intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy - học ở trường THPT Nguyễn Chí Thanh

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:32

28
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến này rất hữu ích đối với cán bộ quản lý trong việc nâng cao hoạt động chuyên môn của trường THPT, nó bao gồm tất cả các nội dung mà cán bộ quản lý, đặc biệt là đồng chí phụ trách công tác chuyên môn của nhà trường cần phải nắm vững để qua đó thực hiện tốt nhiệm vụ năm học mà cấp trên mà nhà trường giao cho.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy - học ở trường THPT Nguyễn Chí Thanh

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO AN GIANG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG THPT NGUYỄN CHÍ THANH Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Phú Tân, ngày 15 tháng 02 năm 2019 BÁO CÁO Kết quả thực hiện sáng kiến, cải tiến, giải pháp kỹ thuật, quản lý, tác nghiệp, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật hoặc nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng I- Sơ lược lý lịch tác giả: - Họ và tên: Trần Kiên Cường Nam, nữ: Nam. - Ngày tháng năm sinh: 28/06/1981. - Nơi thường trú: Ấp Phú Lợi, Xã Phú Lâm, Huyện Phú Tân, Tỉnh An Giang. - Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Chí Thanh. - Chức vụ hiện nay: Phó Hiệu trưởng. - Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm toán. - Lĩnh vực công tác: Quản lý. II- Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị: Nêu tóm tắt tình hình đơn vị, những thuận lợi, khó khăn của đơn vị trong việc thực hiện nhiệm vụ 1. Giới thiệu khái quát về nhà trường Trường THPT Nguyễn Chí Thanh được thành lập theo Quyết định số 089/QĐ.UB- TC của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang ký ngày 01 tháng 8 năm 1995 có nhiệm vụ nâng cao mặt bằng dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho địa phương. Trường nằm cách trung tâm Huyện gần 20 km, tọa lạc tại thị trấn Chợ Vàm, phần đông người dân ở đây sống bằng nghề buôn bán nhỏ hoặc phải đi lao động ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương,… . Học sinh ở nhà sống với ông bà, anh chị. Trường có khuôn viên riêng biệt, có hàng rào khép kín xung quanh, có cổng chính, bảng trường, cột cờ theo đúng quy định, tổng diện tích sử dụng là 8.407 m2, tính trên đầu học sinh đạt tỉ lệ 14,5 m2. Số phòng học là 20 phòng. Trong đó, phòng học: 19, phòng thư viện: 01. Có khu thí nghiệm thực hành Lý – Hóa – Sinh: 03 phòng. Phòng máy vi tính: 01 phòng. 1
  2. Khu hành chính gồm có phòng hiệu trưởng, phòng các phó hiệu trưởng, phòng kế toán kiêm y tế, văn phòng và phòng giáo viên kiêm là Hội trường. Nhà vệ sinh: có nhà vệ sinh dành riêng cho học sinh và giáo viên. Các lối đi được bê tông hóa thuận tiện cho việc đi lại và hoạt động của nhà trường, cây xanh tạo được cảnh quan sư phạm của nhà trường. Có nhà để xe cho cán bộ, giáo viên, công nhân viên. 2. Thuận lợi: Được sự quan tâm của Lãnh đạo và các phòng ban Sở, chính quyền địa phương, tạo điều kiện cho nhà trường nâng cao chất lượng giảng dạy tại đơn vị. Đội ngũ giáo viên trẻ, năng động, yêu nghề, chăm lo cho bồi dưỡng học sinh giỏi, nâng chất lượng học sinh yếu, kém. Ban đại diện cha mẹ học sinh quan tâm đến việc học tập, học sinh có ý thức vươn lên trong học tập. 3. khó khăn: Chất lượng đầu vào học sinh còn thấp; Gia đình học sinh đi làm ăn xa ít quan tâm đến con em nên một số học sinh vẫn còn ham chơi. Cơ sở vật chất của Nhà trường còn nhiều thiếu thốn cho việc phục vụ dạy và học, bàn ghế cũ, không đúng qui cách nên ảnh hưởng đến việc phát triển thể chất cho học sinh. - Tên đề tài giải pháp: “Một số biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy - học ở trường THPT Nguyễn Chí Thanh”. - Lĩnh vực: Quản lý. III. Mục đích yêu cầu của đề tài, sáng kiến: 1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến a) Tình hình đội ngũ CB-GV-CNV trong trường Cán bộ quản lý 2: 01 Hiệu trưởng và 01 phó Hiệu trưởng, tuổi đời 30 đến 40: 1; tuổi đời từ 40 trở lên: 1. Giáo viên: 48 trong đó có 19 nữ, đại học 42/16 nữ, thạc sĩ 6/3 nữ. Tuổi đời từ 18 – 30 là 03 giáo viên, từ 31 đến dưới 45 là 37 giáo viên, trên 45 là 08 giáo viên. Thâm niên 2
  3. công tác từ 5 năm trở lên là 46 giáo viên, có kinh nghiệm trong công tác giảng dạy và quản lý học sinh. Đoàn trường và Công Đoàn hoạt động dưới sự chỉ đạo của Chi bộ Nhà trường, Bí thư Đoàn trường và Chủ tịch Công đoàn tuổi đời còn rất trẻ, dưới 30 tuổi. Phụ trách thiết bị, thí nghiệm thực hành: 2/1 nữ. Tổ chuyên môn gồm có 8 tổ: + Văn – Thư viện. + Sử - Địa - Giáo dục công dân. + Thể dục – Giáo dục quốc phòng. + Anh văn. + Toán-Tin học. + Lý- Kỹ thuật công nghiệp. + Sinh - Công nghệ. + Hóa học. Bên cạnh đó, hướng nghiệp và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp lập thành 01 tổ do Phó hiệu trưởng chuyên môn quản lý. Qua nghiên cứu đề tài này tôi nhận thấy: Đa số các giáo viên có ý thức trách nhiệm, tâm huyết với nghề, thực hiện tốt các quy định của chuyên môn, có đủ các loại hồ sơ sổ sách và ghi chép đúng quy định. Một số giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có kinh nghiệm trong quản lí và giáo dục học sinh, tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, tự học tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực của mình, thường xuyên cập nhật thông tin, ứng dụng CNTT trong soạn giảng, sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học… từng bước nâng cao chất lượng bộ môn mình phụ trách đặc biệt số lương giáo viên trẻ chiếm đa số nên thuận lợi cho công tác thi đua: tích cực tham gia các phong trào thi đua, các cuộc vận động và ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới phương pháp giảng dạy… Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số giáo viên chưa thật sự tâm huyết với nghề, thiếu kinh nghiệm giảng dạy, chưa đầu tư sâu cho bài giảng, vận dụng các phương pháp dạy học chưa linh hoạt, chưa thực sự phù hợp đối tượng học sinh, đổi mới phương pháp giảng dạy chưa đồng bộ, còn phụ thuộc vào sách giáo khoa, chưa bám sát chuẩn kiến thức 3
