intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục bảo vệ tài nguyên du lịch qua hoạt động trải nghiệm tại một số di tích, danh thắng ở địa phương cho học sinh lớp 12 trên địa bàn huyện Yên Thành

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:54

38
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của đề tài là nghiên cứu cách thức tổ chức và các nội dung của loại hình hoạt động trải nghiệm tại các di tích văn hóa và danh thắng ở địa phương, đó là thực địa và tham quan. Từ đó khơi dậy hứng thú học tập của học sinh và giáo dục tinh thần, ý thức bảo vệ tài nguyên du lịch của quê hương mình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giáo dục bảo vệ tài nguyên du lịch qua hoạt động trải nghiệm tại một số di tích, danh thắng ở địa phương cho học sinh lớp 12 trên địa bàn huyện Yên Thành

  1. SỞ GIAO DUC & ĐAO TAO NGHÊ AN ́ ̣ ̀ ̣ ̣ Trường THPT Bắc Yên Thành Đề tài: GIÁO DỤC BẢO VỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH QUA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM TẠI MỘT SỐ DI TÍCH, DANH THẮNG Ở ĐỊA PHƯƠNG CHO HỌC SINH LỚP 12 TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN YÊN THÀNH Môn: Địa lí Tác giả: Cung Thị Quỳnh Hoa Tổ chuyên môn: Khoa học xã hội Yên Thành ­ 2020. Số điện thoại: 0965966289
  2. MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG I. PHẦN MỞ ĐẦU 3 1.1. Lí do chọn đề tài 3 1.2. Mục đích nghiên cứu  4 1.3. Phạm vi nghiên cứu 4 1.4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4 1.5. Phương pháp nghiên cứu 4 1.6. Tính mới của đề tài 5 II. NỘI DUNG 6 Chương I. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn 6 1. Lí luận về dạy học gắn với trải nghiệm 6 1.1. Một số khái niệm, thuật ngữ cơ bản 6 1.2. Ý nghĩa của hoạt động trải nghiệm sáng taojtrong việc  9 học tập Địa lí 2. Cơ sở thực tiễn 10 2.1. Một số  di tích, danh thắng tiêu biểu của Nghệ  An và  10 huyện Yên Thành 2.2. Thực trạng chung về  dạy học gắn với trải nghiệm  ở  10 môn Địa lí 2.3. Thực tiễn về dạy học gắn với tham quan trải nghiệm t ại   12 các di tích – danh thắng ở các trường THPT trên địa bàn Yên Thành Chương II. Cách thức tổ  chức hoạt động trải nghiệm tại di   14 tích, danh thắng trên quê hương Yên Thành, Nghệ An 1. Mối liên hệ  giữa các di tích, danh thắng với chương   14 trình địa lí lớp 12 1.1.  Giới thiệu khái quát về các di tích, danh thắng 14 1.2. Các bài học/nội dung dạy học địa lí có liên quan 22 3
  3. 1.3. Thời gian tiến hành hoạt động trải nghiệm 23 2.  Cách thức tổ  chức hoạt động trải nghiệm tại các di tích,  23 danh thắng trên quê hương Yên Thành 2.1. Cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm 23 2.2. Các nội dung của hoạt động trải nghiệm 26 2. 3. Giáo án thể nghiệm 35 III. Kết luận 45 3.1. Hiệu quả của đề tài 45 3.2. Khả năng nhân rộng 48 3.3. Những kiến nghị 48 4
  4. I. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Hiện nay, hội nhập nền kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế toàn cầu đòi  hỏi ở mỗi người sự năng động, nhạy bén, kĩ năng sống và vốn kiến thức phong   phú. Xã hội hiện đại luôn cần những con người có đủ  yếu tố  chân – thiện –  mỹ, đức và tài. Đây cũng chính là mục tiêu giáo dục hướng tới, đặc biệt trong   thế kỉ XXI ­ thế kỉ của tự do hóa, thương mại hóa. Để  làm được điều đó, giáo  dục phải không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng phương pháp đào tạo. Học từ  trải nghiệm thực tế, trải nghiệm sáng tạo là xu hướng, phương  pháp học mới đã thu hút rất nhiều sự quan tâm của những người làm giáo dục.  Mô hình học tập từ trải nghiệm ngày càng được nhân rộng và thu hút sự tham  gia của nhiều người do tính hiệu quả  mà nó đem lại. Học tập trải nghiệm là   một quá trình xã hội bao gồm hoạt động dạy và hoạt động học. Hai hoạt động  này được liên hệ  bằng vốn hiểu biết và kinh nghiệm cụ  thể  của người học,  trên cơ sở  đó, giáo viên hệ thống hóa những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, đáp ứng  mục tiêu dạy học. Để  thực hiện tốt hoạt động trải nghiệm sáng tạo cần gắn   thực tiễn nhà trường với xã hội, hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất   cho học sinh đáp ứng những yêu cầu đổi mới giáo dục theo định hướng mà bộ  giáo dục đề  ra cũng như  đáp  ứng kì vọng của những người dân vào nền giáo   dục của đất nước.  Địa lí được coi là "ngành học về thế giới" đưa vào giảng dạy ở các trường   phổ  thông nhằm mục đích trang bị  cho học sinh những kiến thức cơ  bản về  khoa học địa lí, cũng như vận dụng những kiến thức đó vào cuộc sống để biết  cách ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh, đồng thời đáp ứng  với yêu cầu phát triển của đất nước. Vì thế, khi hình thành khái niệm địa lí  (nhất là các khái niệm địa lí chung) không có gì tốt bằng việc học sinh được tự  mình trải nghiệm và rút ra khái niệm sẽ  làm vấn đề  được rõ nét và khắc sâu  hơn. Việc học trải nghiệm giúp tạo hứng thú cho học sinh mà vẫn đảm bảo  cung cấp kiến thức theo yêu cầu của chương trình. Tổ chức hoạt động dạy – học địa lí gắn với trải nghiệm thực tế cho học  sinh bằng thực hiện hoạt động trải nghiệm sáng tạo các di tích văn hóa, danh  thắng, đặc biệt là các di tích văn hóa lịch sử, danh thắng  ở  nơi học sinh sinh   sống sẽ khiến cho bài giảng địa lí  được sinh động, sẽ giúp học sinh cảm thấy   bài học địa lí gắn bó hơn với cuộc sống  ở  xung quanh các em, sẽ  bồi dưỡng  học sinh sự  tự  hào với những giá trị  văn hóa truyền thống do ông cha để  lại,  càng thêm yêu quê hương, yêu đất nước mình hơn cũng như khơi dậy cho học  sinh khát khao tìm hiểu, khám phá và phát huy tiềm năng của quê hương mình. 5
