháp luật. Tiếp tục củng cố, đầu tư phát triển tủ sách Pháp luật, trang bị cho phòng làm việc của giáo viên và Thư viện có đầy đủ phương tiện nghe nhìn, máy tính truy cập Internet. Thực hiện khen thưởng giáo viên viết bài thu hoạch chính trị đạt loại Xuất sắc; Phối hợp Công đoàn cơ sở, Đoàn thanh niên tổ chức các Hội thi; rà soát, bình chọn cá nhân tiêu biểu trong việc Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo quý làm cơ sở để tuyên dương khen thưởng vào cuối năm học. Nhìn chung, tôi nhận thấy các nội dung và cách thức trong sáng kiến nêu trên khá tỉ mỉ, chi tiết, công phu nhưng lại mang tính rườm rà, nhiều giải pháp chưa cập nhật thời đại. Còn sáng kiến “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THPT Nam Đàn 2” đăng trên địa chỉ http://nghean.edu.vn/he-thong-nghiep- vu/sang-kien-kinh-nghiem/sang-kien-muc/nam-2020/sang-kien-2020-mot-so-giai- phap-nham-nang-cao-chat-luong-gia.ht tác giả đề xuất giải pháp sau: Tăng cường sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, vai trò quản lý của Ban giám hiệu và các tổ chuyên môn trong nhà trường. Nâng cao trình độ chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn cho giáo viên. Đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học, lấy học sinh làm trung tâm. Nâng cao năng lực học tập, giáo dục đạo đức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Tăng cường công tác xã hội hóa giáo dục. Đẩy mạnh phong trào thi đua và công tác đánh giá, thi đua khen thưởng theo hướng hiệu quả, khách quan, trung thực. Những giải pháp trên đã là những kinh nghiệm đáng quý trở thành gợi ý cho tôi những đối sánh bổ ích với giải pháp trong sáng kiến của bản thân đang thực hiện vận dụng để tìm ra phương án đem lại hiệu quả tích cực và phù hợp với giai đoạn hiện nay của đơn vị. Từ kết quả tìm hiểu, tham khảo một số sáng kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp, một số bài viết có nội dung liên quan, tôi nhận thấy chưa có văn bản nào đề cập đến vấn đề chuyên sâu và quy mô, chủ yếu là ở dạng bài viết. Hơn nữa, các bài viết đề cập đến vấn đề với dung lượng ngắn, lại đề cập đến việc áp dụng các giải pháp ở lĩnh vực kinh doanh, các ngành kinh tế… ít bài viết về giáo dục. Vì vậy, có thể khẳng định sự vận dụng các biện pháp trong bài viết này của tôi là những vấn đề đảm bảo tính mới mẻ và thời sự. 3. Các biện pháp cụ thể 3.1. Triển khai các chương trình học tập trực tuyến, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí hoạt động dạy học 9
  11. Một trong những giải pháp để thúc đẩy việc chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ vào quản lí hoạt động dạy học ở trường Trung học phổ thông nói chung và trường chúng tôi nói riêng chính là thực hiện triển khai các chương trình học tập trực tuyến, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí hoạt động dạy học. Văn bản 1769/SGD&ĐT- GDTrH Nghệ An ngày 14/09/2020 v/v hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2020 - 2021 của Sở Giáo dục & Đào tạo Nghệ An cũng nhấn mạnh, các chương trình chủ điểm của năm học 2020 – 2021 tập trung vào ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng toàn diện trong các nhà trường, thực hiện chuyển đổi số trong quản lí. Từ những lẽ đó, trường chúng tôi tiến hành triển khai các chương trình học tập trực tuyến và khai thác quản lí hoạt động dạy học qua mạng internet bằng nhiều hình thức đa dạng; sẵn sàng ứng phó khi cần thiết phải sử dụng hình thức dạy học qua mạng (học kì 2 năm học 2019- 2020). Trước hết, chúng tôi triển khai bằng việc cho giáo viên học tập, tiếp thu các văn bản chỉ đạo nhiệm vụ năm học, các chỉ thị, hướng dẫn có liên quan đến vấn đề tại