  4. kỹ năng, đôi khi chưa thật chủ động tổ chức đánh giá học sinh theo định hướng tích cực hoá việc học tập của học sinh, sử dụng ĐDDH đôi khi chưa hiệu quả, việc áp dụng phiếu học tập, bảng phụ và một số thiết bị phụ trợ khác tuy có hiệu quả song vẫn còn mang tính hình thức, để các tiết học còn trầm, chưa gây được hứng thú học tập cho học sinh. Quản lí tổ chức học sinh học tập còn hạn chế: bao quát, quán xuyến chậm, đôi khi chưa xây dựng được phong trào học tập và phương pháp học tập bộ môn cho học sinh. b) Tình hình học sinh Công tác huy động: Học sinh Tỉ lệ so Tỉ lệ cùng kỳ Ngành, bậc học Kế hoạch Huy động kế hoạch (%) năm trước THPT 810 795 98,15 91,57 Bỏ học trở lại 10 2 20,0 11,11 Số học sinh tính tới cuối năm học 2017-2018: 770/793 giảm 23 học sinh (so năm trước 38HS -giảm 15 học sinh) tỉ lệ 2,9% (năm trước 5,0%); trong đó K10: 251/267; K11: 276/283; K12: 243/243. (Trong đó chuyển trường 03, LĐS 04, Học nghề: 16) Tỉ lệ bỏ học là 04 học sinh tỉ lệ 0,5% so với năm trước là 1,32% giảm 0,8%. Nguyên nhân là do học sinh chuyển hướng sang học nghề để giúp ích cho gia đình. Tổng số lớp đầu năm là 22, cuối năm 22 tăng 01 lớp so với năm trước. Qua điều tra, nghiên cứu tôi thấy: Đa số các học sinh có mục đích, động cơ học tập đúng đắn, có ý thức học tập, hăng hái phát biểu xây dựng bài, thực hiện tốt các quy định của nhà trường, có đủ sách vở và ghi chép đúng quy định. Một số học sinh tiếp thu nhanh, có tinh thần vượt khó vươn lên trong học tập và rèn luyện, tích cực, tự học để bổ sung và nâng cao kiến thức, thường xuyên cập nhật thông tin, là những cánh chim đầu đàn trong phong trào thi đua, đạt thành tích cao trong học tập và rèn luyện. Song vẫn còn một số học sinh không xác định được rõ động cơ, mục đích của việc học tập, không yêu thích và hứng thú học tập các môn văn hoá; cho nên học sinh coi nhẹ việc học tập, mải chơi, hổng kiến thức, sa đà vào các trò chơi ngoài xã hội; một số học sinh không có hoặc không đủ sách giáo khoa, đồ dùng học tâp. Một số học sinh do năng lực tiếp thu chậm, chưa thực sự cố gắng, cầu tiến. Một số học sinh chưa chăm chỉ, chưa chú ý học tập, mải chơi, đã được nhắc nhở nhiều nhưng không tiến bộ, bị hổng kiến thức từ những năm trước, ý thức học tập chưa 4
  5. tốt nên việc bổ sung các kiến thức hổng đồng thời với việc học thêm kiến thức là quá tải với các em dẫn đến các em sợ học. Ngoài ra một vấn đề nữa cũng đáng quan tâm trong khi nghiên cứu về đề tài này là: Một bộ phận phụ huynh học sinh chưa thực sự quan tâm việc giáo dục con em, phó mặc cho nhà trường, chưa nắm bắt kịp thời diễn biến tâm sinh lý và kết quả học tập của con em, chưa phối kết hợp chặt chẽ với nhà trường trong việc giáo dục học sinh. Quá trình hội nhập mở… mặt trái của cơ chế thị trường đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc giáo dục học sinh của các nhà trường (hàng quán, trò chơi điện tử,...) đồng thời sự kết hợp vào cuộc của các tổ chức xã hội chưa đều tay, chưa đồng bộ, địa phương vẫn còn tồn tại những môi trường chưa thực sự lành mạnh ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của các em: dịch vụ- tụ điểm chơi điện tử, hàng quán. Với thực trạng về đội ngũ giáo viên, nề nếp các hoạt động chuyên môn, các em học sinh trên cơ sở thực tế nhà trường, các kết quả đạt được khi thực hiện các biện pháp quản lý các hoạt động chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy- học trong những năm qua tôi thấy việc nâng cao chất lương dạy- học là một vấn đề nan giải đòi hỏi phải có đầu tư, phải kiên trì và quyết liệt. Để chất lượng dạy học trong nhà trường được duy trì và từng bước được nâng cao đòi hỏi cán bộ quản lý, mỗi giáo viên và từng học sinh đều phải có sự cố gắng cao, đồng tâm nhất trí, tự giác thực hiện tốt các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện nói chung và chất lượng dạy- học trong nhà trường THPT Nguyễn Chí Thanh nói riêng. Tôi chỉ xin nêu một số biện pháp mà tôi đã có điều kiện quản lý, bước đầu có hiệu quả trong quá trình công tác của mình. 2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến Trong nhà trường hiện nay, mục tiêu giáo dục tổng quát đã được xây dựng tương đối phù hợp với xu thế phát triển của thời đại bao gồm cả thái độ năng lực, kĩ năng, kiến thức, cách học, cách làm, cách sống nhằm đào tạo con người tự chủ, năng động và sáng tạo, có năng lực giải quyết các vấn đề thực tế đặt ra, lo được việc làm, lập nghiệp trong cuộc sống, qua đó góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi sự nghiệp giáo dục đào tạo nói chung và trường THPT nói riêng phải có nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ về đạo đức và trí tuệ, về thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản phát triển năng lực cá nhân, tính 5
  6. năng động sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới trước xu thế hội nhập toàn cầu. Trường THPT Nguyễn Chí Thanh là một trường học trong hệ thống giáo dục của huyện Phú Tân, trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang đang trong quá trình hoàn thành xây dựng để đạt trường chuẩn quốc gia và tiến tới hoàn thành công tác kiểm định chất lượng giáo dục do đó tiêu chí về chất lượng dạy học là vô cùng quan trọng mà trong đó các hoạt động chuyên môn đóng vai trò then chốt. Vì vậy, để góp phần duy trì và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diên trong nhà trường nói chung và chất lượng dạy học nói riêng, tiến tới trường chuẩn quốc gia và hoàn thành công tác kiểm định chất lượng giáo dục, tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy - học ở trường THPT Nguyễn Chí Thanh”. Công tác chuyên môn trong nhà trường luôn được coi trọng hàng đầu trong toàn bộ công việc của một nhà trường. Hoạt động chuyên môn nhất thiết phải có kế hoạch và đặc biệt phải đi sâu vào công việc cụ thể, thiết thực là việc daỵ và học.Trong nhà trường THPT coi hoạt động dạy học là hoạt