  5. Huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ  An là một vùng giàu tiềm năng du lịch.  Huyện Yên Thành có trên 200 di tích – danh thắng đã được lập danh mục quản  lí, trong đó có 23 di tích được công nhận là di tích quốc gia, 35 di tích xếp hạng   cấp tỉnh, là huyện có nhiều di tích được công nhận nhất tỉnh Nghệ  An. Đó là   niềm tự  hào mà nhân dân và Đảng bộ  huyện Yên Thành đang ra sức phát huy   để những giá trị đó mãi mãi trừơng tồn. Tuy nhiên, hầu hết người dân nơi đây  chưa thực sự thấy được giá trị của tiềm năng du lịch địa phương mang lại. Đặc   biệt, các em học sinh – chủ nhân của quê hương, đất nước cần phải hiểu rõ về  tài nguyên du lịch ở địa phương mình để có ý thức, trách nhiệm bảo tồn và phát   huy tiềm năng sẵn có, góp phần phát triển kinh tế nơi mình sinh ra và lớn lên. Bản thân mỗi giáo viên Địa lí chúng tôi luôn trăn trở, muốn góp một phần  nhỏ bé vào việc giáo dục những truyền thống tốt đẹp, giáo dục ý thức và trách   nhiệm giữ gìn và bảo vệ các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh cũng như tạo   cho học sinh niềm đam mê khám phá những giá trị tốt đẹp ngay trên quê hương  mình.  Xuất phát từ những lí do trên, đồng thời ý thức được trách nhiệm của bản   thân trong việc nỗ lực tìm hiểu, học tập những định hướng mới trong giáo dục   nhằm nâng cao kiến thức chuyên ngành, góp phần nâng cao hiệu quả  trong  công việc giảng dạy tại trường phổ thông nên tôi quyết định chọn đề  tài sáng  kiến:“Giáo dục bảo vệ  tài nguyên du lịch qua hoạt động trải nghiệm tại   một số  di tích, danh thắng  ở  địa phương cho học sinh lớp 12 trên địa bàn   huyện Yên Thành”. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu cách thức tổ  chức và các nội dung của loại hình hoạt động  trải nghiệm tại các di tích văn hóa và danh thắng ở địa phương, đó là thực địa  và tham quan. Từ đó khơi dậy hứng thú học tập của học sinh và giáo dục tinh   thần, ý thức bảo vệ tài nguyên du lịch của quê hương mình. Góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng  lực. 1.3. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được tiến hành nghiên cứu tại cơ sở giáo dục THPT(trung học phổ  thông)  là trường sở tại và 2 cơ sở trường khác trong huyện, trong lĩnh vực môn  Địa lí. Đối tượng áp dụng: Giáo dục bảo vệ tài nguyên du lịch qua hoạt động trải   nghiệm thực tế cho học sinh lớp 12 tại  một số di tích văn hóa, danh lam thắng  cảnh trên quê hương Yên Thành  –  trên địa bàn các xã thuộc địa phận trường   đóng và có học sinh đang theo học tại trường. 1.4. Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài tập trung làm rõ một số vấn đề sau:  6
  6. ­ Các di tích, danh thắng ở địa phương có liên quan đến chương trình địa lí  THPT ­ Nghiên cứu và đề  xuất một số  định hướng giáo dục ý thức bảo vệ  tài  nguyên du lịch thông qua hoạt động trải nghiệm thực tế tại các di tích văn hóa,   lịch sử và danh thắng trên địa bàn huyện Yên Thành. 1.5. Phương pháp nghiên cứu: ­ Khảo sát, thống kê, phân loại:  Khảo sát các tài liệu hướng dẫn cách thức tổ chức của hai loại hình hoạt   động trải nghiệm đó là thực địa và tham quan nói chung và trong bộ môn địa lí   nói riêng. ­ Phân tích, tổng hợp, quy nạp:  Trên cơ sở phân tích cụ thể mục đích, các bước tiến hành một hoạt động  trải nghiệm, điều kiện cụ  thể  của từng đối tượng học sinh  ở  địa phương,   người viết lựa chọn những phương pháp nổi bật, tối ưu, phù hợp với nhu cầu   thực tiễn và tâm lí của các em. ­ Thực nghiệm sư phạm:  Sau khi xây dựng đề  cương, được sự  góp ý, phản biện của đồng môn,   chúng tôi tiến hành thực nghiệm bằng việc áp dụng cách thức tổ  chức hoạt   động dạy học gắn với trải nghiệm thực tế tại số di tích lịch sử – văn hóa, danh   lam thắng cảnh trên quê hương Yên Thành cho học sinh khối 12 tại trường   chúng tôi năm học 2018 – 2019. Khi đã thu nhận được những kết quả ban đầu,  đến năm học 2019 – 2020, chúng tôi tiếp tục tiến hành thực nghiệm tại trường   đồng thời nhờ  các đồng nghiệp nhân rộng mô hình tại các trường THPT khác   trong huyện.   Kết quả  thực nghiệm là cơ  sở  để  chúng tôi đánh giá tính hiệu   quả của sáng kiến kinh nghiệm này. 1.6. Tính mới của đề tài Được thể hiện trước hết ở nội dung và đối tượng để học sinh khám phá,  trải nghiệm: một số di tích văn hóa, danh lam thắng cảnh trên quê hương Yên  Thành. Đó là Đình Sừng thuộc xã Lăng Thành; Nhà thờ Trạng Nguyên Hồ Tông  Thốc thuộc xã Thọ  Thành; Đền Đức Hoàng thuộc xã Phúc Thành; núi Tháp  Lĩnh – đền Cả thuộc xã Hậu Thành.  Các nội dung thực hiện hoạt động trải nghiệm mà giáo viên hướng dẫn   đều xuất phát và gắn liền với không gian sống của các em.  Ở  mỗi khu vực  trường đều có những di tích lịch sử  – văn hóa và danh thắng tiêu biểu. Những  địa chỉ  mà các em trải nghiệm là những địa chỉ  chưa được khai thác hoặc chỉ  mới khai thác  ở  mức độ  cầm chừng. Và với những địa chỉ  này, nguồn tư  liệu   trong sách giáo khoa chưa hề  có và nguồn tài liệu tham khảo cũng không có  nhiều. 7
