intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp dạy học nhằm phát triển năng lực đọc hiểu truyện ngắn hiện đại cho học sinh THPT

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:73

15
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm phát huy vai trò chủ thể của học sinh: làm việc độc lập, sáng tạo; Giúp học sinh liên hệ mở rộng một vấn đề nào đó từ văn bản bằng suy nghĩ, ý kiến của mình; vận dụng văn bản để trình bày phương hướng, biện pháp giải quyết một vấn đề cụ thể của cuộc sống, của xã hội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp dạy học nhằm phát triển năng lực đọc hiểu truyện ngắn hiện đại cho học sinh THPT

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT YÊN THÀNH 2 =====  ===== SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ GIẢI PHÁP DẠY HỌC NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC ĐỌC HIỂU TRUYỆN NGẮN HIỆN ĐẠI CHO HỌC SINH THPT LĨNH VỰC: NGỮ VĂN Giáo viên thực hiện: Phan Thị Hà Nguyễn Trang Nhung Tổ: Ngữ văn Năm thực hiện: 2022 – 2023 Số điện thoại : 0366 751 688 – 0976 491 567 1
  2. A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Như chúng ta đều biết và thừa nhận rằng mỗi học sinh là một cá thể độc lập, có sự khác biệt về trình độ, năng lực, nhu cầu, sở thích và nền tảng xuất thân. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực thừa nhận thực tế này và tìm ra được những cách tiếp cận phù hợp nhằm phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất với mỗi học sinh thay vì giáo dục chủ yếu trang bị kiến thức như ở mô hình dạy học truyền thống.Theo đó, dạy học theo hướng phát triển năng lực là mô hình dạy học hướng tới mục tiêu phát triển tối đa phẩm chất và năng lực của người học thông qua cách thức tổ chức các hoạt động học tập độc lập, tích cực, sáng tạo của học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn và hỗ trợ hợp lý của giáo viên. Trong mô hình này, người học có thể thể hiện sự tiến bộ bằng cách chứng minh năng lực của mình. Điều đó có nghĩa là người học phải chứng minh mức độ nắm vững và làm chủ các kiến thức và kỹ năng (được gọi là năng lực); huy động tổng hợp mọi nguồn lực (kinh nghiệm, kiến thức, kĩ năng, hứng thú, niềm tin, ý chí,…) trong một môn học hay bối cảnh nhất định, theo tốc độ của riêng mình. Trong quá trình dạy học này, giáo viên đóng vai trò là một người thầy, một người bạn để đồng hành cùng học sinh.Từ đó giúp cho học sinh hình thành và rèn được một số kỹ năng: thảo luận, phát vấn, hợp tác... học sinh tích cực, chủ động, bài học trở nên sinh động, hấp dẫn. Qua đó nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ Văn. Nguyên tắc chung của việc xác định, vận dụng các phương pháp dạy học là phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh thông qua hàng loạt tác động của giáo viên; giáo viên tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh theo tinh thần chú ý đến việc rèn luyện phương pháp tư duy, khả năng tự học, nhu cầu hành động và thái độ tự tin; có sự kết hợp giữa học tập cá thể (hình thức học cá nhân) với học tập hợp tác (hình thức học theo nhóm, theo lớp); chú trọng kết hợp học với hành, nâng cao tri thức với rèn luyện các kĩ năng, gắn với thực tiễn cuộc sống; phát huy thế mạnh của các phương pháp dạy học tiên tiến, hiện đại; các phương tiện, thiết bị dạy học và những ứng dụng của công nghệ thông tin. Như vậy, quá trình tổ chức dạy học tác phẩm văn học, trong đó có truyện ngắn, sẽ triển khai vận dụng nhiều phương pháp dạy học (kể cả phương pháp chung và phương pháp đặc thù) nhưng tất cả đều phải hướng đến mục tiêu phát triển được năng lực học sinh; tức là ưu tiên cho việc giải mã, tạo nghĩa văn bản, gắn các nội dung học tập với trải nghiệm của học sinh; đặt người học vào các tình huống của thực tiễn đời sống để yêu cầu phát biểu suy nghĩ và đề xuất các giải pháp hành động. Trong chương trình Ngữ văn THPT, số lượng văn bản được đưa vào chương trình rất nhiều. Nhìn chung, truyện ngắn hiện đại vẫn chiếm một số lượng lớn cả về dung lượng, lẫn số lượng văn bản. Về nội dung, những tác phẩm truyện ngắn được đưa vào chương trình là những tác phẩm tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam hiện đại, quen
