intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm thúc đẩy Bình đẳng giới tại trường THPT Quỳnh Lưu 2 – Nghệ An

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:96

15
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm hệ thống hóa được một số vấn đề lý luận về khái niệm về giới và giới tính, định kiến giới, vai trò giới, nhu cầu giới, bình đẳng giới; Đề xuất được một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức về bình đẳng giới (BĐG) cho cán bộ, giáo viên, công nhân viên (CB- GV- CNV) và học sinh, góp phần đưa nhà trường THPT Quỳnh Lưu phát triển một cách bền vững;

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm thúc đẩy Bình đẳng giới tại trường THPT Quỳnh Lưu 2 – Nghệ An

  1. SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGHỆ AN ---------------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI TẠI TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 2 – NGHỆ AN”. LĨNH VỰC: QUẢN LÝ GIÁO DỤC Năm học: 2022 – 2023
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 2 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI TẠI TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 2 – NGHỆ AN”. LĨNH VỰC: QUẢN LÝ GIÁO DỤC Nhóm tác giả: 1. Nguyễn Đình Đức SĐT: 0982.999.543 2. Phạm Thị Hải Mai SĐT: 0989.200.511 Năm học: 2022-2023
  3. MỤC LỤC Nội dung Trang Phần I. ÐẶT VẤN ÐỀ 1 1. Lý do chọn Đề tài SKKN 1 2. Mục đính và nội dung nghiên cứu 1 3. Phương pháp nghiên cứu 2 4. Thời gian nghiên cứu và khảo sát 2 Phần II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 3 I. Cơ sở khoa học 3 1. Cơ sở lý luận 3 1.1. Một số khái niệm 3 1.1.1. Giới và giới tính 3 1.1.2. Định kiến giới 4 1.1.3. Vai trò giới 4 1.1.4. Sự phân biệt đối xử giới 6 1.1.5. Nhu cầu giới 6 1.1.6. Nhạy cảm giới 7 1.1.7. Bình đẳng giới 8 1.2. Mối quan hệ giữa bình đẳng giới và phát triển 9 1.3. Lịch sử tư tưởng bình đẳng giới thể hiện qua các làn sóng nữ 9 quyền 1.3.1. Làn sóng nữ quyền thứ nhất (từ cuối thế kỷ XIX) 10 1.3.2. Làn sóng nữ quyền thứ hai 10 1.3.3. Làn sóng nữ quyền thứ ba (cuối của thế kỷ XX đến hết thập 10 niên đầu của thế kỷ XXI) 1.3.4. Làn sóng nữ quyền thứ tư 11 1.4. Một số cách tiếp cận tăng cường bình đẳng giới trong hoạt 11 động thực tiễn 1.4.1. Tiếp cận phúc lợi 11 1.4.2. Tiếp cận nữ giới trong phát triển (WID) 11 1.4.3. Tiếp cận giới và phát triển (GAD) 13 2. Cơ sở thực tiễn 14 2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí 14 Minh và Đảng CSVN về BĐG 2.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bình đẳng giới 14 2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới 15 2.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng giới 16
  4. 2.2. Khung luật pháp, chính sách về BĐG của Việt Nam 21 2.2.1. Trên lãnh thổ Việt Nam 21 2.2.2. Trên địa bàn tỉnh Nghệ An 31 2.3. Bộ máy thúc đẩy BĐG ở Việt Nam 32 3. Thực trạng 33 3.1. Thực trạng BĐG trên thế giới và ở Việt Nam 33 3.1.1. Một số thách thức về BĐG ở Việt Nam và thế giới 33 3.1.2. Tồn tại về BĐG tại Việt Nam 34 3.1.3. Thực trạng BĐG trong lãnh đạo, quản lý 36 3.2. Thực trạng BĐG tại trường THPT Quỳnh Lưu 2, tỉnh Nghệ 37 An 3.2.1. Tiến hành khảo sát 37 3.2.2. Kết quả khảo sát 38 3.2.3. Nguyên nhân 40 II. Một số biện pháp nhằm thúc đẩy BĐG tại trường THPT 41 Quỳnh Lưu 2 1. Nâng cao vai trò của Cấp ủy Đảng, Ban Giám hiệu, các tổ chức Chính trị - Xã hội trong công tác Vì sự tiến bộ phụ nữ (VSTBPN) 41 và BĐG trong nhà trường 2. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, các biện pháp truyền 42 thông về BĐG 3. Làm tốt công tác phòng ngừa bạo lực trên cơ sở giới 46 3.1. Bạo lực trên cơ sở giới 46 3.2. Hậu quả của bạo lực trên cơ sở giới 47 3.3. Giải pháp giảm thiểu bạo lực trên cơ sở giới 48 4. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho cán bộ làm công tác VSTBPN và BĐG; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho 51 giáo viên nữ; chú trọng chất lượng học tập ở các em nữ sinh 5. Đề cao vai trò của tổ chức Công đoàn trong công tác chăm lo đời sống cho CB – GV – CNV và học sinh, đặc biệt là các nữ giáo 54 viên và nữ sinh 6. Đề ra các chủ trương trong tuyển dụng, tuyển sinh, đào tạo, bồi dưỡng, chế độ đãi ngộ, chế độ học tập và giảng dạy…nhằm 62 đưa công tác VSTBPN đi vào thực chất 6.1. Giải pháp hoàn thiện cơ chế tổ chức, chức năng nhiệm vụ 63 Ban vì sự tiến bộ phụ nữ ở các trường THPT 6.2. Giải pháp về quy hoạch, tuyển dụng và đãi ngộ đối với nữ 63
  5. giáo viên, công nhân viên 6.2.1. Về chính sách quy hoạch 63 6.2.2. Về chính sách tuyển dụng 64 6.2.3. Về đãi ngộ 64 6.3. Giải pháp về tạo lập môi trường làm việc, nâng cao và cải thiện điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động giảng dạy, 65 giáo dục và NCKH cho CB-GV-CNV và học sinh nữ 7. Thực hiện đồng bộ công tác VSTBPN gắn chặt chẽ với thực 66 hiện BĐG trong nhà trường III. Khảo sát sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề 68 xuất 1. Mục đích khảo sát 68 2. Nội dung và phương pháp khảo sát 69 3. Thời gian khảo sát 69 4. Đối tượng khảo sát 69 5. Kết quả khảo sát về sự cấp thiết và tính khả thi của các giải 70 pháp đã đề xuất Phần 3: KẾT LUẬN 73 I. Ý nghĩa của Đề tài 73 1. Ý nghĩa lý luận 73 2. Ý nghĩa thực tiễn 73 II. Các kiến nghị, đề xuất 73 1. Với Sở GD&ĐT Nghệ An 73 2. Với trường THPT Quỳnh Lưu 2 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