  7. Nội dung dạy học trên lớp và nội dung tiến hành trải nghiệm được diễn ra  trong cùng một khoảng thời gian. Từ  đó đảm bảo tính liền mạch giữa kiến  thức địa lí trong sách giáo khoa với kiến thức địa lí địa phương và tính liên hệ  thực tiễn. Từ đó toát lên đặc điểm nổi bật của địa lí vùng miền, nhằm nâng cao   tính giáo dục trong dạy học địa lí.  Sáng kiến chưa được công bố ở bất cứ cuộc thi hay tạp chí nào. II. NỘI DUNG Chương I: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn   1. Lí luận về dạy học gắn với trải nghiệm 1.1. Một số khái niệm, thuật ngữ cơ bản * Trải nghiệm Từ  điển tiếng Việt định nghĩa: Trải có nghĩa là “đã từng qua, từng biết,  từng chịu đựng”, còn nghiệm có nghĩa là “kinh qua thực tế  nhận thấy điều đó   đúng”. Như vậy, trải nghiệm có nghĩa là quá trình chủ thể được trực tiếp tham  gia hoạt động và rút ra những kinh nghiệm cho bản thân . Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “trải nghiệm” được diễn dải theo hai  nghĩa. Trải nghiệm theo nghĩa chung nhất “là bất kì một trạng thái có màu sắc  xúc cảm nào được chủ thể cảm nhận, trải qua, đọng lại thành bộ  phận (cùng   với tri thức, ý thức…) trong đời sống tâm lí của từng người”. Theo nghĩa hẹp  trải nghiệm “ là những tín hiệu bên trong, nhờ đó các sự kiện đang diễn ra đối  với cá nhân được ý thức chuyển thành ý kiến cá nhân, góp phần lựa chọn tự   giác các động cơ cần thiết, điều chỉnh hành vi của cá nhân”. * Sáng tạo Khái niệm sáng tạo được sử  dụng đồng nghĩa với nhiều thuật ngữ  khác  như: sự sáng tạo, tư duy hay óc sáng tạo…Các thuật ngữ này đều có liên quan  đến một thuật ngữ gốc Latin “Crear” và mang một nghĩa chung là “sự sản xuất,  tạo ra, sinh ra một cái gì đó mà trước đây chưa hề có, chưa tồn tại”. Ngoài ra, sáng tạo cũng được hiểu “là tạo ra những giá trị  mới về  vật  chất hoặc tinh thần. Tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, không bị  gò bó, phụ   thuộc vào cái đã có. Có thể sáng tạo trong bất kì lĩnh vực nào: khoa học, nghệ   thuật, sản xuất – kĩ thuật, kinh tế, chính trị v.v…” Như  vậy, dù quan niệm như  thế  nào thì sáng tạo chính là việc tạo ra cái  mới. Sáng tạo là tiềm năng có  ở  mọi người bình thường và được huy động  trong từng hoàn cảnh sống cụ  thể. Mỗi người khi tạo ra cái mới cho cá nhân,  8
  8. thì sáng tạo đó được xem xét trên bình diện cá nhân, còn tạo ra cái mới liên  quan đến cả một nền văn hóa thì sáng tạo đó được xét trên bình diện xã hội. * Hoạt động giáo dục, hoạt động dạy học và hoạt động trải nghiệm sáng   tạ o Theo nghĩa rộng hoạt động giáo dục là “những hoạt động có chủ đích, có  kế hoạch hoặc có sự định hướng của nhà giáo dục, được thực hiện thông qua   những cách thức phù hợp để chuyển tải nội dung giáo dục tới người học nhằm   thực hiện mục tiêu giáo dục”. Hoạt động giáo dục này bao gồm: hoạt động  dạy học và hoạt động giáo dục theo nghĩa hẹp. Hoạt động giáo dục theo nghĩa hẹp được hiểu là những hoạt động có chủ  đích, có kế  hoạch, do nhà giáo dục định hướng, thiết kế, tổ  chức trong và   ngoài giờ  học, trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục   theo nghĩa hẹp, hình thành ý thức, phẩm chất, giá trị  sống, hay các năng lực   tâm lý xã hội... Hoạt động dạy học là  quá trình người dạy tổ  chức và hướng dẫn hoạt  động học của người học nhằm giúp người học lĩnh hội tri thức khoa học, kinh   nghiệm của xã hội loài người để  phát triển trí tuệ  và hoàn thiện nhân cách   người học. Như  vậy, hoạt động dạy học chủ  yếu nhằm phát triển mặt trí tuệ, hoạt   động giáo dục theo nghĩa hẹp chủ  yếu nhằm phát triển mặt phẩm chất đạo  đức, đời sống tình cảm. Trong chương trình giáo dục phổ  thông hiện hành,  hoạt động giáo dục (nghĩa hẹp) thực hiện các mục tiêu giáo dục thông qua một  loạt các hoạt động như  hoạt động giáo dục ngoài giờ  lên lớp, hoạt động tập  thể… Theo định hướng chương trình giáo dục phổ  thông mới, hoạt động giáo  dục (theo nghĩa rộng) bao gồm hoạt động dạy học và các mục tiêu của hoạt  động giáo dục (nghĩa hẹp) nói trên sẽ được thực hiện chỉ trong một hoạt động  có tên gọi là hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Như vậy, hoạt động trải nghiệm  sáng tạo sẽ thực hiện tất cả các mục tiêu và nhiệm vụ của các hoạt động giáo   dục ngoài giờ  lên lớp, hoạt động tập thể,... và thêm vào đó là những mục tiêu   và nhiệm vụ  giáo dục của giai đoạn mới. Vậy khái niệm hoạt động học tập  trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường phổ thông có thể được hiểu là “ các hoạt   động giáo dục thực tiễn được tiến hành song song với hoạt động dạy học   trong nhà trường. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một bộ  phận của quá   trình giáo dục, được tổ chức ngoài giờ học các môn văn hóa trên lớp và có mối   quan hệ bổ sung, hỗ trợ cho hoạt động dạy học. Thông qua các hoạt động thực   hành, những việc làm cụ  thể  và các hành động của học sinh, hoạt động trải   nghiệm sáng tạo sẽ khai thác kinh nghiệm của mỗi cá nhân, tạo cơ hội cho các   em vận dụng một cách tích cực những kiến thức đã học vào thực tế và đưa ra   9
  9. được những sáng kiến của mình, từ  đó phát huy và nuôi dưỡng tính sáng tạo   của mỗi cá nhân của học sinh”. Từ  khái niệm này cho thấy, so với các hoạt động ngoài giờ  lên lớp đang   được tiến hành hiện nay trong trường phổ  thông thì hoạt động trải nghiệm  sáng tạo sẽ  phong phú hơn cả  về  nội dung, phương pháp và hình thức hoạt  động. Đặc biệt mỗi hoạt động phải phù hợp với mục tiêu phát triển những  phẩm chất, năng lực nhất định của học sinh. Hiệp hội “Giáo dục trải nghiệm” quốc tế   định nghĩa về  học qua trải  nghiệm “là một phạm trù bao hàm nhiều phương pháp trong đó người dạy  khuyến khích người học tham gia các trải nghiệm thực tế, sau đó phản ánh,   tổng kết lại để  tăng cường hiểu biết, phát triển kĩ năng, định hình các giá trị   sống và phát triển các năng lực bản thân, tiến tới đóng góp tích cực cho cộng   đồng và xã hội” Hoạt động hoc tập trải nghiệm sáng tạo còn được hiểu là  “hoạt động  giáo dục, trong đó, từng cá nhân học sinh được trực tiếp hoạt động thực tiễn   trong môi trường nhà trường cũng như môi trường gia đình và xã hội dưới sự   hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức,   phẩm chất nhân cách, các năng lực…, từ  đó tích luỹ  kinh nghiệm riêng cũng   như phát huy tiềm năng năng sáng tạo của cá nhân mình”. Các khái niệm này đều khẳng định vai