động có tính chất đặc thù. Họat động dạy học bao gồm sự chuyển hóa kiến thức khoa học đã được tích lũy của nhân loại đến người học. Hai đối tượng trong quá trình đó là người dạy (thầy, cô giáo ) và người học (học trò). Quá trình đó gồm nội dung kiến thức và phương pháp tác động từ thầy đến trò. Với mục đích đó, trong giờ dạy giáo viên phải là người tổ chức điều khiển quá trình dạy học để học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức; trò phải tích cực, độc lập suy nghĩ, chủ động và tự giác, ham hiểu biết để biến kiến thức của sách vở thành kiến thức của mình, qua đó phát huy một các tốt nhất năng lực của người học. Dạy là hoạt động của giáo viên nhằm định hướng tổ chức, điều khiển giúp người học tự tìm kiếm, chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng và hình thành hoặc biến đổi những tình cảm, thái độ. Học là quá trình tự biến đổi mình và làm phong phú mình bằng cách chọn nhập và xử lý thông tin lấy từ môi trường xung quanh. Việc dạy- học trong một nhà trường chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Nó cung cấp cho học sinh kỹ năng ban đầu và từng bứơc đi sâu vào kỹ năng thực hành. Qua đó học 6
  7. sinh có khả năng thực hành với những yêu cầu đòi hỏi thực hiện một cách chủ động ở tất cả các bộ môn và cũng nhờ đó mà học sinh có điều kiện phát triển tư duy, rèn phương pháp suy luận và bồi dưỡng phẩm chất trong thời đại CNH-HĐH, năng động sáng tạo trong mọi lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Trong nhà trường, dạy- học là nhiệm vụ trọng tâm, là hoạt động giáo dục cơ bản, then chốt. Vì vậy để nâng cao chất lượng dạy- học phải có đội ngũ giáo viên có phẩm chất đạo đức tốt; có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, chuẩn hoá về đào tạo đồng thời nhà trường phải là một môi trường giáo dục thuận lợi để họ phát huy cao nhất năng lực của mình, không ngừng tự học tự bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên cập nhập thông tin, tích cực đổi mới phương pháp và ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, yêu nghề mến trẻ, dám nghĩ dám làm và dám chịu trách nhiệm để có bước đột phá đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao hiệu quả giáo dục, đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá ngành giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực cao cho xã hội. Nhà giáo phải không ngừng học tập rèn luyện nêu gương tốt cho học sinh (Điều 14- Luật giáo dục). Và người quản lý phải xác định rõ vị trí trọng tâm của mình trong việc chỉ đạo, quản lý hoạt động dạy và học, đó là khâu xây dựng kế hoạch và quản lý các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của Bộ giáo dục, ngành chủ quản có nghĩa là quản lý việc lập kế hoạch và hoạt động của các tổ – nhóm chuyên môn, việc thực hiện quy chế chuyên môn của giáo viên, việc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh theo chuẩn kiến thức kỹ năng, phù hợp năng lực người học, trong đó để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thì nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng dạy - học. Vấn đề cơ bản là làm thế nào để tổ chức và quản lý các hoạt động chuyên môn đó đạt hiệu quả cao. Điều này đòi hỏi có sự quan tâm chỉ đạo hợp lý của các nhà quản lý giáo dục, quản lý thế nào để thầy dạy tốt và trò học tốt. Việc quản lý chỉ đạo các hoạt động chuyên môn của ban giám hiệu là một khâu quan trọng. Với sự chỉ đạo đó người cán bộ quản lý phải tìm cách tác động tích cực đến đội ngũ giáo viên để từng bước nâng cao chất lượng dạy và học. Trong những năm học qua công tác chuyên môn được trường THPT Nguyễn Chí Thanh thực hiện một cách nghiêm túc, có kế hoạch trong từng năm học, học kỳ, các tháng và không ngừng cải tiến làm cho hoạt động chuyên môn càng phong phú, hiệu quả ngày một cao. Đây thực sự là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết đối với trường 7
  8. THPT Nguyễn Chí Thanh trong giai đoạn hoàn thiện để nâng cao chất lượng để tiến tới trường đạt chuẩn Quốc gia và giữ vững chất lượng trong thời gian tới. 3. Nội dung sáng kiến 3.1. Tổ chức tốt các hoạt động chuyên môn 3.1.1. Đổi mới phân công chuyên môn- xây dựng thời khóa biểu a) Phân công chuyên môn Phân công công tác giảng dạy và chủ nhiệm cho đội ngũ giáo viên một cách hợp lý, đúng năng lực, sở trường, cá tính và có tính đến các yếu tố phù trợ, phù hợp với tình hình thực tế của nhà trường sẽ góp phần quyết định nâng cao chất lượng giảng dạy, giáo dục toàn diện. Phân công hợp lý sẽ thúc đẩy tinh thần làm việc và củng cố lòng tin của giáo viên, giảm thiểu áp lực trong công việc. Phân công giảng dạy phải xuất phát từ yêu cầu của việc giảng dạy và quyền lợi học tập của toàn thể học sinh. Phân công chuyên môn trước hết phải vì sự tiến bộ của cả tập thể sư phạm, tạo điều kiện người giỏi kèm cặp người chưa có kinh nghiệm, người còn yếu đồng thời chú ý đúng mức đến đến khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh, để đảm bảo các yêu cầu đó, tôi đã căn cứ vào các tiêu chuẩn để phân công về yêu cầu của việc dạy, năng lực và sở trường của giáo viên, thâm niên nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình và nguyện vọng cá nhân của giáo viên trên cơ sở đó đưa ra hình thức phân công phù hợp như dạy môn/ khối và theo lớp, kết hợp để giáo viên có cơ hội và điều kiện để trao đổi và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Đồng thời cùng với Hiệu trưởng xem xét và biên chế sĩ số lớp hợp lý, đều cả về học lực hạnh kiểm và sự phân bố trên địa bàn, chọn giải pháp tối ưu để xếp lớp đầu cấp, các lớp còn lại thường giữ nguyên sĩ số và giáo viên chủ nhiệm theo lớp hoặc không thì tiếp tục giảng dạy lớp (đặc biệt là các lớp chọn) trong cả khóa để có điều kiện nắm bắt tình hình học tập rèn luyện của học sinh, những biến đổi tâm sinh lý, hoàn cảnh gia đình …để có biện pháp tác động tích cực, chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm ổn định tổ chức lớp bầu cán sự lớp, biên chế các tổ-nhóm học sinh học tập. Với nhận thức về tầm quan trọng của phân công chuyên môn và chủ nhiệm, tôi đã thực hiện theo các bước sau: Bước1: Cùng với đồng chí Hiệu trưởng thống nhất các yêu cầu của việc phân công, chuẩn phân công (đạt hiệu quả chuyên môn cao nhất, đạt thành tích trong các phong trào 8