  6. Phần I. ÐẶT VẤN ÐỀ 1. Lý do chọn Đề tài SKKN Bình đẳng nam nữ hay còn gọi là bình đẳng giới là một vấn đề luôn được sự quan tâm của toàn xã hội, đây là một mục tiêu quan trọng trong các văn kiện quốc tế về quyền con người. Bình đẳng nam nữ trở thành một trong những tiêu chí đánh giá trình độ văn minh, tiến bộ của một quốc gia và là lý tưởng mà nhân loại luôn hướng tới. Ở Việt Nam, sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ đã được Đảng và Nhà nước mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm ngay từ những ngày đầu cách mạng thành công. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra vấn đề nam nữ bình quyền và đã trực tiếp chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ giải phóng phụ nữ và thực hiện quyền bình đẳng nam nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân, phụ nữ Việt Nam cũng bước vào thời kỳ mới, trở thành chủ nhân của đất nước, được pháp luật công nhận và bảo vệ quyền bình đẳng trên mọi lĩnh vực, được tạo điều kiện phát triển và tiến bộ về mọi mặt, đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Quán triệt sâu sắc những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã có nhiều văn kiện, nghị quyết, chính sách, pháp luật, nghị định để khẳng định và bảo vệ quyền bình đẳng nam nữ. Trong bối cảnh và tình hình mới, thế giới đã có nhiều bước phát triển vượt bậc, nhưng vấn đề bình đẳng giới ở nhiều quốc gia, kể cả các nước phát triển vẫn chưa được giải quyết triệt để. Vai trò, vị thế của phụ nữ và nam giới trong xã hội, trong gia đình, trong các trường học…ở mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn lịch sử còn nhiều khác biệt. Nữ giới vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi hơn so với nam giới và bình đẳng giới vẫn là yêu cầu bức thiết giúp đảm bảo sự phát triển công bằng, hiệu quả và bền vững của một xã hội. Để đáp ứng yêu cầu phát triển, xu thế chung của thế giới, ở Việt Nam cũng như tại trường THPT Quỳnh Lưu 2 về nhận thức giá trị bền vững, vận dụng đúng đắn về giới vào sự phát triển bền vững trong các nhà trường hiện nay là việc làm hết sức cần thiết. Do đó chúng tôi đã lựa chọn Đề tài: “Một số biện pháp nhằm thúc đẩy Bình đẳng giới tại trường THPT Quỳnh Lưu 2 – Nghệ An”, làm nội dung nghiên cứu trong các năm học 2021-2022 và 2022-2023. 2. Mục đính và nội dung nghiên cứu - Hệ thống hóa được một số vấn đề lý luận về khái niệm về giới và giới tính, định kiến giới, vai trò giới, nhu cầu giới, bình đẳng giới;… 1
  7. - Đề xuất được một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức về bình đẳng giới (BĐG) cho cán bộ, giáo viên, công nhân viên (CB- GV- CNV) và học sinh, góp phần đưa nhà trường THPT Quỳnh Lưu phát triển một cách bền vững; - Khảo sát tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp nhằm thúc đẩy BĐG tại trường THPT Quỳnh Lưu 2; - Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các thành viên trong các trường học và ngoài xã hội quan tâm đến công tác BĐG. 3. Phương pháp nghiên cứu - Nghiên cứu lý luận; - Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; - Phỏng vấn, điều tra. 4. Thời gian nghiên cứu và khảo sát Đề tài được nghiên cứu, khảo sát tại các trường THPT trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu và thị xã Hoàng Mai, trong các năm học 2021-2022 và 2022-2023. 2
  8. Phần II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU I. Cơ sở khoa học 1. Cơ sở lý luận 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Giới và giới tính Giới là những khác biệt và mối quan hệ xã hội giữa phụ nữ và nam giới. Nói cách khác, giới đề cập đến các quan niệm, thái độ, hành vi, mối quan hệ và tương quan về địa vị xã hội của phụ nữ và nam giới trong một bối cảnh lịch sử cụ thể, do học hỏi mà có và có thể thay đổi theo thời gian. Theo Luật Bình đẳng giới năm 2006 thì “giới chỉ đặc điểm vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội”. “Giới tính” là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về phương diện sinh học, có sẵn từ khi sinh ra, mang tính ổn định cao và bị quy định bởi quy luật sinh học. Cụ thể như chỉ có nam giới mới có tinh trùng, của nữ giới thì chỉ có trứng (trong độ tuổi sinh đẻ). Khác với giới tính, giới không mang tính bẩm sinh mà được hình thành trong quá trình sống, học tập của con người từ khi còn nhỏ đến lúc trưởng thành được thể hiện thông qua các hành vi trong quá trình xã hội hóa, được gia đình, cộng đồng dạy dỗ để làm việc phù hợp nữ giới hoặc nam giới. Như vậy, việc sinh con của nữ giới do yếu tố sinh học quy định và đó là đặc điểm giới tính. Việc nữ giới làm nội trợ trong gia đình nhiều hơn nam giới là do quan niệm và sự phân công lao động trong xã hội tạo ra, chứ không phải là tự nhiên, và đó là đặc điểm giới. Nếu như các đặc điểm giới tính mang tính đồng nhất và không thể hay đổi thì các đặc điểm giới lại rất đa dạng, phong phú và có thể thay đổi ở từng quốc gia, dân tộc dưới sự tác động của các yếu tố xã hội. Cụ thể như ở xã hội của một quốc gia này thì người chủ gia đình thuộc vào nam giới, quyết định tất cả mọi vấn đề trong gia đình, trong công việc của đất nước, xã hội thì nam giới cũng là người đứng đầu, người lãnh đạo. Nhưng ở quốc gia khác, nữ giới là người tham gia quyết định bình đẳng cùng với nam giới các vấn đề của gia đình và cuộc sống xã hội; hoặc ở nơi này, phần lớn nữ giới đảm nhiệm việc làm ruộng, trồng trọt nhưng ở nơi khác phần lớn nam giới lại đảm nhiệm những công việc đó. Do vậy, muốn thay đổi tình trạng bình đẳng giới cần phải thay đổi các vấn đề liên quan đến đặc điểm giới (ví dụ: thay đổi quan niệm về vị trí, vai trò của nữ giới và nam giới), mà không phải là thay đổi các đặc điểm giới tính (ví dụ: việc mang thai và sinh con là đặc điểm giới tính nhưng cảm xúc vui, buồn do sinh con gái hay sinh con trai là do yếu tố giới gây ra). 3