trò định hướng, hướng dẫn của nhà  giáo dục (không phải là hoạt động trải nghiệm tự phát). Nhà giáo dục không tổ  chức, phân công học sinh một cách trực tiếp mà chỉ hỗ trợ, giám sát. Học sinh được trực tiếp, chủ  động tham gia các hoạt động. Phạm vi các  chủ đề hay nội dung hoạt động và kết quả đầu ra là năng lực thực tiễn, phẩm   chất và tiềm năng sáng tạo; và hoạt động là phương thức cơ  bản của sự  hình   thành và phát triển nhân cách con người. Tuy vậy, không phải giáo viên nào cũng hướng dẫn học sinh tham gia hoạt   động trải nghiệm thành công. Chúng ta cần phải nắm vững đặc trưng (nét khác  biệt) của một hoạt động trải nghiệm sáng tạo so với những hoạt động dạy học  khác. Đó là việc đặt học sinh trong môi trường học tập đa dạng, học đi đôi với  hành, học từ chính hành động của bản thân, học trong nhà trường gắn liền với   giải quyết các vấn đề thực tiễn đời sống cộng đồng. Trong hoạt động học tập  này, các em vừa là người tham gia,vừa là người kiến thiết, tổ chức hoạt động  cho chính mình bằng chính sự trải nghiệm của bản thân. Nói cách khác, khi đặt   trong môi trường trải nghiệm và sáng tạo, mỗi học sinh sẽ  có điều kiện phát  huy tính tích cực, tự chủ của mình. Bởi con người thường bộc lộ tính sáng tạo  trong hành vi của mình thông qua các hoạt động. Điều này phù hợp với chủ  trương đổi mới chương trình giáo dục và sách giáo khoa theo định hướng phát  triển năng lực, phẩm chất của học sinh hiện nay. 10
  10. Đặc điểm của hoạt động trải nghiệm là học sinh được học tập trong môi  trường thực tiễn, trực tiếp tham gia các hoạt động để  khám phá, chiếm lĩnh  kiến thức. Vì vậy, hoạt động trải nghiệm trong dạy học địa lí được tiến hành   ngoài không gian của lớp học có ưu thế và tạo niềm vui, hứng thú học tập cho   học sinh. * Tài nguyên du lịch Theo Luật du lịch năm 2005 của Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ  nghĩa Việt Nam: Tài nguyên du lịch là cơ sở để phát triển ngành du lịch. Đó là   cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử – văn hoá, công trình lao   động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng   nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch,   điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.  Theo Pirojnik, 1985: “Tài nguyên du lịch là tổng thệ tự nhiên, văn hoá và   lịch sử  cùng các thành phần của chúng trong việc khôi phục và phát trển thể   lực và trí lực của con người, khả năng lao động và sức khoẻ của họ, những tài   nguyên này được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp cho việc sản xuất   dịch vụ du lịch với nhu cầu thời điểm hiện tại hay tương lai và trong điều kiện   kinh tế – kỹ thuật cho phép.” 1.2.  Ý nghĩa của hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong học tập địa lí *Về kiến thức: + Cung cấp sự  kiện, tạo biểu tượng địa lí một cách chân thực, cụ  thể  vì   các học sịnh được trực tiếp trải nghiệm. Gắn kiến thức địa lí trong sách vở với   thực tiễn làm cho kiến thức địa lí gần gũi, dễ nhớ, dễ hiểu. + Hình thành khái niệm, hiểu được bản chất và những mối liên hệ  bên  trong của các hiện tượng địa lí tự nhiên và kinh tế xã hội. + Giúp học sinh khắc sâu, nhớ lâu kiến thức địa lí, hình thành các mối liên   hệ giữa điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội. * Về kĩ năng + Tổ  chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo góp phần phát triền   khả năng quan sát, tìm tòi suy nghĩ, đặc biệt là khả năng tư duy đến cao độ… +Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo luôn luôn gắn liền với thực tiễn  chính vì thế  nó nâng cao tính cộng đồng, tập thể, có thể  coi đây là hoạt động  đời thường có ý nghĩa vượt ra khỏi phạm vi không gian lớp học. Học sinh có điều kiện nghiên cứu khoa học, làm việc với tài liệu, rèn  luyện một số  các kĩ năng, phát triển năng lực cho học sinh: năng lực tự  học,   năng lực giao tiếp  ứng xử, năng lực hợp tác, năng lực công nghệ  thông tin và  truyền thông. 11
  11. * Về thái độ + Góp phần vào việc giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đó là lòng  yêu quê hương, đất nước và con người, ý thức trách nhiệm trong xây dựng kinh  tế và bảo vệ tổ quốc. + Hình thành cho học sinh lòng tự  tin, ý chí quyết tâm đạt kết quả  cao  trong học tập, lòng trung thực, tinh thần tập thể, ý thức giúp đỡ nhau trong học  tập, khắc phục chủ  quan, tự  mãn,  ỷ  lại tạo ra tâm thế  động lực tích cực cho   người học, cho học sinh quen với việc làm có tính hệ thống. + Hình thành những phẩm chất: sống yêu thương (thể hiện ở sự sẵn sàng   tham gia các hoạt động giữ  gìn, bảo vệ  đất nước, phát huy truyền thống gia   đình Việt Nam, các giá trị  di sản văn hoá của quê hương, đất nước; tôn trọng  các nền văn hoá trên thế  giới, yêu thương con người, biết khoan dung và thể  hiện yêu thiên nhiên, cuộc sống), sống tự chủ, sống trách nhiệm…  2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Một số  di tích, danh thắng tiêu biểu của tỉnh Nghệ  An và huyện   Yên Thành Nghệ An là vùng đất có bề dày lịch sử và giàu truyền thống văn hóa . Nơi  đây nổi lên nhiều di tích lịch sử ­ văn hóa và danh lam thắng cảnh nổi bật. Hiện   nay tỉnh Nghệ An có 1.395 di tích, danh thắng đã được kiểm kê, phân cấp quản   lí, trong đó có 375 di tích, danh thắng được xếp hạng gồm 4 di tích Quốc gia  đặc biệt, 137 di tích quốc gia và 235 di tích cấp tỉnh.  