  9. thi đua, bồi dưỡng đội ngũ thiết thực nhất, đảm bảo giờ công lao động và có thể tham gia các hoạt động giáo dục khác…) Bước2: Phổ biến mục đích yêu cầu, chuẩn, dự kiến phương hướng phân công, quy trình phân công trong hội đồng sư phạm để giáo viên đăng ký nguyện vọng cá nhân. Bước 3: Dự kiến trước việc phân công căn cứ vào thực lực đội ngũ và yêu cầu thực tế của nhà trường, nguyện vọng của giáo viên. Bước 4: Thảo luận dự kiến phân công tại phiên họp cốt cán đến các tổ trưởng chuyên môn. Hướng dẫn các tổ trưởng chuyên môn tổ chức thảo luận trong tổ, giải thích thuyết phục giáo viên. Các tổ trưởng chuyên môn thông báo kết quả thảo luận, nhà trường điều chỉnh nếu có thay đổi. Bước 5: Ra quyết định phân công chuyên môn. Bên cạnh việc phân công giảng dạy các lớp cần kết hợp phân công các mặt hoạt động khác để giáo viên biết rõ khối lượng công việc của từng người và điều chỉnh nếu cần. Đặc biệt trong công tác phân công chủ nhiệm đối với các lớp cơ bản thì tiến hành bốc thăm. Với cách làm như trên nên việc phân công chuyên môn, chủ nhiệm của nhà trường luôn tạo được sự đồng thuận, phù hợp với điều kiện thực tế nhà trường. Phân công chuyên môn công bằng, khách quan như vậy đã có tác dụng thúc đẩy động lực làm việc, khả năng phát triển và nhu cầu cống hiến của giáo viên. Khi phân công chuyên môn tôi không chỉ căn cứ vào thâm niên chuyên môn, trình độ đào tạo mà đã tính đến sự kế thừa giữa các thế hệ giáo viên đồng thời chú trọng đến việc trên cơ sở đảm bảo tối đa quyền lợi của người học, sự đồng đều giữa các khối lớp trên nguyên tắc khối nào cũng có giáo viên cốt cán và chế độ lao động đã quy định. Do đội ngũ giáo viên có nhiều biến động (Giáo viên nghỉ thai sản 05 đồng chí rải rác từ tháng 8/2017 đến hết tháng 11/2018) nên việc điều chỉnh phân công chuyên môn diễn ra thường xuyên. Trong học kỳ vừa qua trong quá trình hoạt động chuyên môn không có vướng mắc gì bởi sau khi thống nhất với đồng chí Hiệu trưởng, tôi đã trực tiếp gặp gỡ, trao đổi và động viên giáo viên nên ai cũng nhận nhiệm vụ một cách tích cực (thường giáo viên nhận nhiệm vụ mới có thừa giờ, trường hợp số tiết vượt thời khóa biểu Nhà trường tiến hành thỉnh giảng) và hoàn thành nhiệm vụ được giao. b) Xếp và quản lý thời khóa biểu 9
  10. Trong thời gian qua bản thân sử dụng phần mềm VietSchool để xếp thời khóa biểu nên rất thuận lợi trong việc thực hiện theo mục tiêu thời khóa biểu đặt ra cũng như xếp thời khóa biểu rất nhanh. Tuy nhiện, việc xây dựng thời khoá biểu phải hợp lý, vừa đảm bảo tính khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn tại trường; qua đó kế hoạch hoá việc theo dõi nề nếp dạy - học của giáo viên và học sinh; kịp thời giải quyết các giờ trống và các tình huống xảy ra trong quá trình thực hiện. Khi xây dựng thời khóa biểu tôi đặc biệt đến tính ổn định của thời khóa biểu, chính điều này làm cho nhịp độ hoạt động trong nhà trường được đảm bảo. Thời khóa biểu không ổn định sẽ gây rối loạn trong công việc của giáo viên và học tập của học sinh. Cùng với việc phân công chuyên môn trên cơ sở đảm bảo quyền lợi tối đa của người học và phát huy tối đa năng lực sở trường của giáo viên thì thời khóa biểu của nhà trường đã góp phần tạo thuận lợi cho việc thực hiện cũng như điều kiện về sức khỏe, địa bàn công tác của mỗi người; đánh giá đúng trình độ năng lực của giáo viên, phản ánh tình hình dạy học của nhà trường một cách công bằng, minh bạch; đồng thời phát huy phong trào đổi mới PPDH, đổi mới kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến thức kỹ năng và năng lực của người học, khuyến khích ứng dụng CNTT, khai thác tối đa cơ sở vật chất trang thiết bị thí nghiệm, phòng học bộ môn vào dạy- học, từng bước nâng cao chất lượng toàn diện của nhà trường. Một thời khóa biểu tốt phải được xây dựng trên các đặc điểm sư phạm và vệ sinh học đường như: Sắp xếp các giờ học phù hợp với lứa tuổi học sinh, bố trí phù hợp các lớp học theo chính khóa, tăng tiết, các môn khó được xen kẽ và rải trong cả tuần và giờ giải lao giữa các tiết. Để làm được điều này bản thân tôi- hiệu phó phụ trách chuyên môn nghiên cứu và nắm vững kế hoạch dạy học, bảng phân phối chương trình các môn học, danh sách phân công giáo viên theo môn, theo lớp và nguyện vọng của giáo viên và số lượng phòng học bộ môn, thiết bị dạy học. Và trực tiếp xếp thời khóa biểu theo các bước: Bước 1: Tập hợp tư liệu về chuyên môn, các nguyện vọng của giáo viên, trên cơ sở đề xuất của tổ chuyên môn. Bước 2: Căn cứ vào chương trình, số lớp biên chế hiện có, yêu cầu cụ thể của từng khối lớp, số tiết đã được phân công giảng dạy cho từng giáo viên. Bước 3: Trình Hiệu trưởng duyệt . Bước 4: Phụ trách chuyên môn quản lý trực tiếp thời khóa biểu. Chuyển thời khóa biểu tới giáo viên thông qua hệ thống mail, học sinh thực hiện. Tổ chuyên môn nhận thời khóa 10
