intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học đọc hiểu thơ trung đại (lớp 10 THPT) hướng tới phát triển năng lực người học

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:65

14
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học đọc hiểu thơ trung đại (lớp 10 THPT) hướng tới phát triển năng lực người học" nhằm đề xuất được một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học đọc hiểu thơ trung đại Việt Nam (lớp 10 THPT) hướng tới phát triển năng lực người học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học đọc hiểu thơ trung đại (lớp 10 THPT) hướng tới phát triển năng lực người học

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC ĐỌC HIỂU THƠ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM (LỚP 10 THPT) THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGƯỜI HỌC MÔN: NGỮ VĂN
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT NAM ĐÀN I SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC ĐỌC HIỂU THƠ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM (LỚP 10 THPT) THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGƯỜI HỌC MÔN: NGỮ VĂN Tác giả: Hồ Thị Cẩm Hằng Tổ: Xã hội 1 Năm thực hiện: 2021 - 2022 Số điện thoại: 0972 550 730
  3. MỤC LỤC Mục Trang PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài……………………………………………………….... 1 2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………..... 2 3. Nhiệm vụ nghiên cứu ……………………………………........................ 2 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu …………………………………….... 2 5. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………....... 3 6. Cấu trúc của đề tài…………………………………………………......... 3 PHẦN II. NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận của đề tài………………………………………………....... 4 1. Dạy học định hướng phát triển năng lực……………………………........ 4 1.1. Khái niệm năng lực……………………………………………............. 4 1.2. Dạy học phát triển năng lực………………………………………….... 4 2. Thơ trung đại Việt Nam (lớp 10)………………………………………... 5 2.1. Hệ thống các văn bản thơ trung đại Việt Nam (lớp 10)………….......... 5 2. 2. Đặc điểm của văn bản thơ trung đại trong chương trình Ngữ văn 10... 6 II. Cơ sở thực tiễn của đề tài……………………………………………...... 8 1. Thực trạng từ phía chương trình, thời lượng ………………………….... 8 2. Thực tiễn hoạt động dạy học đọc hiểu thơ trung đại (lớp 10) ở trường 9 THPT ……………………………………………………………………… 2.1. Thực trạng từ phía giáo viên………………………………………… 10 2.2. Thực trạng từ phía học sinh……………………………………….. 11 III. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học đọc hiểu thơ trung đại 12 Việt Nam (lớp 10 THPT) theo hướng phát triển năng lực người học………………………………………………………………………… 1. Huy động, kết nối tri thức thể loại ....……………………..…………...... 12 1.1. Đối với các sáng tác thơ trung đại bằng chữ Hán……………………... 12 1.2. Đối với các sáng tác thơ trung đại bằng chữ Nôm…………………...... 15 2. Tổ chức hoạt động trải nghiệm …………………………………….…....... 17 2.1.Tổ chức trò chơi………………………………………….……….…..... 17 2.2.Ứng dụng công nghệ thông tin…………………………..…….…….… 18
  4. 2.3. Sân khấu hoá, phát huy năng khiếu của HS ………………………...… 21 3. So sánh, liên hệ thực tiễn ……………………………………………….. 23 3.1. So sánh đối chiếu trong văn bản, liên văn bản………………………… 23 3.2. Liên hệ thực tiễn đời sống………………………………….………….. 26 4. Chú trọng hệ thống câu hỏi trong việc tiếp nhận văn bản ……………… 27 4.1. Định hướng hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài, chỉ dẫn cách giải 27 quyết hệ thống câu hỏi …………………………………………………….. 4.2. Vận dụng kĩ thuật đặt câu hỏi và gợi dẫn HS trong giờ học………....... 28 IV. Thực nghiệm sư phạm áp dụng sáng kiến…………………………....... 29 1. Mục đích, yêu cầu thực nghiệm………………………………………..... 29 2. Đối tượng, địa bàn, thời gian và quy trình thực nghiệm……………........ 30 3. Thiết kế giáo án thực nghiệm…………………………………………..... 30 4. Đánh giá kết quả thực nghiệm…………………………………………... 40 PHẦN III. KẾT LUẬN…………………………………………………… 45 TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………... 48 PHỤ LỤC
  5. BẢNG KÍ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt Từ ngữ đầy đủ CNTT Công nghệ thông tin CT GDPT Chương trình Giáo dục phổ thông ĐC Đối chứng HS Học sinh GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo GV Giáo viên GS.TS Giáo sư, Tiến sĩ Nxb Nhà xuất bản SGK Sách giáo khoa SKKN Sáng kiến kinh nghiệm THPT Trung học phổ thông TN Thực nghiệm TLCKTKN Tài liệu Chuẩn kiến thức kĩ năng TLTK Tài liệu tham khảo PHT Phiếu học tập PPDH Phương pháp dạy học tr trang
  6. PHẦN A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Dạy học phát triển năng lực cho người học được xem như mục tiêu cốt lõi của chương trình giáo dục phổ thông mới. Hướng tới phát triển năng lực “coi trọng giáo dục tư tưởng, phẩm chất đạo đức và ý thức công dân; kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại...”; đào tạo được những con người không những có kiến thức mà còn vận dụng được những kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống, nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội. Để đáp ứng được mục tiêu đó, việc đổi mới phương pháp dạy học trong nhiều năm gần đây đã và đang được đẩy mạnh. Dạy học môn Ngữ văn nói chung và dạy đọc hiểu thơ trung đại nói riêng cũng có nhiều chuyển biến rõ rệt. 1.2. Hệ thống các tác phẩm thơ trung đại Việt Nam chiếm khối lượng khá lớn trong chương trình Ngữ văn THPT, nó đóng giữ vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc. Và khi thay đổi chương trình, SGK thì các văn