Các di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu như đền Cuông ở Diễn Châu, đền thờ  Mai Thúc Loan  ở  Kim Liên ­ Nam Đàn, đền Quang Trung  ở TP Vinh;  Khu di   tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Nam Đàn, nhà cụ Phan Bội Châu ở Nam  Đàn, nhà đồng chí Lê Hồng Phong  ở  Hưng Nguyên, nhà đồng chí Phan Đăng   Lưu  ở  Yên Thành,…Về  danh lam thắng cảnh có vườn quốc gia Pù Mát, hang  Thấm Ồm, núi Quyết… Huyện Yên Thành là một trong sáu tuyến du lịch trọng điểm của tỉnh trên  cơ  sở  tiềm năng và khả  năng phát triển du lịch của huyện trước mắt và trong  tương lai. Hiện tại, huyện có hệ  thống di tích dày đặc ( trong đó có 23 di tích  được công nhận là di tích quốc gia, 35 di tích xếp hạng cấp tỉnh),  là huyện có   nhiều di tích được công nhận nhất tỉnh Nghệ An  trong đó có những di tích tiêu  biểu như : Đình Sừng, đền Đức Hoàng, nhà thờ  Hồ  Tông Thốc, khu lưu niệm   Bác Hồ  về  thăm Vĩnh Thành,   nhà lưu niệm đồng chí Phan Đăng Lưu, chùa  Gám, nhà thờ và lèn đá Bảo Nham... Về  danh thắng có hồ  Vệ  Vừng, hồ  Tăm Hương, rừng lim Hậu Thành và  Lăng Thành... 2.2.  Thực trạng chung về dạy học gắn với trải nghiệm ở môn địa lí 12
  12. Bộ  môn địa lí  ở  trường THPT có vai trò quan trọng trong việc cung cấp   cho học sinh những kiến thức cơ  bản, khách quan, có hệ  thống về  tự  nhiên,   kinh tế, xã hội thế giới và Việt Nam, góp phần bồi dưỡng lòng yêu nước, hiểu  biết về  các hiện tượng tự  nhiên và vấn đề  kinh tế  xã hội, từ  đó hình thành ý  thức, tư duy phát triển. Tuy nhiên, thực trạng học địa lí  ở  trường phổ  thông hiện nay vẫn còn  nhiều bất cập. Kiến thức địa lí vẫn mang tính chất sách vở  nặng nề  nên học  sinh không mấy hứng thú với môn học này. Hầu hết học sinh đều cảm thấy  học địa lí khó nhớ  và mau quên. Và đặc biệt, đa số  học sinh không hiểu được  bản chất của các hiện tượng tự nhiên, kinh tế ­  xã hội và cũng không coi trọng   mảng kiến thức này với lí do đây là “môn phụ”. Những năm gần đây, bộ môn địa lí ở trường phổ thông cả nước nói chung   và trên địa bàn tỉnh Nghệ  An nói riêng đã có nhiều thay đổi tích cực về  nội   dung, phương pháp dạy học. Nhiều phương pháp dạy học mới được giáo viên  tiến hành trong quá trình giảng dạy như: dạy học dự án, thảo luận nhóm, dạy  học nêu vấn đề…đã mang lại kết quả  tốt, giúp học sinh có thể  lĩnh hội kiến  thức một cách tốt hơn. Phương pháp dạy học trải nghiệm thực tế tại các di tích văn hóa ­ lịch sử,   danh thắng tiêu biểu trong dạy học địa lí  ở  các trường phổ  thông đã và đang   được khá nhiều trường THPT trên cả nước cũng như trên địa bàn tỉnh Nghệ An   (chủ yếu là những trường ở trung tâm) triển khai và cho thấy hiệu quả thực sự  nhìn từ tất cả các góc độ, đặc biệt là từ  tinh thần và thái độ  học tập của học  sinh đối với môn địa lí. Tuy nhiên, để  tiến hành hoạt động trải nghiệm thực tế, điều này sẽ  liên  quan đến nhiều vấn đề, như về mặt thời gian, điều kiện, kinh phí… Đây cũng  chính là lí do dẫn đến việc tiến hành hoạt động trải nghiệm mặc dầu đã được   nhiều trường phổ thông đã tiến hành, nhưng số lần tiến hành trong năm học và  đối tượng học sinh được tham gia  ở  các khối lớp còn còn rất hạn chế. Thậm   chí nhiều trường nông thôn, miền núi, khi điều kiện còn nhiều khó khăn thì  việc tiến hành hoạt động trải nghiệm, nhất là trải nghiệm tại các di tích lịch  sử, các địa danh ở trung tâm thành phố là cả một vấn đề nếu không nói là chưa   biết đến lúc nào mới có thể tiến hành.  Như chúng ta đã biết, hiện nay Nghệ An có 1.395 di tích đã được kiểm kê,   phân cấp quản lý, trong đó có 375 di tích, danh thắng được xếp hạng, gồm 4 di   tích Quốc gia đặc biệt, 137 di tích Quốc gia và 235 di tích cấp tỉnh.  Có thể  nói, hệ  thống di tích – danh thắng Nghệ  An được sinh ra và nuôi   dưỡng bằng tín ngưỡng, đạo lý và phong tục truyền thống của dân tộc nên có   sức sống, sức lan tỏa lâu bền, mãnh liệt. Di tích danh thắng với mái đình, ngôi   đền, chùa chiền, bến nước… là những ký  ức đẹp về  quê hương, gắn bó mật   13
  13. thiết với văn hóa làng xã, văn hóa tâm linh của mỗi người. Đó cũng là nguồn tài  nguyên vô cùng quý giá để phát triển du lịch ở địa phương. Trên cả nước cũng như ở tỉnh Nghệ An có rất nhiều di tích tầm cỡ. Song,  ở  từng địa phương, di tích văn hóa có đặc trưng, vị  trí quan trọng riêng trong  tâm linh người dân  ở  từng địa phương. Vì vậy cần phải chú ý, cần phải đưa  vào khai thác trong hoạt động dạy và học để  khai thác được một cách tối đa   những giá trị của nó. Ở nhiều địa phương, có rất nhiều những di tích, điểm du  lịch mà nguồn tư  liệu trong sách giáo khoa chưa hề  có và nguồn tài liệu tham  khảo cũng không có nhiều, mặc dầu rất gần gũi với đời sống, sinh hoạt hàng   ngày với các em học sinh, ví dụ  như: Những ngôi đình làng, nhà thờ  Trạng   Nguyên, hay kể cả đền thờ thần, chùa chiền ở các xã (phường) ,… Đây thực sự  là những địa chỉ nếu được đưa vào khai thác trong dạy  – học sẽ mang tính giáo  dục rất cao. Nhưng trong thực tế, điều này chưa thực sự  có sự  quan tâm thích   đáng trong dạy học địa lí. Bởi thực tế cho thấy, có những di tích hay địa danh   ngay trên địa bàn mà học sinh đang theo học, đang sinh sống nhưng bản thân các  em chỉ có sự hiểu biết rất ít ỏi, hoặc có nhiều em không biết gì. Thậm chí mới  chỉ nghe tên chứ chưa được đến tham quan thực tế. Tiến hành hoạt động trải nghiệm tại các di tích văn hóa, địa danh du lịch  ngay chính trên quê hương, gắn liền với không gian sinh sống, học tập của học   sinh cũng chính là định hướng học sinh vào tìm hiểu những di sản văn hóa ở địa  phương, sẽ    giúp các em cảm thấy bài học địa lí gắn bó hơn với cuộc sống   xung quanh của các em, sẽ bồi dưỡng cho học sinh tình cảm tự hào với những   giá trị  văn hóa truyền thống do cha ông để  lại, càng thêm yêu quê hương đất  nước mình hơn và có một cái nhìn rộng mở  cho sự  phát triển kinh tế  của địa  phương. Tuy vậy, vấn đề  này chưa được chú ý để  khai thác nhiều hoặc chỉ  mới khai thác cầm chừng. Đó chính là thực trạng trong dạy học  ở  huyện Yên   Thành chúng tôi. Đây cũng chính là lí do khiến tôi trăn trở  và thực hiện đề  tài  này. 2.3. Thực tiễn về  dạy học địa lí gắn với tham quan trải nghiệm   tại   các di tích – danh thắng ở các Trường THPT trên địa bàn Yên Thành.  