  11. biểu để theo dõi, quản lý trực tiếp giáo viên trong tổ và bố trí dạy thay, dạy bù khi có giáo viên vắng. Các giáo viên nhận thời thời khóa biểu qua mail để thực hiện công tác giảng dạy, chủ nhiệm và thông báo công khai đến phụ huynh học sinh thông qua tin nhắn hệ thống SMAS để kết phối hợp giữa gia đình- nhà trường trong việc quản lý giờ giấc học tập và hoạt động của học sinh tại trường. Các thay đổi so với thời khóa biểu phải được thông báo đến phụ trách chuyên môn để quản lý và theo dõi trong quá trình thực hiện. Trong năm học 2017-2018 và học kỳ 1 vừa qua với sự biến động liên tục của đội ngũ giáo viên như: nghỉ thai sản, trở lại làm việc, điều động nhân sự, tăng tiết hoàn thành chương trình lớp 12...do đó thời khóa biểu của nhà trường đã liên tục điều chỉnh theo từng tuần, tháng, tuy nhiên vẫn đáp ứng được yêu cầu thay đổi về giáo viên, về chương trình các môn của từng học kỳ song nề nếp làm việc và nhịp độ hoạt động của nhà trường luôn được duy trì ổn định. Có được kết quả đó là có sự cố gắng của cả đội ngũ cán bộ giáo viên và nhân viên nhà trường trong vấn đề thực hiện và giải quyết kịp thời các tình huống thực tế trong các hoạt động của nhà trường. 3.1.2. Đổi mới xây dựng kế hoạch hoạt động chuyên môn Kế hoạch chuyên môn là kế hoạch bộ phận trong hệ thống kế hoạch của nhà trường trong đó gồm các mục tiêu có liên quan chặt chẽ, thống nhất với nhau bởi mục tiêu chung và hệ thống các biện pháp được xây dựng trước một giai đoạn nhất định nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục đã được xác định. Kế hoạch chuyên môn là chương trình hành động của tập thể giáo viên được xây dựng trên cơ sở những nhiệm vụ chung của nhà trường. Để làm được điều đó bản thân tôi phải tiến hành điều tra cơ bản, nắm bắt chính xác và xác định tình hình đầu năm, phân tích và xác định mục tiêu hoạt động chuyên môn cho năm học mới thông qua các văn bản hướng dẫn, triển khai nhiệm vụ năm học của cấp trên và tình hình thực tế nhà trường để viết dự thảo báo cáo, tổ chức thảo luận góp ý dự thảo kế hoạch từ các tổ chuyên môn, trên cơ sở các kế hoạch của từng cá nhân, đăng ký chỉ tiêu chất lượng và biện pháp nâng cao chất lượng từng nhóm bộ môn rồi hoàn chỉnh kế hoạch trình Hiệu trưởng duyệt. Kế hoạch hoạt động chuyên môn phù hợp với năng lực của đội ngũ giáo viên, yêu cầu nâng cao chất lượng, không gây áp lực nặng nề cho giáo viên. Đối với chuyên môn, việc xây dựng kế hoạch hoạt động kịp thời, sát thực tế và quản lý theo kế hoạch một cách khoa học giúp cho hoạt động chuyên môn nhà trường đi vào nề nếp. Ngoài kế hoạch dạy học (kế hoạch chuyên môn) thì bộ phận chuyên môn còn xây 11
  12. dựng các kế hoạch hoạt động theo năm học, kỳ học như: Kế hoạch dạy tự chọn, kế hoạch bồi dưỡng giáo viên, kế hoạch bồi dưỡng học sinh, kế hoạch dạy thêm học thêm, kế hoạch thực hiện đổi mới sáng tạo trong dạy và học,… cùng các kế hoạch chuyên đề như: Kế hoạch kiểm tra chung, kế hoạch thi giáo viên giỏi, kế hoạch thi học sinh giỏi, kế hoạch kiểm tra toàn diện hồ sơ chuyên môn, kế hoạch kiểm tra học kỳ, tham gia các hội thi do cấp trên phát động… Với các kế hoạch hoạt động chuyên môn được xây dựng bao giờ tôi cũng chú ý đến tính khả thi, tính thực tiễn, tính hiệu quả của kế hoạch, xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm (phù hợp với kế hoạch chung của nhà trường), nhiệm vụ cụ thể và đề xuất các giải pháp thực hiện hiệu quả, đồng bộ đồng thời có phân công nhiệm vụ rõ ràng, nguồn lực cần có (người thực hiện, người hỗ trợ), thời gian cụ thể, yêu cầu cần đạt để các tổ chuyên môn, các giáo viên căn cứ vào đó chủ động thực hiện một cách nghiêm túc, tự giác. Trong quá trình thực hiện tôi luôn đi sâu đi sát để định hướng, tạo điều kiện về mọi mặt, tư vấn và kiểm tra đánh giá chính xác khách quan, có nhận xét cụ thể rõ ràng minh bạch; tạo cơ hội để tổ chuyên môn cũng như mỗi giáo viên tự hoàn thiện và rút kinh nghiệm cho bản thân và đôi khi phải điều chỉnh lại một phần kế hoạch hoạt động cho phù hợp với tình hình thực tế, mang lại hiệu qủa cao cho hoạt động, thực hiện hỗ trợ kinh phí cho giáo viên làm công tác giám khảo, ban tổ chức,...theo đúng hướng dẫn số 29 của UBND Tỉnh. Chính vì vậy mà trong năm học 2017-2018 và học kỳ 1 vừa qua các hoạt động chuyên môn của nhà trường được các tổ chuyên môn, các giáo viên tích cực hưởng ứng và thực hiện đạt hiệu quả, hồ sơ chuyên môn được lưu đầy đủ, khoa học. 3.1.3. Tăng cường theo dõi thực hiện quy chế và nhiệm vụ chuyên môn Quản lý các hoạt động chuyên môn cũng có nghĩa là quản lý tốt việc thực hiện quy chế và nhiệm vụ chuyên môn một cách tự giác của mỗi giáo viên mỗi tổ- nhóm chuyên môn. Đó là: Theo dõi thời gian làm việc của giáo viên theo phân công chuyên môn và thời khóa biểu; việc thực hiện chương trình các bộ môn; Tổ chức kiểm tra định kỳ, đột xuất hồ sơ chuyên môn cùng việc tham gia các hoạt động chuyên môn khác. Trên cơ sở đó tổng hợp việc thực hiện quy chế, nhiệm vụ chuyên môn, kiểm tra đánh giá việc thực hiện chuyên môn và có biện pháp nhắc nhở, rút kinh nghiệm và tư vấn kịp thời để hoàn thiện các nội dung theo yêu cầu, báo cáo Hiệu trưởng kết quả thực hiện quy chế, nhiệm vụ chuyên môn trong từng tháng, học kỳ, cả năm. Để làm tốt nhiệm vụ này bản thân tôi xác định phải chú trọng việc đổi mới xây dựng nề nếp chuyên môn một cách thiết thực và hiệu quả. 12
  13. Trên cơ sở kết quả của năm học trước, tiếp tục làm cho mọi thành viên trong hội đồng nhà trường nắm vững đường lối, quan điểm giáo dục, chính sách của Đảng và Nhà nước thông qua việc cho giáo viên học tập các chỉ thị nghị quyết, thông tư về chất lượng, giải pháp mục tiêu giáo dục đào tạo đối với cấp THPT từ đó xác định và làm cho mọi thành viên trong nhà trường hiểu rõ trách nhiệm và quyền hạn của mình trong quá trình công tác; Có kế hoạch bồi dưỡng cả về tư tưởng chính trị, phẩm chất, nhân cách, cả về năng lực sư phạm cho giáo viên. Xây dựng cho đội ngũ cán bộ giáo viên, công nhân viên nhà trường ý thức thực hiện tốt quy tắc ứng xử và nhiệm vụ mà nhà trường đề ra đầu năm học. Đầu năm học nhà trường đã tổ chức cho giáo viên học tập quy chế chuyên môn, Nhiệm vụ năm học, Quy chế dân chủ trong trường học, tổ chức cho giáo viên nghiên cứu các tài liệu, Nghị quyết của Đảng, Luật giáo dục, Điều lệ trường trung học, Công văn số 1797/SGDĐT-GDTrH về việc đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học, Hướng dẫn số 31/HD-SGDĐT về việc dạy học tự chọn cấp THCS và THPT, Hướng dẫn số 32/HD-SGDĐT về việc xây dựng chủ đề dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá và sinh hoạt chuyên môn trên mạng thông tin “trường học kết nối”, Hướng dẫn số 56/HD- SGDĐT về việc đánh giá xếp loại giờ dạy giáo viên trung học, Kế hoạch số 152/KH- SGDĐT triển khai giảng dạy học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong trường phổ thông, Hướng dẫn