bản thơ trung đại vẫn giữ nguyên vai trò và vị trí then chốt của mình. Đọc hiểu tốt các tác phẩm này sẽ tạo tiền đề quan trọng để HS tiếp thu tốt hơn các tác phẩm văn học hiện đại giai đoạn sau. Đồng tạo thời tạo một nền tảng tốt cho HS có thể tiếp cận những văn bản thơ trung đại tương tự ngoài SGK. 1.3. Thực tiễn dạy học cho thấy rằng: phần văn học trung đại là phần rất khó tiếp cận đối với học sinh bởi tính chất hàn lâm, quy phạm... của nó. Hơn nữa, rào cản thời đại, bối cảnh ra đời tác phẩm càng tăng thêm tính chất khó khăn ấy. Đặc biệt, đối với HS lớp 10, vừa bước chân vào trường THPT còn bỡ ngỡ với môi trường mới, tâm lí lứa tuổi của những thế hệ 2X khiến cho việc tiếp cận những văn bản thơ trung đại trở nên khó hơn. Vì thế, nhiều học sinh ít hứng thú, không tích cực trong giờ học với những văn bản văn học cổ. Nhiều giờ học diễn ra nặng nề, mệt mỏi... Việc soạn giảng của GV để tích cực hoá hoạt động của HS trong giờ học vốn đã khó, tích cực hoá hoạt động trong giờ đọc hiểu thơ trung đại lại càng nan giải. Từ đó mà đặt ra vấn đề là phải có những biện pháp tối ưu nhằm giúp giáo viên và học sinh đạt hiệu quả cao trong giảng dạy và học tập thơ trung đại Việt Nam cũng như thơ trung đại (lớp 10), nhằm kích thích hứng thú, khơi dậy sự yêu thích, say mê đối với những tác phẩm thơ ca trung đại. 1.4. Thêm vào đó, xu hướng chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên tất cả các mặt, cùng với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin trong thời đại 4.0 như hiện nay đã tác động không nhỏ đến giáo dục. Đây không chỉ là thách thức mà còn là điều kiện thuận lợi để GV có thể đổi mới PPDH, tìm được giải pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả dạy học đọc hiểu thơ trung đại (thơ trung đại lớp 10). Một khi đã tổ chức được giờ học tốt, làm thay đổi tâm thế tiếp nhận văn bản thơ trung đại từ người học một cách tích cực thì sẽ giúp cho chủ thể học tập bắt nhịp được 1
  7. với thời đại, phát huy sự năng động, sáng tạo của mình, đáp ứng được những nhu cầu mới của xã hội. Xuất phát từ các lí do trên, tôi chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học đọc hiểu thơ trung đại (lớp 10 THPT) hướng tới phát triển năng lực người học”để nghiên cứu với mong muốn đem chút công sức bé nhỏ của mình chia sẻ kinh nghiệm với các đồng nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả những giờ dạy học đọc hiểu thơ trung đại (lớp 10) ở nhà trường phổ thông. Trải qua thực tiễn dạy học của bản thân, sự tích luỹ, học hỏi và đúc kết kinh nghiệm từ đồng nghiệp, cùng với quá trình nghiên cứu, tìm tòi, chúng tôi thấy rằng đây là một đề tài khá mới, có tính khả thi cao. Áp dụng đề tài vào thực tiễn dạy học, GV không chỉ đảm bảo dạy học thơ trung đại theo đặc trưng thể loại mà còn tạo được không khí, môi trường học tập đầy hứng thú cho người học, mềm hoá hệ thống kiến thức của bài học vốn rất khó tiếp nhận. Từ đó lôi cuốn được người học tham gia hoạt động học chủ động, tích cực. 2. Mục đích nghiên cứu Từ cơ sở lí luận và thực tiễn, đề xuất được một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học đọc hiểu thơ trung đại Việt Nam (lớp 10 THPT) hướng tới phát triển năng lực người học. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về dạy học định hướng phát triển năng lực học sinh và thơ trung đại Việt Nam (lớp 10) 3.2. Nghiên cứu cơ sở thực tiễn trong việc dạy học đọc hiểu các tác phẩm thơ trung đại trong chương trình Ngữ văn 10. 3.3. Nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học đọc hiểu thơ trung đại Việt Nam (lớp 10 THPT) hướng tới phát triển năng lực người học. 3.4. Tiến hành thực nghiệm sư phạm để xem xét khả năng ứng dụng của đề tài trong việc nâng cao hiệu quả dạy đọc hiểu thơ trung đại lớp 10. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học đọc hiểu thơ trung đại Việt Nam (lớp 10 THPT) hướng tới phát triển năng lực người học. Áp dụng với đối tượng học sinh lớp 10 trường THPT Nam Đàn 1, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An 4.2. Phạm vi nghiên cứu 2
  8. Tổng hợp một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học đọc hiểu thơ trung đại Việt Nam (lớp 10) tại trường THPT Nam Đàn 1 hướng tới phát triển năng lực học sinh. Thời gian khảo sát vấn đề nghiên cứu được thực hiện trong năm học 2021- 2022. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như sau: Phương pháp phân tích- tổng hợp Phương pháp thống kê Phương pháp so sánh Phương pháp hệ thống Phương pháp nêu số liệu Phương pháp thực nghiệm sư phạm 6. Cấu trúc đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung đề tài được triển khai như sau: - Những cơ sở lí luận của vấn đề - Những cơ sở thực tiễn của vấn đề - Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học đọc hiểu thơ trung đại (lớp 10 THPT) hướng tới phát triển năng lực người học. - Thực nghiệm sư phạm áp dụng sáng kiến 3