  9. Như vậy, khái niệm “giới” và “giới tính” giúp phân biệt đặc điểm của nữ giới và nam giới để hiểu rõ thực chất và cơ chế hình thành các đặc điểm đó. Khác biệt giữa giới và giới tính: Giới tính Giới Là đặc điểm sinh học Là đặc điểm xã hội Sinh ra đã có Do học mà có Giống nhau trên toàn thế giới Khác nhau ở các vùng, quốc gia Bất biến, không thay đổi về mặt thời gian Có thể thay đổi, dưới tác động của các và không gian yếu tố xã hội 1.1.2. Định kiến giới Là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ. 1.1.3. Vai trò giới Vai trò giới là tập hợp những hoạt động và hành vi ứng xử mà nam giới và nữ giới học được và thể hiện trong thực tế, dựa trên mong đợi từ phía xã hội đối với họ. Các vai trò giới là đa dạng (tùy thuộc vào vị trí và bối cảnh), thay đổi theo thời gian (tương ứng với sự thay đổi của các điều kiện và hoàn cảnh) và thay đổi theo sự thay đổi của quan niệm xã hội (tương ứng với việc chấp nhận hoặc không chấp nhận một hành vi ứng xử vai trò nào đó). Trong cuộc sống, nam giới và nữ giới đều tham gia vào mọi hoạt động của đời sống xã hội. Tuy nhiên, mức độ tham gia của nam và nữ trong các loại công việc là khác nhau, do những quan niệm, chuẩn mực xã hội khác nhau quy định. Việc nữ giới và nam giới thực hiện những công việc khác nhau như vậy được gọi là sự đảm nhận các vai trò giới. Về bản chất, vai trò giới được quyết định bởi các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội. Do vậy, nữ giới và nam giới được mong đợi làm những công việc khác nhau và có vị trí khác nhau ngay trong cùng một công việc. Việc thực hiện những vai này khiến hai giới phụ thuộc lẫn nhau. Tuy nhiên, sự phụ thuộc đó cũng có thể thay đổi, do thực tế việc “đóng vai” của nam và nữ luôn thay đổi (vai trò giới thay đổi nhanh hơn định kiến giới). Ở các xã hội hiện đại, những công việc nữ giới đang đảm nhiệm trong thực tế là rất đa dạng, bao gồm cả những việc được cho là “của nam giới một cách truyền thống” (ví dụ nữ giới làm phi công, thợ cơ khí...). Ngược lại, có không ít 4
  10. nam giới đang đảm nhiệm những công việc được cho là “của nữ giới một cách truyền thống” (ví dụ nam giới làm đâu bếp, thợ cắt may, ở nhà chăm sóc con cái...). * Vai trò giới thường được xem xét ở ba lĩnh vực: sản xuất, tái sản xuất, cộng đồng Vai trò sản xuất là các hoạt động làm ra sản phẩm, hàng hóa hoặc dịch vụ để tiêu dùng và trao đổi thương mại. Đây là những hoạt động tạo ra thu nhập và được trả công. Cả nữ giới và nam giới đều có thể tham gia vào các hoạt động sản xuất nhưng do định kiến trong xã hội nên mức độ tham gia của họ không như nhau và giá trị công việc mà họ tạo ra cũng không được nhìn nhận như nhau. Vai trò tái sản xuất là các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy dỗ...giúp tái sản xuất dân số và sức lao động, bao gồm việc sinh con, các công việc chăm sóc gia đình, nuôi dạy và chăm sóc trẻ em, nấu ăn, dọn dẹp, giặt giũ, chăm sóc sức khỏe cho các thành viên trong gia đình. Công việc này tiêu tốn nhiều thời gian của nữ giới và không tạo ra thu nhập nên ít khi được coi là “công việc thực sự” của nữ giới. Vai trò cộng đồng bao gồm những hoạt động nhằm đảm bảo cung cấp và bảo vệ các nguồn lực đáp ứng nhu cầu chung của cộng đồng như vệ sinh môi trường, nước sạch, dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục...nhưng hầu hết là những hoạt động tình nguyện và không được trả thù lao, chỉ mang lại cơ hội nâng cao quyền lực, địa vị xã hội cho các cá nhân tham gia. Trên thực tế, nữ giới bên cạnh việc tham gia cùng với nam giới tương đối nhiều vào các hoạt động sản xuất nhưng nữ giới hầu như là người đảm nhiệm chính trong vai trò tái sản xuất. Gánh nặng công việc gia đình của nữ giới đó cản trở họ tham gia một cách tích cực và thường xuyên vào các hoạt động cộng đồng. Kết quả là nam giới có nhiều thời gian và cơ hội hơn trong đảm nhận vai trò cộng đồng, vì vậy nam giới thường có quyền lực, địa vị xã hội cao hơn so với nữ giới. 5
  11. Hình 1: Vai trò giới thực tế 1.1.4. Sự phân biệt đối xử giới Phân biệt đối xử với nữ giới có nghĩa là bất kỳ sự phân biệt, loại trừ hay hạn chế nào dựa trên cơ sở giới tính làm ảnh hưởng hoặc nhằm mục đích làm tổn hại hoặc vô hiệu hóa việc nữ giới được công nhận, thụ hưởng, hay thực hiện các quyền con người và những tự do cơ bản trong lĩnh vực chính tri, kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự và các lĩnh vực khác trên cơ sở bình đẳng nam nữ, bất kể tình trạng hôn nhân của họ như thế nào. Như vậy, phân biệt đối xử theo giới là hành vi ứng xử khác nhau đối với nam hoặc nữ, thường bắt nguồn từ định kiến giới. Phân biệt đối xử theo giới xảy ra ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra bất bình đẳng giới. Có hai hình thức phân biệt đối xử theo giới là phân biệt đối xử trực tiếp và phân biệt đối xử gián tiếp. Ví dụ, khi tư vấn nghề cho học sinh khối 12, giáo viên thường tư vấn cho các em nữ sinh các ngành sư phạm, điều dưỡng, y tá, làm đẹp; các em nam lại thường được khuyên theo các ngành điện tử, kỉ thuật, công an, quân đội, bác sĩ. Điều này thể hiện sự phân biệt đối xử giới trực tiếp. Hay như căn cứ theo luật bảo hiểm xã hội, khi người vợ sinh con người chồng nếu tham gia đóng BHXH được hỗ trợ nghỉ thời gian từ 5- 14 ngày tùy theo mức độ. Bên cạnh đó, theo Khoản 2, 4, 6 