số 03/HD-SGDĐT về việc thực hiện chương trình giáo dục phổ thông theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học, Hướng dẫn số 22/HD-SGDĐT về việc thực hiện nhiệm vụ năm học,... thống nhất các quy định của nhà trường về hồ sơ sổ sách và công tác theo đúng Hướng dẫn số 68/BGDĐT- GDTrH về việc chấn chỉnh việc lạm dụng hồ sơ, sổ sách trong nhà trường; quán triệt ý thức thực hiện các cuộc vận động qua việc xây dựng chương trình hành động với những giải pháp cụ thể, thảo luận trong hoạt động và cam kết thực hiện. Các chỉ thị nghị quyết, thông tư của cấp trên đều được nhà trường thông qua, được triển khai trên cơ sở dân chủ bàn bạc, thống nhất xây dựng thành nghị quyết của Hội đồng giáo dục và thực hiện nghiêm túc. Từng bước duy trì nề nếp, kỷ cương, ý thức tự học, tự bồi dưỡng thường xuyên. Khuyến khích và tạo điều kiện về thời gian và kinh phí cho cán bộ giáo viên- nhân viên tham gia các lớp học tập bồi dưỡng để đạt chuẩn, trên chuẩn về đào tạo. Xây dựng quy định, nội quy, quy chế cơ quan cho các tổ chức, các bộ phận trong nhà trường thông qua quy chế dân chủ: cán bộ giáo viên được thảo luận, góp ý xây dựng 13
  14. cho các quy định thống nhất chung của nhà trường: các tiêu chí thi đua của giáo viên và học sinh, cách đánh giá tiết học trong sổ đầu bài … Thống nhất các loại sổ sách quy định chung cho các tổ- nhóm chuyên môn, cá nhân giáo viên và các yêu cầu về từng loại sổ sách này; đặc biệt quan tâm đến giáo án: Việc thiết kế giáo án theo tinh thần dạy- học theo việc đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến thức kỹ năng và phù hợp với năng lực người học, tích cực đổi mới phương pháp dạy học, thể hiện được hoạt động của thầy và trò, chú trọng việc sử dụng đồ dùng dạy học, khuyến khích ứng dụng công nghệ thông tin vào soạn, giảng và quản lí học sinh cũng như giảng dạy trên lớp. Quản lý chặt chẽ sổ đầu bài, hàng tuần bản thân tôi đều kiểm tra việc ký sổ đầu bài của giáo viên và ra thông báo nhắc nhở trường hợp giáo viên chưa ký sổ hoặc quên ghi tên bài, từ đó rèn được nề nếp giảng dạy tốt cho giáo viên cũng như GVCN, sổ điểm cá nhân giáo viên in từ hệ thống SMAS và nhập điểm vào hệ thống hàng tháng, cưới học kỳ nhà trường xuất sổ điểm lớn từ hệ thống SMAS và giáo viên ký xác nhận qua đó hạn chế việc sai sót của giáo viên khi vào điểm, việc ra đề, kiểm tra chấm, chữa và trả bài, vào điểm của giáo viên theo đúng quy định. Định kỳ tháng và học kỳ nhà trường đều thông báo giáo viên để hồ sơ và tủ cá nhân để tổ tưởng chuyên môn duyệt hồ sơ của giáo viên còn Phó hiệu trưởng chuyên môn duyệt hồ sơ của tổ, đặc biệt là biên bản họp tổ trong việc thực hiện sinh hoạt tổ chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học để qua đó kịp thời nhắc nhở và đôn đốc việc thực hiện tốt hồ sơ của tổ chuyên môn. 3.1.4. Đổi mới quản lý hoạt động của tổ - nhóm chuyên môn a) Về tổ chuyên môn Tổ chuyên môn được xây dựng theo đúng điều lệ trường trung học, quản lí trực tiếp về mọi mặt hoạt động của các thành viên trong tổ. Tổ chuyên môn phải xây dựng kế hoạch hoạt động của tổ trong từng tuần, từng tháng, học kì, năm phù hợp với đặc trưng và biên chế của tổ mình theo kế hoạch chỉ đạo của chuyên môn và các tổ chức khác trong nhà trường. Tổ chuyên môn hướng dẫn xây dựng và quản lí kế hoạch cá nhân của tổ theo kế hoạch giáo dục, phân phối chương trình môn học của Bộ và kế hoạch năm học của nhà trường; tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tham gia đánh giá xếp loại các thành 14
  15. viên của tổ theo quy định của bộ giáo dục đồng thời đề xuất khen thưởng kỉ luật đối với giáo viên. Trong trường THPT, hoạt động chuyên môn của tổ chuyên môn là một hoạt động thiết yếu, chủ lực cho tất cả hoạt động giáo dục. Vai trò quản lý của tổ trưởng góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giáo dục. Mọi hoạt động của tổ chuyên môn được bàn bạc, thống nhất và thực hiện đều phải qua các sinh hoạt định kỳ (hoặc đột xuất) giữa các thành viên trong tổ nhằm đảm bảo tính hiệu quả, tính dân chủ đúng theo kế hoạch đã được xây dựng về các nội dung như: - Biện pháp quản lý chất lượng: Tổ chuyên môn chỉ đạo các giáo viên lập kế hoạch chuyên môn cá nhân, đăng kí chỉ tiêu chất lượng bộ môn trên cơ sở nắm bắt tình hình nhà trường, chỉ tiêu để trường đạt chuẩn quốc gia và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng bộ môn mình phụ trách để có hướng phấn đấu vì chất lượng chung của nhà trường. - Công tác thi đua: Tổ chuyên môn động viên, khích lệ giáo viên hăng hái thi đua dạy tốt, yêu nghề mến trẻ, động viên giáo viên đăng ký thi đua, thi giáo viên giỏi các cấp, tham gia các hội thi do cấp trên phát động như: thiết kế bài giảng e-Learning, hội thi sáng tạo khoa học kỹ thuật, viết sáng kiến, bồi dưỡng học sinh giỏi,... bình xét thi đua kịp thời, công khai minh bạch trên cơ sở theo dõi sát sao trong từng tháng thông qua bảng tổng hợp điểm thi đua và có xếp hạng đối với tất cả giáo viên trong nhà trường. Đây chính là động lực thúc đấy sử cố gắng phấn đấu vươn lên để hoàn thành nhiệm vụ của giáo viên trong các tổ chuyên môn. - Tổ chuyên môn còn hỗ trợ tốt giáo viên trong việc làm đồ dùng dạy học và khuyến khích giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học gắn liền với phẩm chất và năng lực của người học, kết hợp với các phương tiện hiện đại và rút kinh nghiệm cho từng tiết dạy, từng phân môn, từng khối lớp và nhân điển hình những tiết dạy tốt để tháo gỡ những khó khăn trong quá trình thực hiện áp dụng phương pháp phát huy tính tích cực học sinh trong học tập… - Biện pháp hạn chế học sinh yếu: sau các đợt kiểm tra chung cũng như thi học kỳ, giáo viên bộ môn lập danh sách học sinh yếu kém và báo về phụ trách chuyên môn. Nhà trường xây dựng và triển khai kế hoạch phụ đạo học sinh yếu kém đặc biệt là đối với học sinh lớp 12, thông qua kế hoạch bồi dưỡng học sinh và kế hoạch dạy thêm học thêm. Ngoài việc theo dõi thống kê của từng bài kiểm tra với những lưu ý cụ thể, sau những tiết dự giờ 15