  9. PHẦN II. NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận của đề tài 1. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực 1.1. Khái niệm năng lực Theo Từ điển Tiếng Việt thì năng lực được hiểu theo hai cách: “1. Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó”, “2. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó với chất lượng cao” [19]. Trong tài liệu tập huấn của Bộ GD & ĐT về Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Ngữ văn cấp THPT do Bộ GD & ĐT phát hành năm 2014 thì năng lực được hiểu “là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân,… nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Năng lực thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố (phẩm chất của người lao động, kiến thức và kỹ năng) được thể hiện thông qua các hoạt động cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó” [9]. Như vậy, có thể hiểu một cách ngắn gọn năng lực là khả năng vận dụng tất cả các yếu tố chủ quan (mà bản thân có sẵn hoặc được hình thành qua học tập) để giải quyết các vấn đề trong học tập, công tác và cuộc sống. Đó là khả năng thực hiện, làm việc dựa trên hiểu biết chắc chắn, kĩ năng thuần thục và thái độ phù hợp; là những kiến thức, kĩ năng và các giá trị được phản ánh trong thói quen suy nghĩ và hành động của mỗi cá nhân. Đó cũng là tập hợp toàn bộ các kỹ năng, kiến thức, khả năng, hành vi của một người có thể đáp ứng đối với một công việc nhất định nào đó, đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng để cá nhân có thể hoàn thành một việc nào đó hiệu quả hơn so với người khác. Năng lực cơ bản không được hình thành từ sẵn mà phải được hình thành qua quá trình học hỏi, rèn luyện từ môi trường xung quanh và sự tích lũy kinh nghiệm của bản thân trong hoạt động thực tiễn. Cho nên năng lực luôn luôn vận động và biến đổi. Đối với bản thân mỗi người, năng lực đóng vai trò rất quan trọng: giúp chúng ta giải quyết, hoàn thành những vấn đề phát sinh dễ dàng, nhanh chóng, hiệu quả; tiếp thu và vận dụng những kiến thức vào công việc một cách linh hoạt; trau dồi vốn hiểu biết... 1.2. Dạy học phát triển năng lực Dạy học theo hướng phát triển năng lực là mô hình dạy học hướng tới mục tiêu phát triển tối đa phẩm chất và năng lực của người học thông qua cách tổ chức các hoạt động học tập độc lập, tích cực, sáng tạo của học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn và hỗ trợ của GV. Hướng tới phát triển phẩm chất: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm và hình thành các năng lực: tự học và tự chủ, 4
  10. giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội, năng lực thẩm mỹ; năng lực ngôn ngữ... Dạy học định hướng phát triển năng lực có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Thay vì coi trọng việc truyền thụ tri thức, thiên về nội dung kiến thức thì dạy học phát triển năng lực chú trọng chất lượng đầu ra, hướng tới thực hiện mục tiêu phát triển các phẩm chất nhân cách và năng lực của học sinh một cách toàn diện. Khi đó, người học được chú trọng khả năng vận dụng kiến thức của bài học vào việc giải quyết các tình huống thực tiễn, áp dụng được những gì đã học vào thực tiễn, từ đó mà HS có khả năng thích ứng tốt với những thay đổi của cuộc sống. Dạy học phát triển năng lực giúp các giờ giảng dạy trở nên hiệu quả hơn, tạo ra những giờ học thú vị, sôi động và cuốn hút học sinh vào các hoạt động tìm tòi, khám phá kiến thức. Các kỹ năng học tập của HS nhờ vậy được rèn luyện và phát triển thường xuyên để giải quyết vấn đề một cách tốt nhất, phát huy tinh thần tự học, hợp tác, tư duy sáng tạo... Theo CT GDPT 2018, đối với môn Ngữ văn 10, khi tiếp cận các văn bản văn học nói chung, yêu cầu cần đạt trong dạy học phát triển năng lực đã chỉ rõ: Về đọc hiểu nội dung: Biết nhận xét nội dung bao quát của văn bản; biết phân tích các chi tiết tiêu biểu trong tính chỉnh thể của tác phẩm; Phân tích và đánh giá được chủ đề, tư tưởng, thông điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc thông qua hình thức nghệ thuật của văn bản; phân tích được một số căn cứ để xác định chủ đề; Phân tích và đánh giá được tình cảm, cảm xúc, cảm hứng chủ đạo của người viết; Phát hiện được các giá trị đạo đức, văn hoá từ văn bản. Về đọc hiểu hình thức: Phân tích và đánh giá được giá trị thẩm mỹ của một số yếu tố như từ ngữ, hình ảnh, vần, nhịp, đối, chủ thể trữ tình, nhân vật trữ tình,... Liên hệ, so sánh, kết nối: Vận dụng được những hiểu biết về tác giả để đọc hiểu một số tác phẩm của tác giả đó; Nhận biết và phân tích được bối cảnh lịch sử - văn hoá được thể hiện trong văn bản văn học; Liên hệ để thấy được một số điểm gần gũi về nội dung giữa các tác phẩm văn học thuộc hai nền văn hoá khác nhau; Nêu được ý nghĩa hay tác động của tác phẩm văn học đối với quan niệm, cách nhìn, cách nghĩ và tình cảm của người đọc, thể hiện được cảm xúc và sự đánh giá của cá nhân về tác phẩm. Dạy đọc hiểu các tác phẩm thơ trung đại lớp 10 theo hướng phát triển năng lực người học cần phải bám sát vào những yêu cầu này để đạt hiệu quả cao nhất. 2. Thơ trung đại Việt Nam (lớp 10) 2.1. Hệ thống các văn bản thơ trung đại Việt Nam (lớp 10) Chúng tôi tiến hành hệ thống các văn bản thơ trung đại Việt Nam trong SGK Ngữ văn 10 (cơ bản) của chương trình hiện hành bằng bảng thống kê sau: 5