Điều 34 Luật Bảo hiểm xã hội, lao động nam có vợ sinh con thì trong vòng 30 ngày đầu kể từ ngày vợ sinh được nghỉ hưởng chế độ thai sản để hỗ trợ chăm sóc vợ con, trong đó: nghỉ 05 ngày làm việc nếu vợ sinh thường; nghỉ 07 ngày làm việc khi vợ sinh con phải phẫu thuật, sinh con dưới 32 tuần tuổi; nghỉ 10 ngày làm việc trong trường hợp vợ sinh đôi, từ sinh ba trở lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 03 ngày làm việc; nghỉ 14 ngày làm việc trong trường hợp vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật; trong một số trường hợp đặc biệt, lao động nam được nghỉ với thời gian dài hơn. Tuy nhiên, trong thực tế, đại đa số người chồng đang làm việc không xin nghỉ làm. Điều đó xuất phát từ suy nghĩ việc đó là việc của phụ nữ, có những người phụ nữ khác trong gia đình hỗ trợ. Đó cũng là một minh chứng cho sự phân biệt đối xử giới gián tiếp. 1.1.5. Nhu cầu giới Nhu cầu giới là nhu cầu mà mỗi giới có nguyện vọng, yêu cầu được đáp ứng để thực hiện tốt vai trò của mình. Có hai loại nhu cầu giới, gồm: Nhu cầu giới thực tế là những nhu cầu để đáp ứng nghĩa vụ, trách nhiệm mà vai trò giới truyền thống đặt ra hoặc để cải thiện điều kiện sống trước mắt. Giải quyết nhu cầu giới thực tế có thể nâng cao chất lượng cuộc sống nhưng vẫn duy trì sự phân công lao động theo giới truyền thống và duy trì vị thế của nam giới và nữ giới trong xã hội. 6
  12. Nhu cầu giới chiến lược là những nhu cầu dài hạn, liên quan đến sự phát triển và cải thiện một cách căn bản mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ. Giải quyết nhu cầu giới chiến lược giúp cho nam giới và nữ giới vươn tới sự bình đẳng, làm thay đổi vai trò và khuôn mẫu giới truyền thống. Trong chiến lược nâng cao chuẩn hóa đội ngũ, các nhà trường đã khuyến khích động viên giáo viên học tập nâng cao trình độ. Số lượng giáo viên có trình độ thạc sĩ đã tăng lên đáng kể, đặc biệt là số thạc sĩ là nữ. Hiện tại, trường THPT Quỳnh Lưu 2 có 20 nữ giáo viên trình độ thạc sỹ trên tổng số 40 thạc sỹ toàn trường; số giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi, giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi cấp tỉnh là 26 người, trong đó nữ giáo viên là 13, đạt tỷ lệ 50% tổng số giáo viên đạt các danh hiệu này. Việc đáp ứng nhu cầu giới chiến lược sẽ mang lại lợi ích cho cả nữ giới và nam giới, dẫn đến biến đổi thực tế phân công lao động giới theo hướng tiến bộ, góp phần nâng cao bình đẳng giới. Cụ thể như việc xây dựng hạ tầng lưới điện ở nông thôn không chỉ nâng cao chất lượng điện năng phục vụ sản xuất, đời sống cho người dân khu vực nông thôn mà còn đáp ứng nhu cầu giới, đó là giúp nữ giới có thêm thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài, tivi,...nhờ đó năng lực hoạt động thực tế của nữ giới sẽ được nâng lên. Hiện nay nữ giới được tham gia vào vào các hoạt động chính trị, xã hội thì tiếng nói của nữ giới có trọng lượng hơn, bình đẳng hơn với nam giới; khi nam giới và nữ giới cùng đi làm, cùng chia sẻ việc nhà, nam giới sẽ cảm thấy bớt căng thẳng hơn với gánh nặng nuôi sống gia đình, còn nữ giới sẽ bớt mệt mỏi hơn với công việc nội trợ. 1.1.6. Nhạy cảm giới Nhạy cảm giới là sự nhận thức đầy đủ và đúng đắn vê nhu cầu, vai trò và trách nhiệm khác nhau của nam giới và nữ giới, hiểu được rằng những khác biệt này có thể dẫn đến sự khác biệt giữa nữ giới và nam giới trong tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực, mức độ tham gia, thụ hưởng các nguồn lực và thành quả phát triển. Như vậy, nhạy cảm giới hướng đến mục tiêu nhận thức được và tính đến các yếu tố văn hóa, xã hội liên quan đến việc loại trừ và phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính trong tất cả các lĩnh vực đa dạng của cuộc sống. Nó tập trung chủ yếu vào những bất lợi mang tính cấu trúc trong vị trí và vai trò của nữ giới. * Các mức độ nhạy cảm giới Mù giới (gender blind): Không nhận thức được hoặc không thừa nhận các vấn đề về giới và có xu hướng làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng giới. Trung lập về giới (gender neutral): Nhận thức được và biết các vấn đề về giới nhưng không làm gì để can thiệp, do đó có xu hướng củng cố bất bình đẳng giới. 7
  13. Có đáp ứng giới (gender responsive): Cải thiện tình trạng hàng ngày của nữ giới bằng cách giải quyết các vấn đề và nhu cầu thực tế về giới, nhưng không cố gắng thay đổi quan hệ giới, không cải thiện vị trí xã hội của nữ giới. Chuyển biến giới (gender transfomative): Giải quyết các nguyên nhân gây ra bất bình đẳng trên cơ sở giới và làm thay đổi các vai trò, chuẩn mực, quan hệ quyền lực cho cả hai giới. 1.1.7. Bình đẳng giới Bình đẳng giới là tình trạng không có sự phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính (về quyền, trách nhiệm và cơ hội). Nhờ vậy, nữ giới và nam giới được tôn trọng ngang nhau, được tiếp cận các nguồn lực như nhau, được thụ hưởng thành quả như nhau, có cơ hội và điều kiện như nhau để nhận biết được các quyền con người của mình và khả năng đóng góp của bản thân vào sự phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội của đất nước. Có ba kiểu quan niệm về bình đẳng giới là bình đẳng giới kiểu hình thức, bình đẳng giới kiểu bảo vệ và bình đẳng giới kiểu thực chất. Bình đẳng giới kiểu hình thức xuất phát từ quan niệm coi nam và nữ là giống như nhau, không để ý đến sự khác biệt về sinh học cũng như sự khác biệt do xã hội quy định. Quan niệm bình đẳng giới kiểu hình thức cho rằng, nữ có thể tiếp cận các cơ hội giống như cách