các cuộc họp hội đồng nhà trường; họp tổ, nhóm chuyên môn. Có những văn bản in ấn trao đến tận tay từng giáo viên, đảm bảo giáo viên nào cũng có thể nắm được thông tin đầy đủ, chính xác về vấn đề trường chỉ đạo và triển khai thực hiện. Theo chúng tôi, đây là một trong những khâu quan trọng để triển khai các chương trình học tập và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lí. Nếu giáo viên – đối tượng của người quản lí mù mờ, mơ hồ về lí thuyết của vấn đề hay các quy định trong văn bản pháp quy của ngành thì sẽ rất khó khăn trong quá trình triển khai nội dung và không tránh khỏi sai phạm đáng tiếc, thậm chí vô tình vi phạm quy chế. Ngay từ đầu năm học nhà trường đã triển khai chỉ đạo các tổ, nhóm chuyên môn xây dựng kế hoạch năm học kịp thời, trong đó chú trọng các chỉ tiêu đăng kí xây dựng bài giảng điện tử, ngân hàng đề thi trắc nghiệm; chỉ tiêu các tiết dạy tại phòng thực hành, thiết kế giáo án powpoint, các tiết dạy đều được giáo viên phụ trách phòng cập nhật vào máy tính để theo dõi và quản lí, khi cán bộ quản lí cần sẽ có ngay những thông tin. Bên cạnh đó, các tổ, nhóm chuyên môn cũng chú trọng xây dựng kế hoạch dạy học trực tuyến, dạy học qua mạng, sẵn sàng ứng phó khi tình hình dịch covid – 19 bùng phát tại địa phương. Với chủ trương này, nhà trường tạo thế chủ động và bài bản, nghiêm túc cho các tổ chức, đoàn thể, tổ chuyên môn và giáo viên khi triển khai nhiệm vụ năm học. Mặt khác, chúng tôi tiến hành thực hiện quản lí thông qua các hoạt động thực tiễn, cụ thể của cán bộ, giáo viên trong nhà trường. Năm học 2020 – 2021 Bộ Giáo dục & Đào tạo tiếp tục triển khai chương trình dạy học các chuyên đề về Chương trình Giáo dục phổ thông 2018; để học chuyên đề, bắt buộc đội ngũ cán bộ quản lí và giáo viên phải tham gia các lớp học qua mạng internet. Độ khó và phức tạp cũng như dung lượng bài học càng ngày càng tăng dần, vì thế sẽ có những khó khăn nảy sinh đó là bộ phận giáo viên lâu năm trong nghề, hạn chế về trình độ 10
  12. công nghệ thông tin. Để tháo gỡ khó khăn này, chúng tôi chỉ đạo cho nhóm giáo viên Tin học kịp thời hỗ trợ, hướng dẫn, bổ sung kiến thức và kĩ năng sử dụng và khai thác mạng cho những giáo viên đó. Vì thế, việc học tập chuyên đề của cán bộ, giáo viên trường chúng tôi đầy đủ, nghiêm túc chất lượng, đúng thời gian quy định Để góp phần thực hiện tốt nội dung giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lí hoạt động dạy học, trường còn trang bị lắp đặt hệ thống camera hồng ngoại tại các hành lang, sân trường, tại phòng hội đồng; việc làm đó đã tạo nên hiệu ứng nhanh trong việc quản lí nề nếp của giáo viên và học sinh. Trước đây, thường xảy ra các tình trạng đến giờ vào học, học sinh la cà, lề mề, nán lại chơi ở sân trường; giáo viên số ít thủng thẳng, chùng chình, cố nói thêm dăm ba câu chuyện còn lưng chừng trong giờ giải lao, uống thêm chén nước rồi mới lên lớp dạy. Từ khi lắp đặt hệ thống camera giám sát và truyền thông tin về máy của Ban giám hiệu nhà trường, việc thực hiện thời gian lên lớp của giáo viên và học sinh trở nên nghiêm túc, tự giác, đúng quy định. Điều đó khắc phục được hạn chế nêu trên. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ quản lí nhà trường không phải hô gọi, nhắc nhở, thúc giục hay áp dụng hình thức hành chính. Về phía học sinh, những vụ việc xích mích, gây gổ, tắt mắt đồ dùng cá nhân hay tiền bạc của bạn ít xảy ra, nếu có thì đội ngũ giám thị của Đoàn nhờ camera tìm kiếm, phát hiện thông tin liên quan và xử lí kịp thời. Với một đơn vị đóng trên địa bàn huyện miền núi như đơn vị chúng tôi được xem như một sự đổi mới tích cực. Trong năm học, nhà trường không xảy ra vụ việc nào nghiêm trọng vì học sinh vi phạm nội quy, quy chế hay gây ảnh hưởng an ninh trường học. Đây rõ ràng là một minh chứng cho sự thay đổi tích cực về quản lí bằng ứng dụng công nghệ thông tin. Đối với các đồng chí lãnh đạo thực hiện việc quản lí hồ sơ, sổ sách, văn bản; điều hành, cung cấp thông tin qua các trang mạng, nhóm mạng riêng như trên zalo, facebook. Khai thác phòng họp trực tuyến để hạn chế sự tiếp xúc đông người vào thời gian dịch covid – 19 đang bùng phát ở một số nơi trong nước và nguy cơ lây lan đến địa phương mình. Việc thông tin các vấn đề liên quan đến công việc, hội họp, quy định, điểm thi đua của Đoàn hàng tuần, lịch công tác tuần… đều được đăng tải trên trang facebook riêng của trường kịp thời, nhanh chóng và hiệu quả. Tuy rằng, đây không được xem là cách truyền tin pháp quy nhưng trong thời đại công nghệ 4.0 hiện nay, lượng người truy cập trên mạng xã hội rất đông thì việc thông tin, truyền tin qua kênh này là phương sách hữu hiệu. Các lớp học sinh đồng loạt lập trang mạng riêng theo nhóm để giáo viên và phụ huynh liên lạc, trao đổi thông tin thường xuyên, kịp thời, góp phần quản lí giáo dục học sinh sát sao, chặt chẽ hơn. Các đồng chí trong ban giám hiệu thực hiện xử lí văn bản hành chính đến và đi hiệu quả, nhanh gọn, kịp thời qua office; chỉ cần có một mắt xích “rơ” là có thể nhận biết được ngay và kịp thời khắc phục ngay. Trong công tác quản lí, với cương vị là người đứng đầu đơn vị, tôi đã thực hiện sử dụng chữ kĩ số phê duyệt văn bản (ngay sau khi có quy định và chỉ đạo của cấp trên). Việc triển khai sử dụng chữ kí số ở trường chúng tôi nhanh và sớm so 11
  13. với các trường trong huyện, tạo nên hiệu quả cho việc lưu văn bản khoa học, tránh rườm rà. Thực hiện trả lương và các khoản tiền của giáo viên qua thẻ, phát huy tối đa ứng dụng công nghệ hiện đại vào quản lí tài chính nhà trường, hạn chế giao dịch bằng tiền mặt đảm bảo sự an toàn và tiện lợi nhưng không ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động trong đơn vị. Công tác tuyển sinh vào lớp 10 Trung học phổ thông năm học vừa qua, trường cũng công khai hóa các thông tin về chủ trương, tỉ lệ, các điều kiện ưu tiên thu hút học sinh vào trường. Điều đó tạo được niềm tin trong nhân dân, phụ huynh và học sinh trên địa bàn trong huyện và ở các huyện khác, tỉnh khác. Năm học vừa qua trường tiếp nhận 14 học sinh ngoại tỉnh xin về học tại trường (trong đó có 11 học sinh xếp học lực loại Giỏi; có những em từng đậu vào các trường chuyên của tỉnh, từng là học sinh Giỏi cấp Tỉnh ở Trung học cơ sở). 3.2. Thúc đẩy công tác xã hội hóa giáo dục, tìm nguồn tài trợ tích cực trang bị cơ sở vật chất và thiết bị hiện đại phục vụ cho ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và học tập Trong hoàn cảnh hiện nay, việc quản lí tài chính đối với những người đứng đầu đơn vị, cơ quan luôn là bài toán hóc búa và nan giải; chúng tôi vừa phải tuân thủ theo quy định pháp luật, thực hiện theo sự hướng dẫn, chỉ đạo của các văn bản cấp trên, đồng thời vừa phải đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Hơn nữa, cần hướng tới nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho cán bộ, giáo viên tại đơn vị mình quản lí. Mặt khác, phải tạo cảnh quan, môi trường, lớp học ngày càng hiện đại, khang trang và đẹp hơn đáp ứng đòi hỏi không ngừng của thời đại; yêu cầu của giáo viên, học sinh, phụ huynh. Hơn nữa, một thực tế chúng ta phải thừa nhận đó là “có thực mới vực được đạo”, phải có trang thiết bị, cơ sở vật chất hiện đại mới đáp ứng yêu cầu đổi mới, mới phát triển được ứng dụng công nghệ thông tin vào nâng cao chất lượng dạy học và thực hiện chuyển đổi số khả