  11. STT Tác phẩm Tác giả Đọc thêm 1 Thuật hoài Phạm Ngũ Lão 2 Bảo kính cảnh giới, bài 43 Nguyễn Trãi 3 Nhàn Nguyễn Bỉnh Khiêm 4 Độc “Tiểu Thanh kí” Nguyễn Du 5 Quốc tộ Đỗ Pháp Thuận X 6 Cáo tật thị chúng Mãn Giác thiền sư X 7 Quy hứng NguyễnTrung Ngạn X Toàn bộ các tác phẩm thơ trung đại lớp 10 được bố trí sau khi kết thúc học phần Văn học dân gian và nằm trọn trong chương trình học kì I. Trong bảy tác phẩm thơ trung đại thì có bốn tác phẩm được học chính khoá (Thuật hoài, Bảo kính cảnh giới số 43, Nhàn, Độc Tiểu Thanh kí), còn lại 3 tác phẩm đọc thêm (Quốc tộ, Cáo tật thị chúng, Quy hứng). Nhìn vào bảng thống kê, có thể thấy đội ngũ sáng tác phần nhiều là những thi nhân nổi tiếng, tâm hồn nặng những nỗi đời. Một thiên tài văn học Nguyễn Du trải qua biết bao thăng trầm trong cuộc đời để kết tinh nên những vần thơ “như có máu rỏ ở đầu ngọn bút”. Một nhà thơ trữ tình sâu sắc Nguyễn Trãi lúc nào cũng đau đáu hai chữ “thân dân”. Một thi nhân mang đậm cảm hứng thế sự Nguyễn Bỉnh Khiêm với những triết lí cuộc sống uyên thâm. Bên cạnh đó là những danh tướng, vị quan trong triều (Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trung Ngạn) và cả những nhà sư (Đỗ Pháp Thuận, Mãn Giác thiền sư). Nhưng cho dù là nhà thơ, nhà nho, nhà sư hay nhà quân sự... thì họ đều gặp gỡ nhau ở một điểm là tìm đến thơ ca để kí thác tâm sự, bày tỏ nỗi lòng. 2.2. Đặc điểm của văn bản thơ trung đại trong chương trình Ngữ văn 10 Về thời gian ra đời: Các văn bản thơ trung đại lớp 10 là các văn bản nghệ thuật được sáng tác trong khoảng thời gian từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX, là những tác phẩm chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của thơ Đường (Trung Quốc). Về văn tự: Các văn bản thơ trung đại trong chương trình Ngữ văn 10 bao gồm những sáng tác bằng chữ Hán và những sáng tác bằng chữ Nôm. Thơ chữ Hán: gồm các bài Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão), Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du), Quốc tộ (Đỗ Pháp Thuận), Cáo tật thị chúng (Mãn Giác Thiền sư), Quy hứng (Nguyễn Trung Ngạn). Thơ chữ Nôm gồm các bài: Bảo kính cảnh giới, bài số 43 (Nguyễn Trãi), Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm). 6
  12. Về thể loại: Trong bảy tác phẩm thơ trung đại lớp 10, có hai bài được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật là Thuật hoài, Quy hứng. Hai bài được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật: Độc Tiểu Thanh kí, Nhàn. Một bài viết theo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn: Bảo kính cảnh giới, bài số 43. Ngoài ra, có một bài viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt (Quốc tộ) và một bài thuộc thể kệ (Cáo tật thị chúng). Về đặc điểm nội dung, nghệ thuật: Nằm trong tổng thể của văn học trung đại Việt Nam, các tác phẩm thơ trung đại lớp 10 mang những đặc trưng chung về thi pháp của văn học trung đại. Thơ trung đại ca ngợi tư tưởng trung quân ái quốc; ca ngợi phong cảnh quê hương, đất nước, công tích của triều đại; phản ánh tâm sự của nhà thơ về thời cuộc, về vận nước, về những điều mắt thấy tai nghe, về những thân phận bất hạnh và đặc biệt coi trọng mục đích giáo huấn “thi dĩ ngôn chí”. Để thể hiện những điều đó, thơ trung đại thiên về tư duy nghệ thuật theo kiểu mẫu đã thành công thức, tuân thủ tính quy phạm, ước lệ, nghệ thuật đối, sử dụng nhiều điển tích, điển cố... Với những hình thức thơ cổ điển (thơ Đường luật) qui định rất chặt chẽ về số câu, số tiếng trong câu, niêm, luật, cách gieo vần. Với những đặc trưng chung này, trong quá trình dạy, cần bám sát đặc trưng thể loại, khai thác các tín hiệu nghệ thuật để trên cơ sở đó, dẫn dắt HS đi tìm cái hay, cái đẹp trong tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm. Bên cạnh những điểm chung đó, trong tiến trình phát triển, gắn với hoàn cảnh lịch sử - xã hội mà thời điểm tác phẩm ra đời thì những tác phẩm được sáng tác ở những giai đoạn khác nhau sẽ mang những đặc điểm khác nhau. Những tác phẩm thơ trung đại lớp 10 có những dấu ấn riêng: Các sáng tác thuộc giai đoạn đầu từ TK X-XV như Thuật hoài, Quốc tộ, nổi rõ là nội dung yêu nước mang đậm hào khí Đông A với âm hưởng hào hùng. Một số sáng tác trong giai đoạn từ TK XV đến TK XVII như Bảo kính cảnh giới bài 43, Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm được sáng tác bằng chữ Nôm có sự Việt hoá thể loại tiếp thu từ Trung Quốc như thơ Nôm viết theo thể Đường luật, thơ Đường luật xen lục ngôn... Giai đoạn từ TK XVIII đến nửa đầu TK XIX, xuất hiện trào lưu nhân đạo chủ nghĩa, nổi rõ lên là tác phẩm Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du). Tóm lại, thơ trung đại Việt Nam nói chung chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của thơ Đường Trung Quốc. Tuy nhiên, người Việt đã dần có sự tiếp biến, thay đổi bằng việc phá vỡ tính qui phạm, dân tộc hoá để làm nên bản sắc riêng cho văn học nước nhà, thậm chí “đã tiếp thêm cho thơ Đường luật một nguồn sinh lực mới mà ngay trên quê hương nó chưa có được” [13]. Chính vì vậy, càng về sau càng phát triển phong phú hơn về nội dung, mở rộng về đề tài và phạm vi phản ánh, độc đáo về hình thức thể hiện. 7
  13. II. Cơ sở thực tiễn của đề tài 1. Thực trạng từ phía chương trình, thời lượng Chương trình GDPT hiện hành chủ yếu xây dựng bám sát trục thể loại và tiến trình lịch sử phát triển của văn học. Các tác phẩm thơ trung đại lớp 10 được sắp xếp sau bài văn học sử “Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX” và được bố trí liền kề nhau (kể cả bài đọc thêm) tạo mạch liên kết. Thời lượng đọc hiểu các tác phẩm thơ trung đại lớp 10 từ 1 đến 2 tiết/ bài, có ba bài đọc thêm/ 1 tiết. Thời lượng ít ỏi so với một lượng kiến thức quá lớn (cả kiến thức cơ bản, cả tích hợp các kiến thức khác) tạo ra áp lực đối với GV đứng lớp. Sự bó hẹp về thời gian trong một dung lượng kiến thức có hàm lượng tư duy trừu tượng lớn đã khiến cho người thầy đôi lúc rơi vào tình trạng độc thoại, thuyết giảng. Từ đó dẫn tới sự hạn chế trong việc kích thích tư duy, sự sáng tạo của người học. Thêm vào đó, đặc trưng về thi pháp, đặc điểm riêng về văn tự, ngôn từ, tư tưởng... là những khó khăn, trở ngại lớn đối với HS trong quá trình tiếp nhận văn bản. Từ đó đặt ra thách thức cho người GV đứng lớp phải tìm ra giải pháp hiệu quả để trong