tiếp cận của nam nên thường chọn cách đổi xử với nam và nữ giống hệt nhau. Do vậy, xét về bản chất, kiểu quan niệm này tạo thêm gánh nặng cho nữ giới, buộc họ phải thể hiện mình theo cách của nam giới. Bình đẳng giới kiểu bảo vệ nhận diện được sự khác biệt giữa nam và nữ nhưng cho rằng cần tập trung xem xét các điểm yếu của nữ để tạo ra những sự đối xử khác biệt. Quan niệm này dẫn đến việc cố gắng tạo ra những “vỏ bọc bảo vệ nữ giới”, chẳng hạn như các chính sách, quy định, biện pháp...dành riêng cho nữ, giới hạn nữ giới tham gỉa một số lĩnh vực hoạt động được coi là không phù hợp đối với nữ giới. Các biện pháp tiếp cận bình đẳng giới kiểu bảo vệ có thể phát huy tác dụng “bảo vệ nữ giới” trong một sổ bối cảnh không gian và thời gian đặc thù nhất định. Tuy nhiên, việc thực hiện bình đẳng giới theo quan niệm này thực ra là cản trở quyền tự do lựa chọn của nữ giới. Nữ giới có thể bị tước đi hàng loạt cơ hội phát triển khiến tình trạng bất bình đẳng giới ngày càng trở nên trầm trọng. Nhìn chung, quan niệm này củng cố khuôn mẫu định kiến giới và không dẫn đến biến đổi xã hội theo hướng bình đẳng hơn. Bình đẳng giới kiểu thực chất nhận rõ sự khác biệt giữa nam và nữ về sinh học và sự khác biệt xã hội do lịch sử để lại. Do vậy, quan niệm này chú ý đến bình đẳng trong pháp luật và bình đẳng trong thực tế, tập trung điều chỉnh các môi trường có ảnh 8
  14. hưởng tiêu cực đối với cả nam giới và nữ giới, đồng thời chú ý tạo sự bình đẳng cho cả nam và nữ về cơ hội, tiếp cận cơ hội và hưởng thụ cơ hội. Khi áp dụng quan niệm bình đẳng giới kiểu thực chất, kết quả mang lại sẽ là rất lớn, chẳng hạn: Con gái và con trai được ưa thích như nhau; nữ và nam cùng tôn trọng nhau, cùng chia sẻ, cùng bàn bạc và cùng ra quyết định mọi công việc trong gia đình và xã hội; nữ và nam cùng được học tập, bồi dưỡng về văn hóa, khoa học, kỹ thuật để nâng cao năng lực của mình; nữ giới tham gia bình đẳng với nam giới vào công việc lãnh đạo, quản lý; nữ giới được hưởng thụ đầy đủ các lợi ích xã hội như nam giới (thu nhập, sở hữu tài sản, quyền lợi chính trị, phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí...). 1.2. Mối quan hệ giữa bình đẳng giới và phát triển Theo tuyên bố về quyền phát triển của Liên hợp quốc, “phát triển là một quá trình toàn diện về chính trị, văn hóa, xã hội và kinh tế nhằm cải thiện một cách liên tục và vững chắc sự phồn vinh của toàn thể dân chúng và của mọi cá nhân, dựa trên sự tham gia có ý nghĩa, tự do và tích cực của họ vào sự phát triển và vào việc phân phối một cách công bằng những lợi ích phát sinh từ sự phát triển đó”. Như vậy, khái niệm “phát triển” cần được hiểu một cách đầy đủ theo quan niệm của cộng đồng quốc tế gồm: là một quá trình (hoạt động) toàn diện về “chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa”, nhằm hướng tới “sự phồn vinh cho toàn thể dân chúng và của mọi cá nhân”; dựa trên sự tham gia của mọi người...vào nhũng hoạt động đó, bao gồm cả sự phân phối công bằng lợi ích có được từ sự phát triển. Khái niệm này không chỉ đề cập tới mục tiêu, nội dung mà cũng đề cập tới phương thức hoạt động của cá nhân và tổ chức xã hội trên các lĩnh vực, trong đó rất chú ý đến sự tham gia của tất cả mọi người vào quá trình phát triển. Với cách hiểu bình đẳng giới là trình trạng không có sự phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính về cả quyền, trách nhiệm và cơ hội, như đã đề cập. Rõ ràng là tình trạng bình đẳng giới đóng vai trò vô cùng quan trọng cho quá trình phát triển. Đồng thời, các kết quả phát triển chắc chắn có tác động mạnh mẽ đến tình hình bình đẳng giới. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn thể hiện từ quan điểm gắn việc thực hiện mục tiêu phát triển với giải quyết các vấn đề về bình đẳng giới. Gần đây nhất, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta đã khẳng định: “thực hiện đồng bộ và toàn diện các giải pháp phát triển thanh niên, bình đẳng giới và và sự tiến bộ của phụ nữ. Giảm dần khoảng cách giới trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”. 1.3. Lịch sử tư tưởng bình đẳng giới thể hiện qua các làn sóng nữ quyền Thuật ngữ “làn sóng nữ quyền” (feminist waves) mô tả các phong trào chính trị, văn hóa và kinh tế nhằm thiết lập quyền bình đẳng và bảo vệ pháp lý cho phụ nữ 9
  15. trên khắp thế giới, về bản chất, các phong trào này được dẫn dắt bởi lý thuyết nữ quyền (feminism) - một nhóm quan điểm tiếp cận thuộc trường phái lý thuyết xung đột. Trong lịch sử, các nhà hoạt động nữ quyền đó vận động đấu tranh với rất nhiều vấn đề, như: quyền pháp lý của phụ nữ; quyền tự chủ và toàn vẹn cơ thể; quyền phá thai và quyền sinh sản (gồm quyền phòng tránh thai và chăm sóc khi mang thai); quyền được bảo vệ khỏi bạo lực gia đình, quấy rối tình dục và hiếp dâm; các quyền tại nơi làm việc (gồm quyền được nghỉ thai sản, quyền được trả lương ngang với nam giới); quyền chống lại tất cả các hình thức phân biệt đối xử mà phụ nữ gặp phải... Các phong trào đấu tranh này diễn ra trong suốt lịch sử và tạo nên những làn sóng nữ quyền, với các dấu ấn và đặc trưng quan trọng. 