  16. tôi luôn yêu cầu giáo viên phải nắm rõ các mặt còn hạn chế của học sinh yếu kém nhằm giúp giáo viên từng bước khắc phục và nâng cao chất lượng bộ môn. Đồng thời hàng tháng giáo viên bộ môn có báo cáo về chuyên môn tình hình học sinh yếu kém bộ môn, các giải pháp nâng cao chất lượng bộ môn, có theo dõi động viên kịp thời tạo điều kiện đẻ các em cố gắng vươn lên. - Tăng cường bồi dưỡng học sinh giỏi: từ năm học đầu cấp Nhà trường xây dựng và triển khai kế hoạch bồi dưỡng, chọn học sinh sau kết quả học kỳ 1 và từ thông tin các em tham gia thi học sinh giỏi cấp THCS, phân công giáo viên có năng lực chuyên môn và kinh nghiệm trong công tác giảng dạy; tổ chức thi học sinh giỏi cấp trương và tham gia thi học sinh giỏi cấp Tỉnh. - Bồi dưỡng chuyên môn: Tổ chuyên môn đã tích cực bồi dưỡng đội ngũ thông qua các hoạt động chuyên môn như: dự giờ thăm lớp, sinh hoạt chuyên môn, tham gia các chuyên đề, tham gia dạy tốt và thao giảng và thi giáo viên giỏi các cấp đặc biệt là công tác tự học tự bồi dưỡng của giáo viên theo quy định của chuyên môn. Các tổ chuyên môn đã chú ý đến việc giúp đỡ các đồng chí giáo viên mới ra trường hoặc yếu từng mặt, có tư vấn trực tiếp và kịp thời. Mỗi hoạt động này tổ- nhóm chuyên môn đều có đánh giá, rút kinh nghiệm, tư vấn và tạo cơ hội cho giáo viên tự khẳng định mình. Đồng thời cũng qua các hoạt động chuyên môn tôi đã mạnh dạn giao việc để phát huy tính dân chủ, tính tích cực chủ động sáng tạo của giáo viên, theo dõi giúp đỡ để bồi dưỡng giáo viên có nhiều hoạt động nổi trội trong chuyên môn và bồi dưỡng cốt cán bộ môn trong đó các đồng chí tổ trưởng, tổ phó chuyên môn và các đồng chí nhóm trưởng các nhóm chuyên môn đều là những cốt cán vững vàng về nghiệp vụ, có tay nghề chuyên môn vững trong giảng dạy, trực tiếp lên lớp, trực tiếp soạn bài và trực tiếp chỉ đạo hoạt động của các tổ- nhóm chuyên môn nên mọi nề nếp chuyên môn trong nhà trường được giữ vững, khả năng giảng dạy tiếp cận và đổi mới phương pháp dạy học được nâng lên rõ rệt, từng bước đổi mới sinh hoạt tổ- nhóm chuyên môn với những hoạt động mang tính sáng tạo và hiệu quả. - Kiểm tra đánh giá giáo viên: Tổ chuyên môn, cốt cán bộ môn kiểm tra đánh giá xếp loại giáo viên trung học và theo dõi quản lý trong suốt năm học một cách khách quan, công bằng. - Quản lý các hoạt động của giáo viên: Giáo viên được tổ chuyên môn quản lý trực tiếp và toàn diện về mọi mặt từ việc thực hiện chương trình, việc lên theo thời khóa biểu, 16
  17. ngày giờ công, quản lý hồ sơ sổ sách …đến chất lượng bộ môn. Khi trong tổ có giáo viên nghỉ việc riêng, ốm đau hoặc đi công tác tổ chuyên môn có trách nhiệm báo cáo việc sắp xếp chuyên môn trong phạm vi tổ, để phụ trách chuyên môn biết để quản lí theo dõi và sắp chuyên môn liên quan đến các tổ khác để tránh làm ảnh hưởng đến nề nếp chung. - Tổ chức các phong trào thi đua dạy tốt- học tốt: Từ đầu năm học chuyên môn cùng với công đoàn nhà trường liên tục phát động các đợt thi đua dạy tốt- học tốt chào mừng ngày 20/10; 20/11; thi giáo viên giỏi cấp trường. Giáo viên lên lớp thể hiện chuyên đề đổi mới phương pháp, chuyên đề bài khó, sử dụng phương tiện hiện đại (giáo án điện tử)… Học sinh đăng kí ngày học tốt, tuần học tốt, thi đua giành điểm tốt. Đây là hoạt động thiết thực cho việc tự học, tự bồi dưỡng của giáo viên trong các tổ chuyên môn và thi đua học tập-rèn luyện của học sinh góp phần nâng cao chất lượng dạy học của nhà trường.. - Thực hiện chế độ hội họp, báo cáo đúng quy định. Hàng tháng các tổ chuyên môn họp từ 2 lần để triển khai kế hoạch, đánh giá rút kinh nghiệm các hoạt động và bình xét thi đua theo tiêu chí đã được thảo luận và thống nhất ngay từ đầu năm. Đặc biệt là thực hiện sinh hoạt tổ chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học. 3.1.5. Củng cố nề nếp dạy - học cho giáo viên và học sinh Trong nhà trường có hai hoạt động lớn là hoạt động giảng dạy của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh. Đánh giá kết quả một nhà trường ngoài các kết quả số liệu về đội ngũ giáo viên thì phải đo bằng chất lượng của học sinh qua hai mặt giáo dục: Học lực và hạnh kiểm. Nhà trường đã tổ chức dạy học theo kế hoạch thời gian năm học: 37 tuần- theo Công văn số 22/ HD-SGDĐT ngày 21/08/2018 của Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang và hướng dẫn giảng dạy các môn học trung học, Thực hiện phân phối chương trình các môn học theo hướng thống nhất trong tổ chuyên môn và điều chỉnh nội dung chương trình các bộ môn, phù hợp với đối tượng học sinh và điều kiện thực tế của nhà trường. a) Đối với giáo viên Thực hiện dạy học, kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến thức kỹ năng, phù hợp năng lực người học- đây là một yêu cầu mới và cần thiết. Để có giờ dạy đạt hiệu quả, người giáo viên phải thực sự đầu tư cho chuyên môn: 17
  18. - Chuẩn bị bài soạn chu đáo, nghiên cứu kỹ kiến thức, lựa chọn các phương pháp giảng dạy phù hợp với nội dung- kiểu bài lên lớp, với đối tượng học sinh, bám sát chương trình và chuẩn kiến thức- kĩ năng, việc thiết kế giáo án theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh, thể hiện đúng đặc trưng bộ môn, tích cực đổi mới phương pháp, thể hiện rõ hoạt động của thầy - trò và nội dung trọng tâm của bài thông qua các chuỗi hoạt động nhằm phát huy được năng lực của người học. - Phần giảng của giáo viên phải nhuần nhuyễn, giáo viên phải là người tổ chức điều khiển quá trình dạy học, giúp học sinh tích cực chủ động tìm tòi và chiếm lĩnh tri thức. Mỗi tiết dạy phải đảm bảo chuẩn kiến thức kỹ năng, tính chính xác, đặc biệt là vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học: tích cực hoá hoạt động của học sinh, sử dụng hiệu quả thiết bị đồ dùng dạy học, phát huy trí lực của học sinh. Giáo viên phải làm chủ kiến thức, bao quát toàn diện, tăng cường và đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh theo chuẩn kiến thức kỹ năng dưới mọi hình thức, động viên khích lệ học sinh (đặc