một khoảng thời gian ngắn HS có thể thẩm thấu kiến thức, thâm nhập và hiểu văn bản một cách nhẹ nhàng, thấu đáo. Mặt khác, trong SGK Ngữ văn THPT hiện hành, hệ thống câu hỏi hướng dẫn HS học bài cũng chưa có sự thống nhất về tiêu chí, căn cứ và cơ sở. Mỗi bài, hệ thống câu hỏi đưa ra một kiểu. Chúng tôi lấy hai tác phẩm viết bằng chữ Nôm trong chương trình Ngữ văn 10 (bộ Cơ bản) minh chứng. Cùng hướng dẫn đọc hiểu thơ trung đại nhưng những câu hỏi đọc hiểu của bài Cảnh ngày hè (Nguyễn Trãi) và bài Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm) nêu ra khác nhau về kiểu loại và trình tự hỏi: Bài Cảnh ngày hè (Nguyễn Trãi) Bài Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm) 1. Trong bài thơ có nhiều động từ 1. Các số từ, danh từ trong câu thơ thứ diễn tả trạng thái của cảnh ngày hè. nhất và nhịp điệu hai câu thơ đầu có gì Đó là những động từ nào, trạng thái đáng chú ý? Hai câu thơ ấy cho ta hiểu của cảnh được diễn tả ra sao? hoàn cảnh cuộc sống và tâm trạng tác giả như thế nào? 2. Cảnh ở đây có sự hài hòa giữa âm 2. Anh (chị) hiểu thế nào là nơi “vắng thanh và màu sắc, cảnh vật và con vẻ”, chốn “lao xao”? Quan điểm của người. Anh chị hãy phân tích và làm tác giả về “dại”, “khôn” như thế nào? sáng tỏ. Tác dụng biểu đạt ý của nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4? 3. Nhà thơ đã cảm nhận cảnh vật 3. Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt bằng những giác quan nào? Qua sự trong hai câu thơ 5,6 có gì đáng chú ý? cảm nhận ấy, anh chị thấy Nguyễn Hai câu thơ cho thấy cuộc sống của Trãi là người có tấm lòng như thế Nguyễn Bỉnh Khiêm như thế nào? 8
  14. nào đối với thiên nhiên. (Quê mùa, khổ cực? Đạm bạc mà thanh cao? Hoà hợp với tự nhiên?). Phân tích giá trị nghệ thuật của hai câu thơ này? 4. Hai câu thơ cuối cho ta hiểu tấm 4. Đọc chú thích 4 để hiểu điển tích lòng của Nguyễn Trãi đối với người được vận dụng trong hai câu thơ cuối. dân thế nào? Âm điệu của câu thơ Anh (chị) cảm nhận như thế nào về lục ngôn kết thúc bài thơ khác âm nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm? điệu những câu thất ngôn như thế nào? Sự thay đổi âm điệu như vậy có tác dụng gì trong việc thể hiện tình cảm của tác giả? 5. Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là gì? - Không vất vả, cực nhọc. - Không quan tâm tới xã hội, chỉ lo cho cuộc sống nhàn tản của bản thân. - Hoà hợp với tự nhiên. Quan niệm sống đó là tích cực hay tiêu cực? Vì sao? Xuất phát điểm của cả hai bài là sự khai thác yếu tố nghệ thuật (về từ ngữ). Nhưng các câu hỏi sau đó thì nội dung câu hỏi, mạch câu hỏi và hướng khai thác văn bản lại khác nhau rõ rệt. Ở Cảnh ngày hè (Nguyễn Trãi), các câu 2, 3 định hướng về nội dung; sau đó câu cuối lại trở về khai thác yếu tố nghệ thuật kèm theo nội dung (tấm lòng và tình cảm của tác giả). Còn ở bài Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm), các câu 2, 3, 4 tiếp tục định hướng khai thác về nghệ thuật (nghệ thuật đối, điển tích) để khám phá nội dung, ý nghĩa (cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm). Hơn nữa, ở bài này, còn có thêm câu hỏi khái quát cuối cùng về quan niệm sống của tác giả và yêu cầu HS đánh giá về quan niệm đó (tức là có sự vận dụng, nâng cao vấn đề, tích hợp kiến thức thực tiễn để lí giải). Rõ ràng các câu hỏi hướng dẫn đọc hiểu ở hai bài trên không thống nhất về quan niệm đọc hiểu và cách hướng dẫn đọc hiểu một tác phẩm thơ Nôm Đường luật trung đại. Đây cũng là một vấn đề gây trở ngại cho cả người dạy và người học trong quá trình đọc hiểu thơ trung đại (lớp 10). 2. Thực tiễn hoạt động dạy học đọc hiểu thơ trung đại (lớp 10) ở trường THPT Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng nhận thức của GV và HS về tình hình dạy học đọc hiểu thơ trung đại trong chương trình Ngữ văn lớp 10 đối với GV giảng dạy bộ môn Ngữ văn và HS lớp 10 ở trường THPT Nam Đàn 1 huyện Nam Đàn. Có 11 GV và 179 HS tham gia khảo sát. Qua 9
  15. phát phiếu điều tra chúng tôi đã thu lại được kết quả cụ thể. Kết quả này được thống kê ở phần Phụ lục 1 (xem bảng 1, 2). Qua việc lấy thông tin thực tế bằng phương pháp khảo sát, chúng tôi đã có một cái nhìn khá bao quát, tương đối khách quan. 2.1. Thực trạng từ phía giáo viên Khi được khảo sát thì có 9 /11 GV ý thức được vai trò rất quan trọng và cần thiết của việc nâng cao hiệu quả dạy học đọc hiểu thơ trung đại 10. Nhận thức và ý thức được là vậy nhưng chuyển mình đổi mới thì còn là cả một vấn đề cần phải bàn thêm. Bên cạnh những GV đã vượt thoát được giới hạn nhỏ hẹp của đơn vị bài học, có sự mở rộng, kết nối kiến thức nhiều lĩnh vực thì vẫn còn không ít những tồn tại trong dạy học đọc hiểu thơ trung đại 10. Cụ thể như sau: Khó khăn thường gặp khi dạy học các tác phẩm thơ trung đại lớp 10 đó chính là phương pháp tổ chức giờ học (63,6%). Bên cạnh đó là những trở ngại về mặt thời gian và sự không thích thú của HS. PPDH khi tổ chức giờ học đọc hiểu thơ trung đại lớp 10 vẫn còn những hạn chế. Trong cuộc khảo sát, kết quả cho thấy số GV chủ yếu chỉ sử dụng PPDH truyền thống chiếm tỉ lệ khá lớn 45,4%, chỉ một tỉ lệ nhỏ 18.2% GV vừa sử dụng PP phát vấn, gợi mở, vừa kết hợp thảo luận, tranh biện... tức là có sự kết hợp giữa PPDH truyền thống và PPDH hiện đại. Không ít GV chỉ sử dụng những câu hỏi quen thuộc đến mức nhàm chán, những câu hỏi trở thành mẫu số chung cho bất cứ văn bản nào, đặt câu hỏi cho có lệ. Và với những câu hỏi đó, GV luôn có chủ ý hướng HS về một đáp án đã định sẵn theo ý đồ sư phạm của