thi. Vấn đề này khiến chúng tôi, những người làm công tác quản lí trăn trở, suy nghĩ rất nhiều và một trong những giải pháp chúng tôi thực hiện đó chính là thúc đẩy công tác xã hội hóa giáo dục, tìm nguồn tài trợ tích cực trang bị cơ sở vật chất và thiết bị hiện đại phục vụ cho ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và học tập. Song song với sự vận động nguồn tài trợ từ các cơ quan cấp Huyện, cấp Sở, cấp Tỉnh, chúng tôi tiến hành tìm nguồn vận động tài trợ xây dựng nhà trường từ các phụ huynh và học sinh cũ thành đạt, từ các doanh nghiệp lớn trên địa bàn xung quanh trường. Nhưng một vấn đề được đặt ra cho công tác vận động xã hội hóa giáo dục đó là dù đối tượng vận động là ai đi chăng nữa thì để làm tốt công tác này, chúng tôi thiết nghĩ, cần phải chú trọng mấy vấn đề sau như: khi xây dựng kế hoạch vận động cần nêu rõ mục đích vận động; mức vận động, gói vận động cụ thể. Đặc biệt là phải nêu rõ sử dụng nguồn quỹ vận động, tài trợ như thế nào, công khai minh 12
  14. bạch cho giáo viên và phụ huynh sau khi sử dụng. Một việc làm nữa cần chú trọng đó là phải đặt lên hàng đầu việc chăm lo nâng cao chất lượng giáo dục và dạy học cho các em học sinh, phát triển các phong trào toàn diện của nhà trường để tạo ra những “con số biết nói”, có sức nặng thuyết phục, vận động. Đó chính là cách thức vận động xã hội hóa có sức thuyết phục hơn tất cả mọi lí thuyết. Áp dụng giải pháp trên, năm học vừa qua, đơn vị chúng tôi đã xây dựng kế hoạch xin tài trợ, ủng hộ về cơ sở vật chất ngay từ đầu năm học. Thông qua các cuộc họp với ban lãnh đạo nhà trường, hội đồng trường, ban chấp hành Hội cha mẹ học sinh để xin ý kiến thống nhất về tư tưởng, chủ trương trình cấp trên. Khi được Sở Giáo dục & Đào tạo cho phép bằng văn bản, chúng tôi mới triển khai thực hiện. Tại hội nghị các chi hội trưởng Hội cha mẹ học sinh các lớp, cùng sự tham gia của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm, chúng tôi trình bày kế hoạch chung trong đó có kế hoạch vận động ủng hộ, tài trợ về cơ sở vật chất. Trong kế hoạch nêu rõ mục đích và công trình ủng hộ xây dựng cụ thể, rõ ràng, minh bạch, các công trình đều tập trung phục vụ cho hoạt động dạy học và sinh hoạt của học sinh tại trường. Chính vì thế, việc làm của chúng tôi nhận được sự đồng thuận, ủng hộ cao từ Ban chấp hành hội cha mẹ học sinh trường và ở các chi hội học sinh, đội ngũ giáo viên chủ nhiệm. Đây là lực lượng nòng cốt trong công tác vận động xã hội hóa tại các chi hội, sự định hướng, phân tích của họ sẽ góp phần lớn cho sự thành công của công tác vận động tài trợ về cơ sở vật chất cho nhà trường hàng năm từ các bậc phụ huynh và các thế hệ cựu học sinh. Phụ huynh nào mà lại không sẵn sàng ủng hộ khi thấy được mục đích sử dụng nguồn tài chính ủng hộ rõ ràng, công khai, thiết thực; khi mà họ đến trường thấy con em mình được học tập và vui chơi trong môi trường đảm bảo văn minh, an toàn, hiện đại, khang trang, sạch đẹp…; khi mà nghe được nhân dân có những đánh giá tích cực về nhà trường. Bên cạnh đó, chúng tôi động viên, khích lệ tất cả các lực lượng vào cuộc vận động từ đội ngũ giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm; các thế hệ phụ huynh và học sinh cũ. Các thành viên của nhà trường đều xem công tác xã hội hóa giáo dục, tìm nguồn tài trợ như là công việc của chính mình. Đúng là “đông tay thì vỗ nên kêu”, một mình thủ trưởng đơn vị hay ban giám hiệu không thể mạnh và thành công bằng sự vào cuộc của tất cả cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường. Về hình thức vận động, bên cạnh việc thực hiện vận động trực tiếp từ lực lượng phụ huynh, chúng tôi còn vận dụng các kênh