1.3.1. Làn sóng nữ quyền thứ nhất (từ cuối thế kỷ XIX) Mục tiêu chủ yếu là đòi bình quyền cho nữ giới trong việc bầu cử và làm chủ (đứng tên) tài sản, tức là cả trong lĩnh vực chính trị và lĩnh vực kinh tế. Đặt cơ sở quan trọng về thực hiện những quyền tự do cơ bản của mỗi cá nhân trong việc phát triển hoàn thiện con người, giải phóng nữ giới khỏi cảnh lệ thuộc nam giới, nâng nữ giới lên ngang hàng với nam giới và bước đầu giải tỏa những bức xúc của nữ giới khi bị đặt trong vị thế “công dân hạng hai” trong thời gian dài trước đó. 1.3.2. Làn sóng nữ quyền thứ hai Sau giai đoạn thoái trào trong thời kỳ Chiến tranh thế giới lần thứ hai, do nữ giới phải đảm đương nhiều công việc lao động sản xuất thay cho nam giới, làn sóng nữ quyền thứ hai tiếp tục diễn ra và đạt đến cao trào trong khoảng những năm 1960- 1980. Mục tiêu đấu tranh của làn sóng nữ quyền thứ hai chủ yếu tập trung đòi quyền lợi xã hội và pháp lý bình đẳng cho nữ giới, chống phân biệt đối xử trong các lĩnh vực, với phạm vi bao phủ rộng hơn so với làn sóng nữ quyền thứ nhất, bao gồm các khía cạnh của đời sống gia đình, tình dục, công việc, quyền sinh sản, quyền tự quyết đối với thân thể mình, bao gồm cả quyền mang thai và phá thai cùng các quyền lợi về luật pháp khác. Khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, nam giới trở về tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong lao động sản xuất, đồng nghĩa với việc nữ giới phải trả lại việc làm trong các nhà máy, công xưởng cho nam giới. Áp lực xã hội đối với nữ giới gia tăng do họ bị đẩy trở lại với vai trò làm vợ và làm mẹ trong gia đình, tập trung thực hiện chức năng tình cảm nhằm khắc phục những hậu quả sau chiến tranh đó tạo nên làn sóng nữ quyền thứ hai với những nỗ lực tư duy mang tính học thuật hơn, nhằm đạt được sự bình đẳng mở rộng hơn trong các lĩnh vực xã hội và văn hóa. 1.3.3. Làn sóng nữ quyền thứ ba (cuối của thế kỷ XX đến hết thập niên đầu của thế kỷ XXI) Mục tiêu là đề cao sự khác biệt và đa dạng của các cá nhân trong xã hội, đồng thời thay đổi những định kiến về “nữ tính” (Femininity). Khác với các quan điểm nữ 10
  16. quyền ở làn sóng thứ hai, làn sóng nữ quyền thứ ba nhận thấy từ sự giao thoa của áp bức giới và cố gắng đưa những nhóm người bị gạt ra khỏi phong trào trong thời kỳ trước trở lại với các mục tiêu nữ quyền. 1.3.4. Làn sóng nữ quyền thứ tư Làn sóng này quan tâm xem xét các hệ thống quyền lực đan xen, được coi là góp phần tạo nên sự phân tầng của các nhóm vốn ở bên lề xã hội. Các nhà nữ quyền ở làn sổng thứ tư đấu tranh cho các nhóm này được đại diện nhiều hơn trong đời sống chính trị và kinh doanh và tranh luận rằng xã hội sẽ công bằng hơn nếu các chính sách và thực tiễn có tính đến quan điểm của tất cả mọi người. 1.4. Một số cách tiếp cận tăng cường bình đẳng giới trong hoạt động thực tiễn 1.4.1. Tiếp cận phúc lợi Tiếp cận phúc lợi là cách tiếp cận về mặt chính sách có liên quan đến nữ giới, ra đời sớm nhất vào những năm 50 và 60 của thế kỷ XX trong nỗ lực thúc đẩy bình đẳng giới của nhân loại. Cách tiếp cận này có nguồn gốc từ các chương trình phúc lợi xã hội ở Châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, với trọng tâm là các vấn đề “giáo dục về dinh dưỡng và kinh tế gia đình”, tập trung vào nhóm đối tượng “yếu thế và dễ tổn thương” nhằm giúp nữ giới thực hiện tốt hơn chức năng làm vợ và làm mẹ của họ. Do đó, cách tiếp cận này đặc biệt nhấn mạnh vai trò tái sản xuất của nữ giới và vai trò sản xuất của nam giới. Với mục đích như vậy, cách tiếp cận phúc lợi tập trung xây dựng chính sách ưu tiên cho phát triển kinh tế hộ gia đình, cung cấp hàng hóa và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhằm hỗ trợ cho người mẹ và trẻ em. Tính chất hỗ trợ của các chính sách theo cách tiếp cận này là tương đối đơn giản và dễ áp dụng trong thực hành các chương trình phát triển, bởi nó chỉ quan tâm cung cấp các dịch vụ cơ bản. Hơn nữa, cách tiếp cận này cũng không đòi hỏi những nỗ lực làm thay đổi về chính trị liên quan đến địa vị xã hội của nữ giới. Do vậy, mặc dù ra đời khá lâu và cho đến nay đó có một số cách tiếp cận mới, nhưng tiếp cận phúc lợi vẫn tiếp tục được áp dụng ở một số nước đang phát triển và chậm phát triển. Tuy nhiên, tiếp cận phúc lợi hầu như không chú ý đến khía cạnh hiệu quả, năng suất và vai trò quản lý cộng đồng xã hội của nữ giới. Trong cách tiếp cận này, nữ giới là đối tượng thụ động thụ hưởng quyền lợi trong quá trình phát triển. Do đó, cách tiếp cận phúc lợi đó nhanh chúng được bổ sung, thậm chí thay thế bằng các cách tiếp cận khác với những kiểu đánh giá, nhìn nhận đa dạng và đầy đủ hơn. 1.4.2. Tiếp cận nữ giới trong phát triển (WID) 11
  17. Tiếp cận nữ giới trong phát triển (Women in Development - WID) ra đời và phát triển vào những năm 70 của thế kỷ XX với mục tiêu thiết kế các hành động và chính sách để đưa nữ giới vào tiến trình phát triển. Thực chất, cách tiếp cận WID ra đời trong trào lưu phê phán cách tiếp cận phúc lợi. Cách tiếp cận WID có nguồn gốc lý thuyết từ phong trào nữ quyền tự do và gắn liền với vấn đề hiện đại hóa vào những năm 70 của thế kỷ XX. Luận chứng của cách tiếp cận này nhằm thu hút nữ giới vào quá trình phát triển dựa trên mô hình hiện đại hóa, trong đó sự phát triển chủ yếu được nhìn từ góc độ tăng trưởng kinh tế. Cách tiếp cận này cho rằng, nữ giới là những người nghèo nhất, có thu nhập thấp nhất và chưa có đóng góp hiệu quả cho sự phát triển. Bởi vậy, chiến lược của cách tiếp cận WID được xây dựng với niềm tin rằng, mối quan hệ giới sẽ thay đổi khi nữ giới trở thành một đối tác kinh tế trong phát triển. Sự ra đời và thịnh hành cách tiếp cận WID ở nhiều nước trên thế giới đó làm cho mối quan tâm đến các vấn đề của nữ giới được thể hiện rõ hơn trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Những người ủng hộ cách tiếp cận WID nhấn mạnh đến việc cần thiết phải có chính