biệt là học sinh yếu kém) sau mỗi cố gắng dù là nhỏ. Để làm tốt được điều đó, ngay từ đầu năm học, khi được nhận lớp học sinh mà mình giảng dạy giáo viên cần tìm hiểu học sinh, kiểm tra kiến thức cả lớp bằng hình thức điều tra cơ bản, kiến thức môn học ngay lớp dưới. Việc kiểm tra thường xuyên, kiểm tra làm bài tập trên lớp, kiểm tra định kì, kiểm tra chung đã được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, đúng quy chế để giúp cho việc phân loại đối tượng học sinh chính xác, chỉ ra được học sinh yếu kém, hổng kiến thức, lười học. Trên cơ sở đó, giáo viên đi sâu vào tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến chất lượng bài làm của những học sinh đó, xem nguyên nhân nào là chủ yếu để có biện pháp tối ưu giúp đỡ học sinh tiến bộ. Có sự kết hợp giữa dạy chữ và dạy người; giữa giảng dạy và đánh giá; giữa giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn, các tổ chức khác trong nhà trường và phụ huynh học sinh; phối kết hợp với phụ huynh học sinh định hướng động cơ, mục đích học tập cho học sinh để giúp các em có phương pháp học tập phù hợp với đặc trưng của từng môn học, gây hứng thú và lòng say mê yêu thích bộ môn. b) Đối với học sinh: Để hoạt động dạy- học có chất lượng thì ngoài việc giảng dạy có hiệu quả của người thầy thì người học (học sinh) phải chủ động học tập tích cực: 18
  19. - Hoạt động học tập tích cực đặc biệt là phát huy được năng lực của từng học sinh ngày càng trở nên có ý nghĩa lớn trong cuộc sống của các em và vai trò của nó trong sự phát triển nhân cách ngày càng to lớn hơn. Tính tích cực học tập thể hiện ở viêc học sinh hăng hái trả lời câu hỏi của giáo viên, tham gia hoạt động nhóm, thảo luận nhóm, nhận xét phê phán, bổ sung câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề được nêu ra, đưa ra thắc mắc, đòi hỏi giải thích cận kẽ những vấn đề chưa hiểu rõ, chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới, tập trung vào các vấn đề đang học, kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn. - Để có thể học tập tích cực được thì các em phải chăm chỉ, chuyên cần, chuẩn bị bài cũ, thực hiện các hoạt động mà giáo viên giao về nhà, soạn bài mới, có ý thức học tập tốt, hăng hái phát biểu xây dựng bài; tích cực tham gia thảo luận nhóm, ham học, ham tìm tòi khám phá và lĩnh hội kiến thức, vân dụng vào giải bài tập và các tình huống xã hội. - Đối với những học sinh yếu, kém có kế hoạch phụ đạo bằng nhiều cách như: + Trên lớp: Khích lệ tinh thần học tập dưới mọi hình thức. Thành lập '' đôi bạn cùng tiến'' giúp đỡ nhau học tập. Giáo viên bộ môn có học sinh yếu kém lập danh sách và có kế hoạch bồi dưỡng cụ thể theo từng tháng, học kì. + Ở nhà: Học sinh phải có thời gian biểu và thời khoá biểu dán ở góc học tập. Phụ huynh phải thường xuyên quan tâm, kiểm tra nhắc nhở, động viên khuyến khích con em mình thực hiện nghiêm túc - không nên dùng “bạo lực” với các em. 3.2. Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến thức kỹ năng, định hướng phát triển năng lực Như chúng ta đã biết sự tồn tại của phương pháp dạy học là cụ thể. Bởi thế mọi chủ trương, quan điểm, mọi lý thuyết về đổi mới phương pháp sẽ vẫn chỉ là “màu xám” nếu nó không được chuyển hoá thành ý thức và tình cảm, tri thức và kỹ năng của người giáo viên với tư cách là một nhà sư phạm cụ thể, ở một nhà trường cụ thể, trên cơ sở những bài học cụ thể, giữa bối cảnh một giờ lên lớp, một đối tượng học sinh…Bao nhiêu cái cụ thể ấy ràng buộc, chi phối và đặt ra bấy nhiêu yêu cầu cho người giáo viên phải quan tâm suy nghĩ và thể hiện trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá theo nưng lực người học và chuẩn kiến thức kỹ năng. Vì vậy để đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá hiệu quả thì bên cạnh vấn đề tư tưởng, nhận thức, vấn đề năng lực chuyên môn nghiệp vụ của người giáo viên thì việc tổ chức quản lý, chỉ đạo của nhà 19
  20. trường đóng vai trò vô cùng quan trọng tức là điều kiện để thầy đổi mới cách dạy phải được tiến hành song song với đổi mới về công tác quản lý, đổi mới cách học của trò. 3.2.1. Chỉ đạo thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học: a) Cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện tập mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng. Để nâng cao hiệu quả của các phương pháp dạy học này người giáo viên trước hết cần nắm vững những yêu cầu và sử dụng thành thạo các kỹ thuật của chúng trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp, kỹ thuật đặt các câu hỏi và xử lý các câu trả lời trong đàm thoại, hay kỹ thuật làm mẫu trong luyện tập. Tuy nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học mới, có thể tăng cường tính tích cực nhận thức của học sinh trong thuyết trình, đàm thoại theo quan điểm dạy học giải quyết vấn đề. b) Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học Việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm, nhóm đôi và dạy học cá thể là những hình thức xã hội của dạy học cần kết hợp với nhau, mỗi một hình thức có những chức năng riêng. Tình trạng độc tôn của dạy học toàn lớp và sự lạm dụng phương pháp thuyết trình cần được khắc phục, đặc biệt thông qua làm việc nhóm. Trong thực tiễn dạy học hiện nay, nhiều giáo viên đã cải tiến bài lên lớp theo hướng kết hợp thuyết trình của giáo viên với hình thức làm việc nhóm, góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Tuy nhiên hình thức làm việc nhóm rất đa dạng, không chỉ giới hạn ở việc giải quyết các nhiệm vụ học tập nhỏ xen kẽ trong bài thuyết trình, mà còn có những hình thức làm việc nhóm giải quyết những nhiệm vụ phức hợp, có thể chiếm một hoặc nhiều tiết học, sử dụng những phương pháp chuyên biệt như phương pháp đóng vai, nghiên cứu trường hợp, dự án. Mặt khác, việc bổ sung dạy học toàn lớp bằng làm việc nhóm xen kẽ trong một tiết học mới chỉ cho thấy rõ việc tích cực hoá “bên ngoài” của học sinh. Muốn đảm bảo việc tích cực hoá “bên trong” 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2