mình, các khâu trong tiết học được đều cốt làm sao đến được cái đích mình đã đặt ra. Vì thế, không khí giờ học thiếu sự sôi động, HS chưa có điều kiện bộc lộ hết năng lực của mình. Thêm vào đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học đọc hiểu thơ trung đại lớp 10 cũng vậy. Ít hoặc thậm chí không sử dụng CNTT là thực trạng khá phổ biến. Nhiều GV vẫn tồn tại suy nghĩ: với những tác phẩm giảng văn, ứng dụng CNTT là không phù hợp, phản tác dụng. Hay có GV sử dụng CNTT bằng cách chỉ cho HS xem qua video liên quan đến thông tin trong tác phẩm và xem đó là một sự minh chứng trực quan. Thiết nghĩ, đây là những hạn chế và suy nghĩ sai lầm cần được khắc phục và nhận thức lại. Bởi nếu biết vận dụng hợp lí thì hiệu quả mang lại rất tốt, tạo được không khí học tập cho HS. Mặt khác, khảo sát sự tập trung chú ý của GV khi tổ chức dạy học đọc hiểu thơ trung đại lớp 10 thì nhận được kết quả như sau: 4/11 (chiếm 36.3%) GV được hỏi chú ý khai thác nội dung của văn bản; 3/11 (chiếm 27.3%) GV bám sát đặc trưng thể loại; tỉ lệ GV chú trọng phần nguyên tác vẫn còn thấp 2/11 GV (chiếm 9.1%); vừa bám sát đặc trưng thể loại, vừa đổi mới PPDH chỉ có 3/11 GV (27.3%). Như vậy, đa phần, GV chú trọng khai thác nội dung văn bản thơ trung đại là chính và đã có ý thức bám vào đặc trưng thể loại. Tuy nhiên, đối với các văn bản thơ trung đại viết bằng chữ Hán, nhiều GV đã thoát li nguyên tác, chỉ bám vào dịch thơ 10
  16. để hướng dẫn HS tìm hiểu. Đó là cách tiếp cận văn bản thiếu chính xác mà một số GV vẫn còn bị sa vào. Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc chiếm lĩnh kiến thức của người học. 2.2. Thực trạng từ phía học sinh HS là trung tâm, là chủ thể của quá trình dạy học. Vì thế, dạy học đọc hiểu thơ trung đại lớp 10 cũng như dạy đọc hiểu thơ trung đại nói chung cần hướng tới phát triển năng lực của chủ thể đó. Trên thực tế, qua khảo sát ở 179 HS của trường Nam Đàn 1 huyện Nam Đàn, chúng tôi đã thu được kết quả cụ thể. Có tới 61,4% HS không hứng thú với các tác phẩm thơ trung đại - một tỉ lệ khá lớn. Thực trạng ấy đã đặt ra những trăn trở cho người đứng lớp: nguyên nhân vì sao? Làm thế nào để khơi dậy hứng thú học tập ở các em?... Bởi chỉ khi các em thấy yêu thích, hứng thú với những tác phẩm thơ trung đại thì giờ học đó mới tránh được kiểu học ép buộc, không thích mà vẫn phải học. Và khi đó, giờ đọc hiểu mới thực sự hiệu quả. Khi được hỏi về điểm không thích đối với các văn bản thơ trung đại, làm trở ngại việc học của HS thì nhiều em cho rằng những bài thơ này khó phát hiện và phân tích những yếu tố nghệ thuật (34.1%), những bài thơ có nội dung khó hiểu (29.6%). Thơ chữ Hán Đường luật có nhiều điển tích, điển cố khó hiểu, khó nhớ; ngôn ngữ thơ hàm súc, ý tứ sâu xa nên lứa tuổi các em cũng chưa lĩnh hội được hết cái hay cái đẹp của nó là điều có thể lí giải được. Thêm vào đó, thể loại, thi pháp văn học trung đại có nhiều xa lạ với thi pháp văn học hiện đại nên đó là điều khó khăn cho học sinh tiếp nhận.Vốn sống kinh nghiệm thực tế học sinh còn ít, học sinh khó khăn khi tái hiện hoàn cảnh xã hội, hiểu các điển tích, điển cố được sử dụng trong tác phẩm văn học này. Từ thực trạng trên dẫn tới mức độ hiểu biết của các em về các tác phẩm thơ trung đại cũng hạn chế. Trong số 179 HS được khảo sát chỉ có 4 HS tự đánh giá ở mức độ hiểu sâu sắc, chiếm tỉ lệ rất nhỏ 2.2%, có tới 121 HS mơ hồ, không hiểu, chiếm tỉ lệ lớn 67,6%. Có lẽ, cơ chế của nền kinh tế thị trường đã có tác động không nhỏ đến thế hệ trẻ. Có nhiều cái hấp dẫn, lôi cuốn các em hơn thay vì những tác phẩm cổ điển, trừu tượng, khó hiểu cho nên nhiều HS không mấy mặn mà, thậm chí lơ là, chểnh mảng trong các giờ học đọc hiểu thơ trung đại. Do không hiểu biết kĩ lưỡng, tường tận, chưa thấy hết cái hay của các văn bản văn học cổ nên đã kéo theo ý thức chuẩn bị bài ở nhà của các em vẫn chưa cao. Hầu hết, HS chép theo tài liệu như một sự đối phó với GV, tỉ lệ chiếm tới 60.3%. Và vẫn có tới 10.6% HS không chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Đây cũng chính là những rào cản khiến cho hiệu quả lĩnh hội kiến thức của HS đạt được không cao. Bởi lẽ, với một tác phẩm văn học đương đại, khoảng cách thời gian gần với các em, nếu không chuẩn bị bài thì việc tiếp nhận văn bản đã là khó rồi; huống chi những tác phẩm cách xa thời đại các em cả chục thế kỉ. Nếu không có sự chuẩn bị bài nghiêm túc trước khi đến lớp, không nỗ lực mày mò, chịu khó tìm tòi từ phía chủ thể học tập thì người dạy có cố gắng mấy cũng vô ích. 11
  17. Trong số HS được hỏi về PPDH của thầy cô sử dụng ở giờ học làm em thích nhất thì đa số các em (64.2%) đều thích GV có sự kết hợp nhiều PPDH (phát vấn, gợi mở, thảo luận, phiếu học tập, tranh luận,...) để tổ chức các em chiếm lĩnh tri thức. Điều này hé mở một cánh cửa để những người đứng lớp có thể khắc phục được thực trạng học tập không hứng thú ở các em thông qua đổi mới PPDH. Như vậy, bên cạnh nắm vững kiến thức thì người thầy còn cần phải tìm được những PPDH, biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả dạy học đọc hiểu thơ trung đại lớp 10. III. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học đọc hiểu thơ trung đại Việt Nam (lớp 10 THPT) hướng tới phát triển năng lực người học 1. Huy động, kết nối tri thức thể loại Dạy học Văn theo đặc trưng thể loại được đặt ra từ những năm 60 của thế kỉ XX. Và cho đến tận ngày nay, dù có đổi mới PPDH đến đâu thì dạy học theo đặc trưng thể loại vẫn giữ nguyên giá trị của nó. Bởi tác phẩm văn chương, trong tính chỉnh thể của mình, bao giờ cũng tồn tại trong dạng thức một loại thể nhất định. Tri thức thể loại là trục xương sống, có ý nghĩa quan trọng trong đọc hiểu tác phẩm. Một khi nhận diện được tác phẩm thuộc thể loại gì sẽ giúp ta tìm được con đường diễn tiến của nội dung, xác định được cách thức vận dụng ngôn ngữ của tác phẩm để diễn đạt nội dung đó. Từ đặc trưng thể loại mà đi sâu vào phân tích kết cấu và ngôn ngữ, các phương tiện nghệ thuật đặc trưng... để tái hiện cuộc sống, con người. Người học nhờ vậy mà lĩnh hội và hiểu sâu sắc tư tưởng, tình cảm thể hiện trong tác phẩm đó. Như đã trình bày về đặc điểm của thơ trung đại lớp 10, ta nhận thấy trong chương trình Ngữ văn 10 các tác phẩm thơ trung đại chủ yếu được viết theo thể thất ngôn Đường luật với hai loại văn tự (chữ Hán và chữ Nôm). Vì thế, khi huy động tri thức thể loại để đọc hiểu những tác phẩm này, chúng ta có thể phân tách thành hai hệ thống sáng tác để tiếp cận văn bản rõ ràng hơn. 1.1. Đối với các sáng tác thơ trung đại bằng chữ Hán: 1.1.1. Dạy học thơ chữ Hán bám sát bản phiên âm. Bám sát bản phiên âm tức là bám sát vào nguyên tác, không xa rời nguyên tác, bởi đó là cái gốc rễ của văn bản. Nếu người dạy chỉ dạy bản dịch thơ thì đã vô hình chung đánh mất đi vẻ đẹp của các văn bản Hán. Thậm chí, tạo ra một cách hiểu sai lệch về văn bản gốc. Bởi nguyên tác chữ Hán là bản mà mỗi câu thơ có cú pháp độc lập, còn phần dịch thơ lại phụ thuộc nhiều vào cách hiểu của người dịch (mỗi bản dịch là một cách hiểu). Người dịch hiểu thế nào thì dịch như thế ấy, đôi khi để đảm bảo yêu cầu về vần mà người dịch làm giảm đi phần nghĩa, hoặc dịch đạt nghĩa lại đánh mất đi âm điệu... Vì thế, chúng tôi đưa ra một vài đề xuất cụ thể để tránh tình trạng dạy học thế văn bản này. 12
  18. GV có thể cho HS về nhà đọc hiểu và tự tìm trước nghĩa của các từ nguyên tác hoặc cũng có thể tự mình dịch ra thành một bản dịch thơ riêng và thậm chí nêu cách hiểu, cách suy ngẫm của mình về văn bản đó. Đây là một phương pháp tiếp cận thơ chữ Hán trung đại hữu hiệu. Các em được tự mình tìm tòi thật, nghiên cứu thật và tự mình mổ xẻ văn bản trước khi có sự phân tích, giảng giải của GV. Điều này khuyến khích khả năng làm việc độc lập và tự chủ của học sinh, phát triển tối đa các kỹ năng để đạt được mục tiêu học tập. Làm được như vậy, giờ đọc hiểu văn bản thơ trung đại đã thành công được 50%. Nửa còn lại sẽ được bồi đắp khi GV tổ chức giờ học đọc hiểu trên lớp. Thêm nữa, một bản phiên âm chữ Hán sẽ có nhiều bản dịch khác nhau. GV yêu cầu HS về nhà sưu tầm các văn bản dịch của bản nguyên tác. Sau đó tự mình đối chiếu, so sánh giữa bản dịch thơ với bản phiên âm (dựa trên phần dịch nghĩa). Đối chiếu xong, các em làm thêm một thao tác cuối cùng là đánh giá về bản dịch thành công nhất trong số những bản dịch mình sưu tầm được. Thực hiện tốt phương pháp này, HS đã hiểu được phần nhiều về văn bản chữ Hán sắp đọc hiểu. Chẳng hạn: Dạy đọc hiểu bài Độc Tiểu Thanh kí, GV giao nhiệm vụ cho HS về nhà sưu tập, tìm hiểu các bản dịch của bài này. HS sẽ tự mình tìm tòi được rất nhiều bản dịch của các tác giả khác nhau như bản dịch của: Vũ Tam Tập, Quách Tấn, Vũ Hoàng Chương, Thảo Nguyên, Thanh Bình, Nguyễn Tam, Lê Tấn Tài, Nguyễn Mão, Nguyễn Thị Ánh Nga... Sau đó, các em đối chiếu giữa các bản dịch thơ này với nguyên tác qua dịch nghĩa. Hoàn thành công việc này, các em nhận thấy tuy chưa phải là hoàn hảo, nhưng bản dịch của Vũ Tam Tập được xem là bản dịch thành công nhất, sát nhất với nguyên tác trong số những bản mà các em tìm được. Và như vậy, ít nhiều các em đã hiểu được giá trị của văn bản thông qua con đường tự học rồi. 1.1.2. Dạy HS biết tích luỹ, mở rộng vốn từ, nâng cao khả năng sử dụng từ Hán Việt: Trong quan điểm, dạy học gắn với hướng dẫn tự học đã chỉ rõ: Tự học chính là con đường phát triển nội sinh, phát triển năng lực bản thân. Ngày này, việc dạy học đòi hỏi định hướng cho học sinh cách tư học để học suốt đời. Trong dạy học phát triển năng lực, cần hướng dẫn cho học sinh tự học, tự khám phá để chiếm lĩnh kiến thức là một yêu cầu quan trọng và là cơ sở hình thành và phát triển năng lực tự chủ và tự học cho học sinh. Vận dụng đọc hiểu các tác phẩm thơ trung đại chữ Hán, HS phải có một vốn từ Hán Việt nhất định, hiểu nó, để rồi từ cái vốn từ đó của bản thân mà các em có thể hiểu và tiếp cận được nhiều bài thơ chữ Hán khác. Điều này rất đúng với quan điểm mà GS.TS Trần Đình Sử đã nhắc đến trong bài viết “Đọc - hiểu văn bản - một khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy học hiện nay”: “Dạy văn là dạy cho HS năng lực tự đọc, kĩ năng để HS có thể hiểu bất cứ văn bản nào cùng loại” [18]. 13