2.3.1.Thuận lợi Trong quá trình thực hiện phong trào “Xây dựng trường học thân thiên,  học sinh tích cực”, hầu hết các trường THPT đã luôn có nhiều hoạt động, như  việc tổ  chức nhiều hoạt động đền  ơn, đáp nghĩa được đông đảo giáo viên và   học sinh nhiệt tình hưởng ứng. Gần như ở các trường THPT, đều có di tích lịch  sử và danh lam thắng cảnh, và khoảng cách từ nhà trường đến các di tích, danh   thắng không xa (trong khoảng từ 1 km đến 5 km) nên việc đi lại khảo sát thực   tế, sưu tầm tư liệu và tổ  chức cho học sinh đến chăm sóc cũng như  tiến hành  hoạt động trải nghiệm rất thuận lợi.  14
  14. Khi triển khai dạy học tại các di tích trên địa bàn, thuận lợi nhất đối với  nhà trường là sự  ủng hộ nhiệt tình của Đảng ủy và chính quyền, nhân dân các  xóm, các xã trên huyện nhà. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng quyết định   đến chất lượng của hoạt động trải nghiệm. Trong   quá   trình   giảng   dạy   tại   trường,   bản   thân   giáo   viên   đã   được   tổ  chuyên môn tổ chức học tập bài bản, khoa học, có chất lượng các nội dung tập  huấn chuyên đề  đổi mới phương pháp của Sở  GD&ĐT Nghệ  An. Các thành  viên trong tổ  góp ý, đánh giá giờ  dạy thẳng thắn, chân thành, cầu tiến. Đồng  nghiệp luôn có những trao đổi bổ ích về chuyên môn trực tiếp hoặc trên e­mail,  trên trang Facebook riêng của tổ. Ban chuyên môn của nhà trường cũng đã tổ  chức thao giảng, hội thảo đổi mới phương pháp dạy học. Không chỉ  thế, kể  từ  năm học 2014  – 2015 đến nay, hoạt động dạy học  trải nghiệm sáng tạo được sở Giáo dục đào tạo Nghệ An chú trọng triển khai.  Ở  các trường THPT, hoạt động này được thực hiện rộng rãi  ở  tất cả  các tổ  chuyên môn với nhiều hình thức như  tổ  chức học sinh tham quan, dã ngoại,   thành lập các câu lạc bộ  như:  Câu lạc bộ  Tiếng Anh, câu lạc bộ  lịch sử, tổ  chức các buổi ngoại khóa,...  Thời gian gần đây, trên địa bàn huyện Yên Thành và  ở  trường chúng tôi  nói riêng cũng đã có những hoạt động dạy học trải nghiệm sáng tạo như  tham  quan các di tích lịch sử cách mạng, nhà máy sản xuất sữa TH True Milk… Không chỉ  thế, trên mạng Internet, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã có bài  viết sâu sắc về  hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Đó là những tài liệu quý báu  để chúng tôi học hỏi, tham khảo. Yên Thành là một vùng quê có truyền thống lịch sử  lâu đời, gắn liền với   quá trình dựng nước và giữ  nước của dân tộc Việt Nam, là vùng quê giàu   truyền thống văn hóa và giàu tài nguyên du lịch, kể  cả  tài nguyên du lịch tự  nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Trên khắp địa bàn Yên Thành, hầu hết xã   nào cũng có di tích, danh thắng, địa danh tiêu biểu, hầu như  trên địa phận các  trường học đóng, đều có tài nguyên du lịch nhân văn, địa điểm thu hút sự quan   tâm của nhiều du khách . Đó là kho tài nguyên phong phú để giáo viên địa lí khai  thác trong quá trình giảng dạy. Đối với các em học sinh, được sinh ra và lớn lên   trên mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, với những địa danh nổi tiếng, tiềm   ẩn giá trị  du lịch vô cùng lớn lao các em đang có một điều kiện thuận lợi để  khám phá, trải nghiệm vốn địa lí – văn hóa của quê hương, tăng thêm tình yêu,  niềm hứng thú với bộ môn địa lí, nhất là để hình thành những năng lực cơ bản   cho bản thân.  Các hoạt động thực tiễn này là cơ sở để chúng tôi rút kinh nghiệm, đưa ra   những giải pháp phù hợp với đặc thù đề tài của mình. 2.3.2. Khó khăn 15
  15. Bên cạnh những thuận lợi, khi thực hiện đề tài này chúng tôi cũng đã gặp   một số  khó khăn mà trước hết là tình trạng học sinh hiện nay trở  nên ngại,   không chọn môn địa lí để học, coi là môn phụ. Những giờ học địa lí vì thế mà   nhiều lúc trở  nên khiên cưỡng: học trò uể  oải, thụ  động, giáo viên độc thoại  trên bục giảng. Giờ  học trở  nên khô khan. Các em tiếp xúc với những đối  tượng, hiện tượng trên những trang giấy như  tiếp xúc với những câu chữ  vô   hồn.  Mặc dù huyện Yên Thành có nhiều tiềm năng về du lịch, nhiều di tích lịch  sử  đã được công nhận di tích lịch sử  Quốc gia, nhưng việc tuyên truyền về  di  tích, danh thắng trong nhân dân và học sinh lại chưa nhiều. Cơ sở hạ tầng chưa  được đầu tư nên đường đi vào nhiều di tích còn gặp khó khăn.  Thời gian, điều kiện, kinh phí để tổ chức các hoạt động trải nghiệm các di  tích trong năm học rất khó bố  trí. Vì thế chúng tôi phải đầu tư  thời gian, công  sức để sưu tầm tư liệu, tổ chức tuyên truyền về di tích, danh thắng trong giáo   viên và học sinh, phối hợp với các bộ phận chức năng của nhà trường xây dựng   kế  hoạch để  tổ  chức hoạt động trải nghiệm tại di tích, danh thắng có hiệu  quả.  Quê lúa Yên Thành là một huyện nửa trung du miền núi, nửa đồng bằng,   kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Những năm qua đời sống của nhân dân đã có   nhiều khởi sắc, các hoạt động giáo dục cũng đã được các bậc phụ huynh chú ý  nhiều hơn nhất là những hoạt động nhằm tăng tính trải nghiệm cho con trẻ.   