sách phát triển cho nữ giới. Đây được xem là một nỗ lực lớn gây ảnh hưởng ở cả cấp quốc gia và quốc tế. Phong trào hoạt động theo cách tiếp cận WID đó tạo nền tảng quan trọng cho các bộ máy, thể chế trong các tổ chức phát triển và các chính phủ đưa vấn đề nữ giới hòa nhập vào quá trình phát triển, đồng thời dẫn đến sự hình thành các cơ quan nghiên cứu về nữ giới ở nhiều nước đang phát triển. Trong thực tế, nhiều chương trình phát triển dành cho nữ đó được triển khai với các dự án hỗ trợ nữ giới thực hiện hoạt động tăng thu nhập. Ở nhiều nơi, nữ giới được đào tạo tay nghề và được tổ chức thành những hợp tác xã ở cấp vi mô và vĩ mô với sự giúp đỡ của các cơ quan phát triển và các nhà tài trợ. Cuộc sống của nhiều phụ nữ nghèo đói được cải thiện với sự thay đổi đáng kể về khả năng đóng góp vào việc đáp ứng các nhu cầu trong gia đình bằng cách nâng cao khả năng tạo thu nhập của bản thân. Tuy nhiên, cách tiếp cận WID cũng có những hạn chế nhất định, bởi khi các hoạt động can thiệp chỉ tập trung vào nữ giới thì về bản chất lại giúp phần làm gia tăng bất bình đẳng ở một số khía cạnh nhất định. Việc đưa các hoạt động tăng cường vai trò kinh tế của nữ giới vào chương trình can thiệp trong khi nữ giới vẫn phải đảm đương các vai trò truyền thống thực chất lại làm gia tăng gánh nặng cho họ. Hơn nữa, nữ giới bị tách biệt khỏi quá trình phát triển chung vì được coi là một “nhóm mục tiêu” riêng biệt. Do chỉ tập trung chủ yếu vào nhóm nữ nghèo nên vấn đề quyền lực của nữ giới không được đề cập trong các hoạt động can thiệp theo cách tiếp cận WID. Các dự án dành cho nữ theo cách tiếp cận này thường là những dự án ở quy mô nhỏ và đặc thù, nhằm tăng thu nhập của nữ giới trong phạm vi hộ gia đình hay nhóm nhỏ, tập trung vào các vấn đề mà nhóm nữ nghèo thường quan tâm như vấn đề dinh dưỡng, lương thực, kiến thức chăn nuôi, trồng trọt,... Như vậy, cách tiếp cận WID chỉ chủ yếu đáp ứng những nhu cầu cơ bản, trước mắt của một số nhóm nữ đặc thù, cũng trong việc xây dựng các mô hình phát triển kinh tế quy mô lớn nhằm cải thiện vị thế xã hội của nữ giới nói 12
  18. chung thì các hoạt động theo cách tiếp cận này mang lại rất ít thành công, vấn đề vai trò của nữ giới trong lãnh đạo quản lý, vấn đề quyền lực và đời sống chính trị của nữ giới hầu như không được cách tiếp cận WID đề cập tới. Nhìn chung, tiếp cận WID cho rằng, sự bất bình đẳng giới xuất phát từ nghèo đói và lạc hậu của xã hội trong thực hiện các hoạt động can thiệp nhằm cải thiện tình hình. 1.4.3. Tiếp cận giới và phát triển (GAD) Những hạn chế của cách tiếp cận WID là tiền đề cho sự ra đời của cách tiếp cận giới và phát triển (Gender and Development - GAD). Cách tiếp cận này ra đời vào những năm 80 của thế kỷ XX với mong muốn khỏa lấp những khoảng trống mà các hoạt động theo cách tiếp cận WID chưa đạt được, nhằm hướng tới mục tiêu xóa bỏ sự chênh lệch về bình đẳng, về xã hội, kinh tế và chính trị giữa nữ giới và nam giới như là điều kiện tiên quyết để đạt được sự phát triển tập trung vào con người. Cách tiếp cận GAD hiện đang được áp dụng với tư cách một công cụ hoạch định chính sách và lập kế hoạch về bình đẳng giới của rất nhiều quốc gia. Theo cách tiếp cận GAD, nữ giới và nam giới cùng có vai trò như nhau trong xây dựng và duy trì xã hội, cùng quyết định phân công lao động xã hội, có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau... Nhưng họ lại có những phương thức và phạm vi hoạt động khác nhau, đóng những vai trò khác nhau và có ảnh hưởng khác nhau trong các lĩnh vực xã hội, và đặc biệt là không bình đẳng trong việc tiếp cận các cơ hội cũng như trong hưởng thụ kết quả. Vì vậy, giải quyết vấn đề bình đẳng giới cần quan tâm đến những khác biệt giữa nam và nữ như các vấn đề ưu tiên riêng, cách nhìn nhận sự vật riêng của mỗi giới. Cũng cần chú ý rằng, trong quan hệ vai trò giới, nam giới có thể làm giảm bớt hoặc làm gia tăng những khó khăn của nữ giới và ngược lại. Sự phát triển là một quá trình phức tạp của các tiến bộ về văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội của cá nhân và xã hội, quá trình này có ảnh hưởng khác nhau tới nữ giới và nam giới, đồng thời nam giới và nữ giới cũng có những ảnh hưởng khác nhau đối với các hoạt động phát triển. Do đó, để thúc đẩy lợi ích và phúc lợi chung của xã hội, nữ giới và nam giới phải chia sẻ cách nhìn nhận về các vấn đề và cùng tìm ra phương thức để giải quỵểt các vấn đề đó. Phương pháp tiếp cận GAD cung cấp cơ sở lý luận cho việc xem xét một cách tổng thể, toàn diện các vấn đề, nhất là về vai trò của nữ giới trong mối tương quan với vai trò của nam giới trong phát triển cộng đồng trên các lĩnh vực hoạt động khác nhau. Tiếp cận GAD coi nữ giới là một chủ thể của quá trình biến đổi chứ không phải chỉ là nhóm đối tượng thụ hưởng bị động. Việc thực hiện các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới cần chú ý xem xét các vấn đề của cả nữ giới và nam giới, đặc biệt phải chú trọng xem xét mối quan hệ phụ thuộc giữa hai giới. Về phương thức thực hiện, cách tiếp cận GAD thông qua trao quyền hướng đến tăng cường sức mạnh nội tại của nữ giới. Nữ giới cần được liên kết thành các tổ chức nhằm tăng cường năng lực thương thuyết của mình trong hệ thống. Do vậy, tiếp cận GAD nhấn mạnh vai trò của tổ chức, đặc biệt là vai 13