mạng xã hội, facebook, zalo, điện thoại để thực hiện kết nối, lan tỏa trên mọi vùng miền Tổ Quốc và ngoài nước; thông qua các mối quan hệ liên lạc từ bạn bè, đồng nghiệp, học sinh cũ tìm kiếm để biết thông tin về các doanh nhân thành đạt có thể trao cho nhà trường những cơ hội vận động, ủng hộ. Với nỗ lực đó, năm học vừa qua, trường chúng tôi đã tiếp nhận được vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của Huyện nhà, gần bảy trăm triệu đồng tài trợ từ hội cha mẹ học sinh của các lớp (kế hoạch sẽ sử dụng xây dựng sân cỏ nhân tạo phục vụ cho việc dạy và học thể dục và hoạt động thể thao của giáo viên và học 13
  15. sinh); hai tư triệu đồng từ học sinh cũ thành đạt trao thưởng cho học sinh khối 10 vào đầu năm học và khen thưởng giáo viên và học sinh có thành tích xuất sắc đột xuất trong học kì 1 của năm học. Vận động các phụ huynh và học sinh cũ lắp đặt máy tính, bảng thông minh có kết nối internet tại một số phòng học tạo điều kiện cho việc khai thác tài nguyên mạng và ứng dụng công nghệ thông tin vào đổi mới phương pháp dạy học, góp phần xây dựng mô hình lớp học hạnh phúc trong thời đại 4.0. Tổng quỹ ủng hộ trong năm xấp xỉ một tỷ đồng, đó là một số không nhỏ đối với một trường Trung học phổ thông đóng trên địa bàn huyện miền núi, lại đang trong thời kì khó khăn chung vì dịch bệnh. Con số đó cũng góp phần minh chứng cho hiệu quả của công tác lãnh đạo, quản lí, thúc đẩy tìm nguồn tài trợ của nhà trường. Hiện nay, chúng tôi đang tiếp tục vận động tạo nguồn quỹ tài trợ để nâng cấp trang bị hiện đại ở các lớp học và khuôn viên trường học, chuẩn bị tốt nhất về điều kiện cơ sở vật chất tiến tới tổ chức thành công Lễ kỉ niệm sáu mươi năm ngày thành lập trường (dự kiến đầu tháng 11 năm 2021). Điều đó tạo sự động viên kịp thời và khích lệ phong trào thi đua dạy và học sôi nổi của giáo viên và học sinh trong trường; tạo tiếng nói dư luận tích cực, sự ủng hộ, đồng thuận và niềm tin từ nhân dân có con em học tại trường. 3.3. Tổ chức lồng ghép tuyên truyền, khích lệ việc “chuyển đổi số” và ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, thực hành Khi người làm công tác quản lí muốn triển khai một chủ trương hay thực hiện đồng bộ một giải pháp có tính mới trong tập thể đơn vị, điều trước hết chúng ta cần làm là công tác tuyên truyền. Mục đích của công tác này là để nâng cao nhận thức, và trách nhiệm; thông suốt về tư tưởng cho cán bộ, giáo viên và học sinh. Có như thế, chúng ta mới tạo được sự quyết tâm, đồng thuận thực hiện nhiệm vụ trong tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên và khả năng thành công sẽ cao hơn. Trong công tác tuyên truyền, khích lệ việc “chuyển đổi số” và ứng dụng công nghệ thông tin tại đơn vị, chúng tôi chú trọng ở khâu hình thức tuyên truyền. Hình thức tuyên truyền phải đa dạng; mở rộng đối tượng; tuyên truyền bằng nêu gương tiên phong ngay tại đơn vị. Sở dĩ chúng tôi lựa chọn đầu tư cho những khâu đó trong công tác tuyên truyền là xuất phát từ thực tiễn đơn vị đã gặp khó khăn, trở ngại khi thực hiện giải pháp nêu trên. Đó là, một bộ phận ít cán bộ, giáo viên của đơn vị vẫn còn tư tưởng an phận, ưa “đường mòn lối cũ”, ngại đổi mới, ngại phải học hỏi và đầu tư thời gian, công sức; một số ít đồng chí kêu ca, phàn nàn, áp lực… Trước tình hình đó, chúng tôi tiến hành thực hiện giải pháp trên bằng những việc làm cụ thể như hưởng ứng Tuần lễ học tập suốt đời với chủ đề “Chuyển đổi số thúc đẩy học tập suốt đời”; tổ chức biểu dương, khen thưởng trước tập thể giáo viên, học sinh đối với những thầy giáo, cô giáo có giải pháp sáng tạo, ứng dụng công nghệ thông tin vào đổi mới phương pháp dạy học. Từ đó khích lệ vai trò của người thầy trong thời đại mới là “người thầy đi trước với những khám phá” chứ 14