Tuy vậy đa số học sinh tại cơ sở THPT trên địa bàn Yên Thành sinh sống trong   gia đình còn nhiều khó khăn, ngoài giờ  học  ở  trường ít khi các em được tham  gia những hoạt động trải nghiệm khác ở các câu lạc bộ, các trung tâm vui chơi   hay đơn giản là những chuyến tham quan dã ngoại. Các em có thể  tiếp thu   nhanh những tri thức từ sách vở nhưng những kĩ năng mềm để xử lí tình huống  trong cuộc sống vẫn còn thiếu hụt. Đó là chưa kể, nhiều học sinh hiện nay tỏ  ra chơi bời, lêu lổng, sa vào thế giới ảo, xa rời những giá trị  lịch sử  – văn hóa  tốt đẹp của quê hương. Thực tế đó nhắc nhở chúng tôi cần có những giải pháp  để kết nối các em với đời sống xã hội, nhất là cuộc sống xung quanh, xây dựng   lối sống lành mạnh bồi dưỡng tình yêu với di tích lịch sử – văn hóa dân tộc. Không chỉ thế, về phần tài liệu tổ  chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo  cho học sinh THPT chưa tập hợp thành hệ thống như đối với THCS (trung học   cơ  sở). Với đặc điểm tâm lí, lứa tuổi, yêu cầu chuẩn về  phẩm chất năng lực   đầu ra, chúng tôi không thể  áp dụng máy móc những gì đã có trong tài liệu  THCS. Hơn nữa, mặc dù hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một hoạt động  không mới trong dạy học trong những năm gần đây, nhưng nội dung đề  tài   chúng tôi đặt ra là khá mới mẻ, đó chính là nội dung và đối tượng trải nghiệm,  khai thác cũng như cách thức khai thác và giải pháp tiếp cận với các di tích khi   nguồn tư  liệu trong sách giáo khoa, tài liệu tham khảo về  lịch sử  địa phương  16
  16. không có nhiều, đặc biệt là đối với các di tích trên quê hương mà chúng tôi   muốn giới thiệu và cho học sinh tiến hành hoạt động trải nghiệm. Từ  những thuận lợi và khó khăn đặt ra trong thực tiễn kết hợp với ánh   sáng của cơ sở lí luận soi đường, chúng tôi đã đề xuất cách thức và một số nội  dung, giải pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh tại cơ sở  giáo dục của mình. Chương II: Cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm tại di tích, danh   thắng trên quê hương Yên Thành, Nghệ An. 1. Mối quan hệ  giữa các di tích, danh thắng với chương trình địa lí  lớp 12 Chúng tôi đã chọn 4 địa chỉ để học sinh hoạt động trải nghiệm, cụ thể:  Đình Sừng thuộc xã Lăng Thành, Yên Thành, Nghệ An Núi Tháp Lĩnh – đền Cả thuộc xã Hậu Thành, Yên Thành, Nghệ An. Đền Đức Hoàng thuộc xã Phúc Thành, Yên Thành, Nghệ An. Nhà thờ  Trạng Nguyên Hồ  Tông Thốc thuộc xã Thọ  Thành, Yên Thành,  Nghệ An. 1.1. Giới thiệu khái quát về các di tích, danh thắng 1.1.1. Đình Sừng Đình Sừng  nằm  ở  phía Đông Nam của xã Lăng Thành, cách thành phố  Vinh 65 km về phía Tây Bắc và cách huyện lỵ Yên Thành 7 km về phía Đông  Bắc.  Đây di tích cổ  nhất và đẹp nhất với quy mô nghệ  thuật trang trí, điêu   khắc, chạm trổ vào loại bậc nhất của Đông Thành nhị huyện xưa. Làng Quỳ Lăng xưa có tên là gọi là kẻ  Sừng, đây là một ngôi làng cổ, có  địa thế  tương đối độc đáo. Trước mặt là cánh đồng rộng lớn, sau là núi rừng  trùng điệp, một vùng đất không những thuận lợi cho việc phòng thủ  trong   chiến tranh, tiến có thể  đánh, lui có thể  giữ  mà còn có nhiều lợi thế  về  phát  triển kinh tế.  Chính vì lợi thế  độc đáo đó mà vùng đất kẻ  Sừng đã sớm trở  thành nơi quần cư  của người Kinh và là một trong những trung tâm kinh tế,  chính trị, văn hóa quan trọng của phủ Châu Diễn nói riêng và của cả  nước nói  chung. Theo lịch sử của huyện Yên Thành và lịch sử địa phương thì ngay từ khi  nhà Đường lấy huyện Hàm Hoan trong châu để  đặt ra Diễn Châu, làm thành   một trong 12 châu của An Nam đô hộ  phủ. Từ  năm 679 đến hết triều đại nhà  Đinh năm 979, liên tục trong 3 thế kỉ, kẻ Sừng đã được chọn làm nơi đóng lỵ  sở của Diễn Châu. Đến năm 980 –  năm đầu tiên của triều tiền Lê, lỵ sở Diễn   Châu   được  chuyển   đến  kẻ   Dền  –  Công   Trung  Thượng,  nay  thuộc   xã  Văn  Thành, huyện Yên Thành. Theo các văn bia hiện còn lại tại đình Sừng thì đình Sừng được nhân dân  làng Quỳ  Lăng bắt đầu xây dựng vào tháng 11 năm 1583 để  làm nơi hội họp,   17
  17. sinh hoạt văn hóa của dân làng. Nguyên xưa đình được làm bằng tranh tre, nứa   lá nằm giữa một vùng dân cư  đông đúc, xung quanh có làng mạc, cây đa, bến  nước và con sông Sừng uốn khúc như  dải lụa mềm chở nặng phù sa tắm mát   cho ruộng đồng. Cùng với kiến trúc cổ đặc sắc như cầu đá, cổng làng... đã tôn   vinh vẻ đẹp độc đáo, tinh túy của ngôi đình cổ. Đến năm 1797, làng dựng thêm  tòa Hậu cung để làm nơi thờ các vị thần Thành hoàng của làng.  (Ảnh: Những chạm khắc tinh xảo của đình Sừng) Nguyên xưa đình được làm bằng tranh tre, nứa lá nằm giữa một vùng dân   cư đông đúc, xung quanh có làng mạc, cây đa, bến nước và con sông Sừng uốn  khúc như  dải luạ  mềm chở  nặng phù sa. Đến năm 1979, do nhu cầu văn hóa   cao, ngôi đền đã không đủ chỗ cho dân làng làm lễ tế trong các dịp lễ trọng nên  làng đã xây dựng têm nhà Hậu cung làm nơi bài trí thờ phụng các vị nhân thần   và nhiên thần. Từ  đó, cứ  vào dịp lẽ  cầu yên vào ngày 15/3 âm lịch hàng năm   làng lại tổ chức lễ lớn tại đình Sừng. Trong quá trình tồn tại và phát triển, đình đã được tu sửa nhiều lần vào các  năm 1637, 1677, 1797, 1844, 1913 và đến năm 1929 đình được trùng tu, xây dựng  lại to đẹp như  ngày nay. Việc này được ghi lại trong bản sơ  thảo lịch sử quê   hương, xã Lăng Thành còn chép lại: Vào năm Đinh Mão 1927, dân làng Quỳ  Lăng bắt tay vào việc chuẩn bị  lấy gỗ, tiền bạc... để  tu sửa lại đình. Về  gỗ,  làng chia cho 11 giáp là giáp Đông, giáp Tây, giáp Nam, giáp Bắc, giáp Nghè,   giáp Danh, giáp Trụ Sáo, giáp Thọ Cầu, giáp Đồng Lạc, giáp Đa, giáp Trung đi  chọn và khai thác các loại gỗ  lim tốt nhất trong rừng của làng Quỳ  Lăng. Về  tiền, làng đặt cho thợ  5 ngàn quan thu từ  việc bán các chức sắc của làng như  hiệu xã, thần tổ  của làng tu bổ  theo đinh, điền. Về  ngói, làng tự  lập ra tổ  thợ  mở  lò, dập theo khuôn riêng và nung theo tiêu chuẩn. Sau 3 năm chuẩn bị, đến  18