  19. trò của các tổ chức của riêng nữ nhằm nâng cao quyền lực chính trị cho nữ giới trong cả hệ thống. Để thực hiện trao quyền, nội dung căn bản nhất là lập kế hoạch giới, thực hiện công bằng trong thực tiễn chứ không phải chỉ trên khẩu hiệu. Trong thực hiện các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới cần nhận thức rõ ràng, phúc lợi, chống nghèo đói và bình đẳng không phải là ba vấn đề đối lập mà ngược lại, phúc lợi và chống nghèo đói chính là tiền đề của bình đẳng. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng CSVN về BĐG 2.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bình đẳng giới Ngay từ thế kỷ XIX, C. Mác và Ph. Ăngghen - các lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản toàn thế giới - đã chỉ rõ: “Chế độ mẫu quyền bị lật đổ là sự thất bại lịch sử có tính chất toàn thế giới của giới nữ. Ngay cả ở trong nhà, người đàn ông cũng nắm lấy quyền cai quản, còn người đàn bà thì bị hạ cấp, bị nô dịch, bị biến thành nô lệ cho sự dâm đãng của đàn ông, thành một công cụ sinh đẻ đơn thuần”; “người vợ trở thành người đầy tớ chính và không được tham gia vào nền sản xuất xã hội”. “Tình trạng không bình quyền giữa đôi bên, do những quan hệ xã hội trước kia để lại cho chúng ta, tuyệt nhiên không phải là nguyên nhân, mà là kết quả của việc áp bức đàn bà về mặt kinh tế”. Hai ông khẳng định: “Một sự bình đẳng thực sự giữa phụ nữ và nam giới chỉ có thể trở thành hiện thực khi đã thủ tiêu được chế độ bóc lột của tư bản đối với cả hai giới và khi công việc nội trợ riêng trong gia đình đã trở thành một nền công nghiệp xã hội”. V.I. Lênin, người thầy vĩ đại của cách mạng vô sản thế kỷ XIX - XX kế thừa quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen, chỉ ra tình cảnh khốn khổ của nữ công nhân lao động trong các nhà máy, công xưởng: “Hàng triệu và hàng triệu phụ nữ trong những gia đình như vậy đang sống (hoặc nói đúng hơn đang bị đọa đầy) trong kiếp “gia nô”, ra sức lo ăn, lo mặc cho gia đình bằng từng xu nhỏ mà họ phải trả bằng những cố gắng phi thường hàng ngày và bằng “sự tiết kiệm” tất cả mọi thứ, chỉ trừ có “tiết kiệm” lao động của bản thân”. Ông chỉ rõ “Trong nông nghiệp, người lao động phụ nữ, vô sản cũng như nông dân, đều phải cố đem hết sức mình ra, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt, làm đến kiệt sức, hại đến sức khỏe của mình và của con cái để cố đuổi cho kịp người lao động nam giới trong nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa”; “họ cùng làm ở công xưởng 10 giờ một ngày, nhưng chỉ được tất cả có 1,10 - 1,50 mác (nam giới thì được 2,50 - 2,70 mác) và nếu trả công theo sản phẩm thì họ được 1,7 - 2,0 mác”. Phụ nữ “không có quyền gì cả vì pháp luật không cho họ có quyền bình đẳng với nam giới”, còn trong gia đình họ là “nô lệ gia đình”, bị nghẹt dưới cái gánh những công việc bếp núc nhỏ nhặt nhất, lam lũ nhất khổ cực nhất, làm cho mụ người nhất. 14
  20. Ông khẳng định: “Không còn nghi ngờ gì nữa, công xưởng tư bản chủ nghĩa đã đẩy các loại người lao động đó vào tình cảnh đặc biệt khó khăn... Thế nhưng, xu hướng đòi hoàn toàn cấm chỉ phụ nữ và thiếu niên không được lao động trong công nghiệp, hoặc xu hướng duy trì chế độ gia trưởng về sinh hoạt là chế độ loại bỏ lao động đó, xu hướng đó thật là phản động, không tưởng”. V.I. Lênin chủ trương “Phụ nữ được bình quyền với nam giới về mọi mặt”, “Thủ tiêu chế độ đẳng cấp; quyền bình đẳng hoàn toàn của mọi công dân, không phân biệt trai gái, tôn giáo, chủng tộc”; “...bổ nhiệm nữ thanh tra trong các ngành mà lao động nữ chiếm đa số”; “thành lập chế độ cộng hòa..., thực hiện chế độ nhân dân bầu cử quan chức, nam nữ bình đẳng”; “hủy bỏ tất cả mọi sự hạn chế, không trừ sự hạn chế nào, đối với các quyền chính trị của phụ nữ so với các quyền của nam giới”. Người khẳng định: “Giai cấp vô sản sẽ không đạt được tự do hoàn toàn, nếu không giành được tự do hoàn toàn cho phụ nữ”. 2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới Tiếp thu quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ lâu đã thấu hiểu nỗi khổ nhục, bất công của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ thực dân phong kiến. Người khẳng định: “Dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị áp bức, bóc lột, thì phụ nữ ta bị áp bức, bóc lột càng nặng nề hơn... Ngay từ đầu, Đảng và Nhà nước ta đã thi hành chính sách đối với phụ nữ cũng được bình quyền, bình đẳng với đàn ông”. Người nhận thấy vai trò to lớn của phụ nữ trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Người chỉ rõ: “Ông Các Mác nói rằng: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng, muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào thì chắc không làm nổi. Xem tư tưởng và việc làm của đàn bà con gái, thì biết xã hội tiến bộ ra thế nào”. Ông Lênin nói: “Đảng cách mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng biết làm việc nước, như thế cách mệnh mới gọi là thành công”; “…Xem trong lịch sử cách mệnh, chẳng có lần nào là không có đàn bà con gái tham gia”; “Vậy nên, muốn thế giới cách mệnh thành công, thì phải vận động đàn bà con gái công nông các nước”. Người chỉ rõ: “Cách mệnh Nga thành công mau như thế, đứng vững như thế, cũng vì đàn bà con gái hết sức giùm vào”. Hơn một tháng sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (02/9/1945), trong Lời kêu gọi chống thất học (tháng 10/1945), Người chỉ ra: “Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà... Phụ nữ lại càng cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm. Đây là lúc các chị em phải cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử trong nước, có quyền bầu và ứng cử”. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1