  16. không phải là người thầy đứng lại để chiêm nghiệm” tự thỏa mãn. Đồng thời việc làm này còn tạo tác dụng nêu gương tiên phong trong tập thể, đây là hình thức tuyên truyền bằng việc làm, hành động cụ thể rất có sức nặng thuyết phục. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng chỉ đạo tổ chức Đoàn thanh niên triển khai các chương trình hành động, các cuộc thi qua mạng, đặc biệt là trong thời gian phòng chống dịch covid – 19 kéo dài như hiện nay. Dưới sự chỉ đạo của ban giám hiệu nhà trường, Đoàn thanh niên rất năng động tổ chức được nhiều cuộc thi qua mạng hiệu quả, tạo được sức cuốn hút không chỉ của các đoàn viên, thanh niên trong nhà trường mà còn cả ngoài nhà trường, lôi cuốn đội ngũ giáo viên, các bậc phụ huynh… tham gia bình chọn cho các cuộc thi. Không có hình thức tuyên truyền nào nhanh, mạnh, có sức lan tỏa bằng hình thức thi và bình chọn, like (thích) trên mạng xã hội cho những chương trình hoạt động của đoàn viên, thanh niên. Đây là giải pháp hạn chế tụ tập đông người nơi công cộng và tổ chức các hoạt động tập thể trong giai đoạn phòng chống dịch covid -19. Các phong trào thi đua kỉ niệm 8/3 Ngày Quốc tế Phụ nữ, hướng tới Kỉ niệm ngày 26/3 Ngày thành lập Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh vẫn rất sôi nổi. Từ những hoạt động thi đua đó, nội dung cần tuyên truyền đã được tuyên truyền, các thông điệp giáo dục tinh thần đoàn kết, hợp tác đã được truyền đi; phát huy năng lực tư duy sáng tạo và rèn luyện phẩm chất của học sinh – đích đến của chương trình giáo dục hiện nay. Tình cảm thầy giáo, cô giáo với học sinh gắn kết, thân thiện hơn, trường học trở thành “ngôi nhà hạnh phúc” của tập thể giáo viên và học sinh. Một cách thức nữa mà chúng tôi đã triển khai chỉ đạo thực hiện đó là phối hợp với cơ quan Viễn thông và tập đoàn Vinaphon về tuyên truyền, hướng dẫn đăng kí sử dụng sổ liên lạc điện tử trong quản lí và giáo dục học sinh. Đây là hình thức để kết nối thông tin hai chiều giữa giáo viên và phụ huynh, ban chấp hành hội cha mẹ học sinh và ban giám hiệu nhà trường về tình học tập và rèn luyện của con em một cách kịp thời, nhanh nhất; phụ huynh không cần phải chờ đến kì họp phụ huynh hàng năm như trước đây mới biết được tình hình học tập, tu dưỡng đạo đức của học sinh. Nhà trường tiến hành lắp đặt bổ sung mạng internet cho các phòng hội họp, phòng các tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên, phòng thực hành tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác dữ liệu mạng và ứng dụng công nghệ thông tin và đổi mới dạy học. Trước đây, chúng tôi quan niệm lắp đặt mạng sẽ khiến học sinh lo truy cập mạng internet mà xao nhãng trong các giờ học; hay trong giờ họp giáo viên mải mê sử dụng điện thoại lướt mạng… Nhưng quan niệm ấy không còn phù hợp trong thời đại mà mạng wifi trở thành phổ cập trong xã hội thì đương nhiên trường học càng cần được trang bị. Trong thông tư 32/2020/TT-BGDĐT ngày 15 tháng 9 năm 2020 của Bộ Giáo dục & Đào tạo cũng nêu rõ học sinh được sử dụng điện thoại tra cứu thông tin học tập trong các giờ học trên lớp nếu được sự cho phép của giáo viên, nhiều giáo viên cũng sử dụng phần mềm luyện bài tập tiếng Anh qua mạng giúp học sinh tự học. Vì thế, việc quyết định trang bị thêm mạng 15