  19. Đối với từ Hán - Việt - từ người Việt vay mượn của tiếng Hán và đọc theo dạng ngữ âm đời Đường theo cách đọc Hán Việt, cộng thêm sắc thái trang trọng, tao nhã, cổ kính và trừu tượng của nó khiến cho việc HS tiếp cận với lớp từ này rất khó khăn. Vì vậy, để HS khai thác tốt các từ Hán Việt phục vụ việc đọc hiểu văn bản thơ trung đại chữ Hán, không ai khác, GV là người định hướng, dẫn dắt cụ thể cho các em. Trước hết, GV cho HS nhận diện từ Hán Việt trong văn bản theo cách: Đối chiếu nghĩa từ Hán Việt với từ ngữ thuần Việt, nghĩa là gặp một từ nào đó, nếu chúng ta dẫn ra được từ ngữ thuần Việt tương đồng về nghĩa như vậy thì đó là từ Hán Việt. Hoặc căn cứ vào khả năng sản sinh của các yếu tố Hán Việt. GV cho HS tìm các từ bằng cách dùng phép thử cấu tạo từ song tiết, theo cách ghép nó với một yếu tố Hán Việt khác. Đây là cách dạy HS nâng cao khả năng sưu tầm, tìm hiểu các từ Hán Việt hiện hữu trong văn bản. Từ đó, HS sẽ có một vốn từ Hán Việt nhất định cho riêng mình, làm giàu cho vốn từ vựng của bản thân, tạo ra thói quen tư duy mỗi khi tiếp cận các văn bản Hán. Ví dụ như GV hướng dẫn và yêu cầu HS tìm nghĩa của từ “độc” trong bài “Độc Tiểu Thanh kí”, HS tìm được các từ mang nghĩa khác nhau. “Độc”: một mình (độc đinh, độc mộc, độc tấu, cô độc,...); độc: đọc (độc giả). Vận dụng vào bài học sẽ thấy, hai nghĩa này đều xuất hiện trong văn bản ở nhan đề (Đọc Tiểu Thanh kí) và ở câu hai bài thơ (độc điếu: một mình viếng). Hay tìm hiểu nghĩa từ “lạc” trong câu thơ “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận” (bài Cáo tật thị chúng). HS sưu tầm được nhiều nghĩa: 1. vui (an lạc), 2. quấn, bò, lan (mạch lạc), 3. chim lạc (Lạc Việt), 4. thôn, xóm (bộ lạc), 5. rơi, rụng. Vận dụng vào bài thơ, HS sẽ thấy được nghĩa thứ 5 của từ “lạc” là phù hợp nhất với văn bản. Thứ hai là giải nghĩa của các từ Hán Việt. Làm cho HS hiểu từ và thông nghĩa, hiểu câu thơ trước rồi sau mới có cơ sở cảm thụ văn chương. Nếu chưa làm vỡ nghĩa được từ ngữ ấy thì không thể nào hiểu câu thơ chứ nói gì đến việc cảm thụ văn chương. Phương pháp giải nghĩa từ Hán Việt như thế nào? HS tự mình tra từ điển Hán Việt là một cách. Hoặc GV có thể hướng dẫn các em dùng phương pháp chiết tự (tách từ). Chẳng hạn “Thuật hoài”: thuật là kể lại, hoài là nhớ (động từ), nỗi lòng (danh từ). Thuật hoài có nghĩa là bày tỏ nỗi lòng. Hay từ “vô vi” trong “Quốc tộ”: vô là không, vi là làm; vô vi là không làm gì cả. Đây là một quan điểm xuất phát từ Nho giáo (lấy đặc điểm, lễ nghĩa để giáo hoá mà không cần đến hình pháp và chính trị). Theo đó, tư tưởng “vô vi” trong bài thơ chính là thuận theo tự nhiên, hợp với lòng dân thì ắt đất nước sẽ thái bình thịnh trị. Bên cạnh dùng thủ pháp chiết tự, HS còn phải dựa vào văn cảnh, ngữ cảnh để giải nghĩa từ. Bởi có những từ, nghĩa của nó gắn với điển tích, điển cố; có những từ nghĩa gốc của các yếu tố trong từ đã mờ hoặc đã biến đổi. Ví dụ, cùng là chữ lạc nhưng trong “Cáo tật thị chúng” mang nghĩa là rơi, rụng; nhưng trong bài “Quy hứng” lại mang nghĩa “vui”... Và cách đơn giản hơn nữa là căn cứ vào phần chú thích dưới chân trang của SGK. HS đọc kĩ chú giải đối với từ cần tìm để hiểu nghĩa. Ví dụ hai câu cuối 14
  20. bài “Nhàn” HS đọc chú thích 3,4 trang 129 SGK Ngữ văn 10 tập 1, phát hiện ra điển tích Thuần Vu Phần, hiểu được cả hàm ý: phú quý chỉ là một giấc chiêm bao. Tất cả những bước này GV yêu cầu HS thực hiện ở nhà; trên lớp GV không đi phân tích tất cả các từ mà có sự lựa chọn những từ ngữ tiêu biểu, nổi bật theo phương châm “học ít, hiểu kĩ”, “học ít, biết nhiều”. Tức là HS chỉ cần nắm được một lượng từ Hán Việt nhất định là các em có sơ sở để phân tích tác phẩm đang học và xa hơn là tự mình đọc hiểu được các tác phẩm thơ chữ Hán khác. Hướng dẫn HS bước đầu nhận diện, lựa chọn, sử dụng từ ngữ Hán Việt thông dụng đúng nghĩa, đúng văn cảnh, hiểu và ý thức được tầm quan trọng của các từ ngữ đó cũng là góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Giờ đọc hiểu, GV lồng ghép để giáo dục HS học tập, tích luỹ vốn từ Hán - Việt đồng nghĩa khơi dậy ý thức gìn giữ và phát triển tiếng nói dân tộc ở các em HS. 1.1.3. Khai thác các tầng ý nghĩa sau những ngôn từ hàm súc của các văn bản thơ chữ Hán Đường luật. Trần Tử Ngang, một cây đại bút đời Đường, đã nói: “Thơ là tấc lòng gửi vào thiên cổ, đâu phải chuyện tài hoa phấn xức một lúc một thời”. Để hiểu thơ xưa không phải chỉ đọc thoáng qua là hiểu ngay mà người đọc phải có thời gian suy ngẫm, cảm thụ qua lớp ngôn ngữ tinh luyện, hàm súc, cô đọng trong từng câu chữ. Bởi thơ Đường luật ý tại ngôn ngoại, lời ít mà ý nhiều. Mỗi chữ đều dồn nén trong đó nhiều lớp nghĩa, mỗi bài đều có “nhãn tự” - mắt thơ. GV hướng HS khai thác được nhãn tự trong bài, khám phá cái “ngôn tận ý bất tận” ở trong đó. Đơn cử như đọc hiểu “Thuật hoài” (Phạm Ngũ Lão), HS chú ý từ “tu” trong câu “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”. Tu là hổ thẹn, thẹn thùng, xấu hổ. Đặt trong văn cảnh câu thơ ta hiểu được: Phạm Ngũ Lão thẹn chưa có được tài mưu lược lớn như Gia Cát Lượng, mong có tài cao trí lớn để tận trung báo quốc. Nỗi thẹn gắn với tâm lí sùng cổ của các nhà thơ trung đại (người có nhân cách lớn thường mang trong mình nỗi thẹn với người tài hoa, có cốt cách thanh cao). Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim, soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vừa là ý nghĩ khiêm nhường, vừa là lòng tự trọng, là ý thức rèn giũa, không ngừng phấn đấu. Nỗi thẹn đã đốt lên ngọn lửa khát vọng cống hiến hết mình cho sự nghiệp khôi phục đất nước. Đây là lẽ sống lớn của con người thời đại Đông A. Đó là nỗi thẹn tôn lên vẻ đẹp tâm hồn tác giả, thể hiện cái “tâm” sáng ngời và nhân cách cao đẹp của tác giả - cái tâm vì nước, vì dân. Như vậy, chỉ một chữ “tu” (thẹn) mà người đọc có thể nhận ra cái “ngôn chí” mà Phạm Ngũ Lão muốn bày tỏ trong bài. 1.2. Đối với các sáng tác thơ trung đại bằng chữ Nôm (Thơ Nôm Đường luật) Trong SGK Ngữ văn 10 có hai bài thơ Nôm Đường luật đặc sắc: “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi và “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tiếp cận các văn bản này cần chú ý: 1.2.1. Khai thác yếu tố Nôm và yếu tố Đường luật trong văn bản 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2