  18. năm 1929, việc tôn tạo, xây dựng lại đình Sừng được khởi công dưới sự  chỉ  đạo của đốc công Hoàng Doãn Cù. Để rút ngắn thời gian thi công, làng đã thuê  hai hiệp thợ, một hiệp thợ  của ông phó Tu ­ người làng Phú Minh, xã Quỳnh   nghĩa, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ  An  –  chịu trách nhiệm làm các vì phía  Đông, một hiệp thợ của ông phó Tới – người xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu –  chịu trách nhiệm làm các vì phía Tây. Sau 6 tháng thi công, đến đầu năm 1930,  việc trùng tu, tôn tạo lại đình đã được hoàn thành với kiến trúc thời Nguyễn  với quy mô đồ sộ. Hai nhà Tả vu và Hữu vu cũng được xây dựng trong thời kì  này. Đến nay, địa phương vẫn còn truyền miệng nhiều thơ  ca dân gian phản   ánh phần nào không khí sôi động của làng trong lần tôn tạo, xây dựng đình năm  1929 như sau: “Bấy giờ họp xã đinh, tiền Người bỏ vô điện, người bỏ vô đình. Dưới trên ai nấy thuận tình Trống đánh rập rình reo ca cả đêm. Ba năm kéo gỗ một miền Đắp nền thuê thợ tức thì làm ngay”. Nhưng từ  sau những năm 1930 – 1931, các kiến trúc cổ  quanh đình đã dần bị  mất mát và hư hỏng. Đặc biệt là từ khi công trình thủy lợi Vách Bắc được đào   đắp, xây dựng vào năm 1978, vùng đất này thường xuyên bị  lũ lụt kéo dài nên  làng mạc, chợ  búa  ở  quanh đình phải dời đi nơi khác, cảnh quan quanh đình   cũng   dần   thưa   thớt. Hiện nay, đình Sừng nằm giữa một vùng đất rộng bằng phẳng, bốn bề  là  những cánh đồng rộng lớn, tuy hơi xa nhưng cảnh quan nơi  đây vẫn thoáng  đãng, mát mẻ. Nằm cách đình một quãng về  phía Đông là sông Dinh, 1 đoạn   trong hệ thống tưới tiêu Vách Bắc, phía Tây là làng mạc, chợ búa sầm uất nằm  xen giữa những vườn đồi và rừng cổ thụ bạt ngàn. Trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, đình Sừng vẫn giữ  được vẻ  đẹp nguyên sơ và gắn liền với những chứng tích lịch sử của đất và người Quỳ  Lăng. Trong những năm 1930 – 1931, đình là địa điểm hội họp bí mật của Chi  bộ   Quỳ   Lăng   –   một   trong   những   Chi   bộ   Đảng   đầu   tiên   của   huyện   Yên  Thành.Sau đó, thực dân Pháp dùng làm nơi bắt bớ, giam cầm cách mạng Việt  Minh. Trong kháng chiến chống Mĩ, đình Sừng từng là nơi đóng xưởng dệt của   Quân khu 4 trong một thời gian dài. Ngày nay, đình là trung tâm diễn ra nhiều  hoạt động mang đậm bản sắc văn hóa địa phương như tế thần, rước kiệu, hát  ả  đào, hát chèo, vật cù lộ, đồng thời, đình còn là nơi tổ  chức hội họp của các  đoàn thể, tổ chức địa phương. Trước đây đình Sừng trước đây có 5 công trình  là Đình, Hậu cung, nhà Tả vu – Hữu vu và một nhà Miếu nhưng nhà Tả vu và   Hữu vu đã bị dỡ để làm trường học nên hiện nay còn 3 hạng mục công trình là  Đình, Hậu cung và nhà Miếu được làm theo lối kiến trúc thời Nguyễn. 19
  19. Đình còn có một mảnh vườn diện tích 4.206m2 được trồng rau, cây ăn quả  xung quanh là một lớp bờ rào bằng cây xanh.Tòa đình hai đầu xây tường bẻ góc  về  phía trước còn hai mặt trước sau để  trống. Trên bờ  nóc trang trí rất đơn  giản, phía ngoài trang trí giống bốn góc mái đều là các đầu đao dạng vân mây,  giữa là hình  ảnh lưỡng long chầu nguyệt. Hai đầu tường bít đốc đắp nổi các  họa tiết rồng cách điệu rất sinh động. Trong khi bít đốc phải đắp nổi hình  tượng rồng rất đơn giản, rõ nét thì bít đốc phía trái được trang trí có vẻ  rườm  rà nhưng vẫn rất sắc sảo và tinh tế. Đình dài 24,7m, rộng 11,2m, quay mặt về  phía Nam,  khung  làm  hoàn  toàn bằng  gỗ   lim, kích  thước  lớn,  lợp  ngói  âm   dương. Nền nhà được làm bằng đất sạn sỏi, có độ  cứng cao, móng đình cao   hơn 0,5m so với sân và vườn đình. Xung quanh móng được giằng bằng đá ong.  Trong   đình   có   kiến   trúc   độc   đáo,   chạm   trổ   tinh   vi. Đình có 2 bia đá được khắc chữ 2 mặt, dụng vào năm 1637, ghi lại lịch sử dựng   đền, thời gian tu sửa và sự  đóng góp của mọi người. Bia có kiểu dáng đơn  giản, mảnh mai và còn nguyên vẹn. Qua tòa đình là khoảng sân lộ thiên rộng 8m là đến nhà Hậu cung. Theo tài   liệu kiểm kê di tích năm 1964, thì ban đầu, nhà Hậu cung gồm có 3 gian, với  diện tích là 81,6m2. Khung nhà cũng dược làm hoàn toàn bằng gỗ  lim, mái lợp  ngói âm dương, 3 phía xây tường, đóng mở bằng cửa bàn khoa. Trên các xà, kèo   được chạm lộng tinh vi, sắc xảo. Phía trước đắp phù điêu tượng quan văn,  quan võ ở 2 bên tường. Trong nhà có bài trí 2 long ngai, 2 hương án và nhiều đồ  tế  khí đẹp, trong đó có một lư  hương đá cao 0,24m được làm vào năm 1875.   Nhưng do chiến tranh mà tòa hậu cung đã bị  phá dỡ  trong chiến tranh chống  Mỹ. Ngoài ra, ngôi đình cổ  này còn nhiều công trình khác, tuy nhiên đến nay,   ngôi đình  chỉ  còn lại một số  công trình chính cùng văn bia, đây trở  thành một  địa điểm diễn ra các lễ hội, cuộc vui của làng. Có thể nói, Đình Sừng là một trong những công trình kiến trúc cổ, có quy   mô đồ  sộ, nghệ  thuật trang trí, điêu khắc chạm trổ  đẹp vào loại bậc nhất  ở  Nghệ An. Với những giá trị  to lớn về lịch sử, văn hóa và kiến trúc của di tích,   ngày 29/10/2003, Đình Sừng đã được công nhận là di tích lịch sử  kiến trúc  Quốc   gia.   Đến   năm   2010,   được   sự   hỗ   trợ   của   nhà   nước,   chính   quyền   địa   phương đã đầu tư trùng tu, nâng cấp một số hạng mục, nhằm giữ gìn những tư  liệu quý, giúp cho các nhà khoa học tìm hiểu, nghiên cứu về  nghệ  thuật kiến   trúc của di sản văn hóa cổ và cũng là nơi giáo dục truyền thống cho các thế hệ  mai sau. Đình Sừng xứng đáng là điểm đến của du khách khi đến với xã Lăng   Thành nói riêng, huyện Yên Thành nói chung, và là biểu tượng của lịch sử dân   tộc tại huyện, chứng tỏ một làng quê trù phú bên dòng sông có từ thời xưa với   những nét văn hóa dân tộc. 1.1.2. Núi Tháp Lĩnh – đền Cả 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2