  17. wifi trong đơn vị chúng tôi là việc làm góp phần thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin vào nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. 3.4. Tăng cường quản lí việc tổ chức tập huấn, hướng dẫn kĩ cho cán bộ, giáo viên, nhân viên về công nghệ thông tin Việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên, học sinh sao cho có kiến thức, kĩ năng để có thể đáp ứng thực hiện công tác chuyển đổi số là một việc làm vô cùng khó khăn nhưng cũng rất quan trọng và cấp thiết. Chính vì thế nên đội ngũ cán bộ quản lí, đặc biệt là người đứng đầu đơn vị cần tăng cường quản lí việc tổ chức tập huấn, hướng dẫn kĩ cho cán bộ, giáo viên, nhân viên về công nghệ thông tin. Một trong những yêu cầu cơ bản của người giáo viên ở thời đại hiện nay là phải có trình độ Tin học, biết sử dụng thành thạo máy vi tính, khai thác mạng, sử dụng các phần mềm thông dụng hỗ trợ cho việc dạy và học; biết thiết các giáo án PowerPoint, Elerning… Thế nhưng, thực tế tại các trường học nói chung và đơn vị chúng tôi vẫn có những giáo viên sử dụng máy vi tính không thành thạo chứ chưa nói đến những kĩ năng khác. Nhưng thiết nghĩ, khó khăn này sẽ được hóa giải nếu hàng năm chúng ta tổ chức tốt việc tập huấn, bồi dưỡng cán bộ, giáo viên sẽ góp phần nâng cao trình độ công nghệ thông tin cho nhân viên của mình. Muốn một cái cây chóng lớn, khỏe mạnh cần lắm sự chăm sóc chuyên cần, muốn một cỗ máy vận hành trôi chảy, bền lâu cần lắm sự quan tâm tới chế độ bảo dưỡng thường xuyên. Con người cũng vậy, đặc biệt là những đối tượng của lĩnh vực giáo dục lại càng cần được trau dồi, bồi dưỡng, tích lũy kiến thức thường xuyên. Việc tổ chức tập huấn cho đội ngũ cán bộ, giáo viên trong nhà trường cần được tổ chức theo nhiều hình thức: tập huấn thành buổi theo chuyên đề dạy bài bản, quy mô; tập huấn hỗ trợ đột xuất khi giáo viên có vướng mắc về công nghệ thông tin; tập huấn theo kiểu tư vấn lí thuyết nhanh; tập huấn và hỗ trợ trực tiếp nhóm giáo viên nhiều tuổi, công tác lâu năm trình độ Tin học có hạn chế nhất định… Thực tế ở đơn vị chúng tôi đã triển khai các chương trình tập huấn soạn giáo án PowerPoint, sử dụng sổ điện tử, dạy học qua mạng internet, dạy học Elerning, cài đặt các phần mềm hỗ trợ dạy học; sử dụng bảng thông minh, chia sẻ học liệu lên kho mạng; triển khai tập huấn dạy học STEM (khi có đủ trang thiết bị sẽ thực hiện ngay). Việc tổ chức tập huấn sẽ tiến hành theo các bước, đầu tiên là chúng tôi cho cán bộ, giáo viên toàn trường tiếp cận vấn đề qua văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của cấp trên trong các hội nghị tập thể. Mục đích của việc làm này vừa đem đến cho cán bộ, giáo viên hiểu biết và nhận thức về vấn đề; mặt khác tạo nên tác dụng tuyên truyền cho giáo viên hiểu sâu hơn về thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Việc ứng dụng công nghệ thông tin là một trong những tiêu chí 16
  18. xét xếp loại giáo viên trong năm học. Có thể đưa ra chỉ tiêu cho mỗi giáo viên dạy học ứng dụng công nghệ thông tin trong một học kỳ, theo dõi nhắc nhở thông qua việc kiểm tra hồ sơ theo dõi. Sau khi giáo viên đã thấm nhuần về chủ trương, đường lối, tư tưởng thông suốt, nhận thức sâu sát, đúng đắn. Nhà trường cử những giáo viên có kiến thức tốt về Tin học hàng năm tham gia các lớp bồi dưỡng về máy tính, máy chiếu hay sử dụng phần mềm... , sau đó tập huấn cho các đồng chí giáo viên tại trường trong các buổi sinh hoạt chuyên môn của trường. Việc làm này, trường chúng tôi thực hiện thường xuyên và sôi nổi, trong học kì 1 chúng tôi tổ chức tập huấn tập trung ba đợt cho giáo viên, sang học kì 2 do dịch covid – 19 nên chưa thực hiện được theo kế hoạch. Trong các buổi tập huấn, giáo viên được tiếp cận thực hành ngay trên máy tính, đảm bảo lí thuyết đi đôi với trải nghiệm thực tiễn. Như vậy việc tập huấn trở nên hiệu quả, chất lượng, mọi người có thể trao đổi thông tin và phương pháp tiếp cận vấn đề công nghệ thông tin, đó là một hình thức tập huấn có chất lượng. Để có được những chuyên đề tập huấn bổ ích, thiết thực, ban giám hiệu tổ chức khảo sát để biết được khả năng tin học của mỗi đồng chí giáo viên rồi phân loại, sau đó lên kế hoạch bồi dưỡng. Có kế hoạch học tập, bồi dưỡng, nhất định phải có kiểm tra, đánh giá kết quả, bởi việc kiểm tra, đánh giá mang tính thúc đẩy năng lực cho giáo viên nên không có gì nặng nề và áp lực. Ban giám hiệu cùng các tổ trưởng chuyên môn thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học thông qua việc dự giờ thăm lớp, sau đó rút kinh nghiệm tiếp tục đề ra biện pháp khắc phục. Trong năm học, các nhóm chuyên môn tiến hành nhiều tiết dạy đổi mới, có ứng dụng công nghệ hiện đại, làm tốt nhiệm vụ này có các nhóm như Ngoại ngữ, Ngữ văn, Vật lí, Hóa học… 4. Kết quả Việc áp dụng những biện pháp trên tại trường THPT Thanh Chương 1, tôi cùng các tập thể đồng nghiệp đã thu được kết quả đáng ghi nhận trong năm học 2020 – 2021 (có sự đối sánh với năm học 2019 – 2020): * Về chất lượng đội ngũ giáo viên: Giáo viên dạy Giỏi cấp Tỉnh: Chu kì 2015-2019 đạt 9/10 đồng chí (tỉ lệ Chu kì 2019-2023 đạt 9/9 đồng chí (tỉ lệ 100%) Bảo vệ thành công Thạc sĩ: Năm 2018-2019 có 6 đồng chí Năm 2019-2020 có 7 đồng chí Trình độ chính trị: 17
  19. Năm 2019 – 2020 có 5 đồng chí Năm 2020 – 2021 có 6 đồng chí Trình độ quản lí giáo dục: Năm 2019 – 2020 có 4 đồng chí Năm 2020 – 2021 có 5 đồng chí Xếp loại cuối năm: 100% giáo viên đạt chuẩn Loại Tốt…. Đúc rút sáng kiến kinh nghiệm: Năm 2018-2019 Tổng SKKN đạt cấp ngành: 4 (1 SKKN loại A, 3 SKKN loại B); 1 SKKN cấp Tỉnh. Năm 2019-2020 Tổng SKKN đạt cấp ngành: 7 (1 SKKN loại A, 6 SKKN loại B); 1 SKKN cấp Tỉnh. * Chất lượng học sinh: Xếp loại học lực: Năm học 2018-2019 2019-2020 Số HS 1281 1287 học sinh Giỏi 577 45.04% 586 45.53% Khá 652 50.9% 670 52.06% TB 50 3.9% 29 2.25% Yếu 0 0% 0 0% Kém 0 0% 0 0% Xếp loại đạo đức 2018 – 2019 95% 4,76% 0,16% 0% 2019 – 2020 96,89% 2,87% 0,08% 0% Học sinh Giỏi cấp Tỉnh: TT Năm học Số đạt Nhất Nhì Ba KK 1 2018-2019 18 0 3 8 7 2 2019-2020 Không tổ chức thi do dịch bệnh covid-19 3 2020-2021 20 4 8 5 3 18
  20. Thi tốt nghiệp THPT: Trường xếp thứ 6 toàn tỉnh; có 40 em trên 27 điểm; 15 em trên 28 điểm. Các cuộc thi khác: Thi sáng tạo khoa kĩ thuật cấp Tỉnh: 2017, 2018, 2019 đạt giải Ba. Cuộc thi Đại sứ văn hóa đọc năm 2019 đạt giải nhất cấp Tỉnh và năm 2020 đạt giải Khuyến khích cấp Quốc gia. Năm học 2018-2019 đạt giải Nhất môn cờ vua Hội khỏe Phù Đổng cấp tỉnh; Năm học 2019-2020 đạt giải Nhất toàn đoàn Hội khỏe Phù Đổng cấp huyện; giải Ba môn cầu lông nữ Hội khỏe Phù Đổng cấp tỉnh. Hoạt động xã hội, từ thiện: Huy động từ nhiều nguồn lực, bình quân hàng năm huy động được trên 100 triệu đồng tặng khuyến học cho học sinh nghèo, học sinh có hoàn cảnh khó khăn Các hoạt động của Đội thanh niên tình nguyện của nhà trường được duy trì có hiệu quả trợ giúp kịp thời những học sinh gặp khó khăn vùng tái định cư Bản Vẽ như trường THCS Hương Tiến; TH Kim Lâm, ủng hộ nạn nhân chất độc da cam, hưởng ứng phong trào tết vì người nghèo, tham gia hiến máu tình nguyện hàng năm đều vượt chỉ tiêu. Trong đợt dịch Covid-19 nhà trường cùng công đoàn đã phát động phong trào quyên góp cả vật chất và tiền mặt, ủng động viên cơ sở cách ly tập trung tại xã Đại Đồng huyện Thanh Chương Về cơ sở vật chất: Xây hai khu nhà vệ sinh hiện đại cho học sinh, cho giáo viên; cải tạo ba phòng học thực hành môn Lí, Hóa, Sinh trang bị mới, hiện đại; cải tạo khu nhà thực hành cũ thành khu nhà hành chính quản trị khang trang, nâng cấp trang thiết bị hiện đại; 1 phòng họp trực tuyến. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2