  3. thuộc với bạn đọc Việt Nam qua nhiều thế hệ và phù hợp với trình độ tiếp thu của học sinh. Ở trường THPT Yên Thành 2, cách nhìn nhận và phương pháp của giáo viên về phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh trong dạy học truyện ngắn hiện đại cho học sinh cả ba khối lớp, nhất là học sinh khối 10 năm nay đều rất được quan tâm, chú trọng . Nhiều giáo viên mong muốn làm phong phú, sinh động thêm bài giảng của mình bằng cách tìm tòi sáng tạo trong soạn giảng, tìm kiếm các phương pháp mới nhằm tác động đến sự tiếp nhận của học sinh. Về phía học sinh, hầu hết các em đều yêu thích các tác phẩm truyện ngắn và hứng thú với các giờ học này. Tuy nhiên, ý thức chuẩn bị bài ở nhà của các em vẫn chưa được cao khi chỉ có số ít học sinh thực hiện đầy đủ các thao tác: đọc tác phẩm trước ở nhà, gạch chân các chi tiết quan trọng; tóm tắt tác phẩm; trả lời câu hỏi cuối SGK,... Mang lí thuyết lại gần với thực tế, góp phần khơi dậy hứng thú học tập và chuẩn bị những kĩ năng cần thiết cho người học bước vào cuộc sống sau này; vì những lí do đó, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “ Một số giải pháp dạy học nhằm phát triển năng lực đọc hiểu truyện ngắn hiện đại cho học sinh THPT” với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông nói chung và ở trường THPT Yên Thành 2 nói riêng. 2. Mục đích nghiên cứu - Nâng cao năng lực cảm thụ văn học gắn với thực tiễn. - Tạo hứng thú, lôi cuốn cho học sinh trong giờ học. - Phát huy vai trò chủ thể của học sinh: làm việc độc lập, sáng tạo. - Giúp học sinh liên hệ mở rộng một vấn đề nào đó từ văn bản bằng suy nghĩ, ý kiến của mình; vận dụng văn bản để trình bày phương hướng, biện pháp giải quyết một vấn đề cụ thể của cuộc sống, của xã hội - Cụ thể hóa và khái quát về năng lực đọc hiểu, đặc điểm của truyện ngắn hiện đại - Chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của giải pháp nâng cao năng lực đọc hiểu cho học sinh trong dạy học truyện ngắn hiện đại - Chỉ ra thực trạng dạy và học của học sinh khi đọc hiểu truyện ngắn hiện đại - Cụ thể hóa yêu cầu đối với việc dạy học truyện ngắn hiện đại, từ đó vận dụng trong tiết học cụ thể. 3. Giả thuyết khoa học Trong quá trình dạy học, nếu giáo viên áp dụng một số giải pháp dạy học nhằm phát triển năng lực đọc hiểu truyện ngắn hiện đại thích hợp theo từng bài sẽ tạo hứng thú học tập, giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động trong nhận thức, tinh thần làm việc khoa học, có kĩ năng hợp tác, góp phần đào tạo con người phát triển toàn diện và nâng cao chất lượng quá trình dạy học môn Ngữ Văn ở trường THPT.
  4. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lí luận liên quan đến dạy học theo định hướng phát triển năng lực, nguyên tắc thiết kế các chủ đề dạy học theo định hướng phát triển năng lực, các phương pháp dạy học truyện ngắn hiện đại. - Nghiên cứu về khái niệm năng lực giải quyết vấn đề, các biểu hiện, tiêu chí và bộ công cụ đánh giá mức độ phát triển năng lực giải quyết vấn đề của học sinh. - Điều tra thực trạng về tình hình dạy học theo định hướng phát triển năng lực ở một số trường THPT tại Yên Thành. 5. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này rất phù hợp cho ba khối ở cấp THPT, áp dụng tốt trong phạm vi rộng. Nhưng trong điều kiện của người viết, chúng tôi chỉ áp dụng cụ thể ý tưởng của mình qua bài dạy truyện ngắn hiện đại (Sgk Ngữ văn 10 tập 1,Sgk Ngữ văn 11 tập 1) ở khối lớp 10 và 11. - Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng mà tôi thực hiện khảo nghiệm là 10a3,10a7,11a1,11a2, trường THPT Yên Thành 2, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An trong năm học 2022– 2023 do chúng tôi trực tiếp giảng dạy. Chúng tôi cũng sử dụng phân phối chương trình nhóm Ngữ văn trường Yên Thành 2 năm học 2022 – 2023 để thực hiện sáng kiến này. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Các phương pháp nghiên cứu lí luận - Đọc và nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài: Các tài liệu lí luận dạy học có liên quan đến các phương pháp dạy học tích cực. + Các tài liệu liên quan đến việc tích hợp công nghệ nhằm phát huy tối đa hiệu quả của dạy học. - Phương pháp phân tích và tổng hợp. - Phương pháp diễn dịch và quy nạp. - Phương pháp phân loại, hệ thống hóa. 6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Quan sát, thăm lớp, dự giờ, trao đổi với giáo viên và học sinh. - Điều tra, khảo sát tình hình sử dụng dạy học theo dự án hiện nay: bằng phương pháp quan sát, phỏng vấn, phiếu điều tra ở một số trường THPT. - Khảo sát kết quả học tập của học sinh. - Phương pháp chuyên gia. - Thực nghiệm sư phạm. - Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.
  5. 6.3. Phương pháp xử lý thống kê Sử dụng toán xác suất thống kê để phân tích, xử lý các kết quả TNSP. 7. Đóng góp mới của đề tài Tổng hợp, khái quát về văn bản văn xuôi hiện đại lớp 10,lớp 11. Hướng dẫn phương pháp tìm hiểu, tiếp cận phát triển năng lực đọc hiểu văn bản truyện ngắn hiện đại một cách khoa học, vận dụng thực tế trong bài học, thể hiện được sự đoàn kết, chuẩn bị của học sinh. 8. Cấu trúc của sáng kiến Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của sáng kiến gồm: Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn Chương 2: Định hướng phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh THPT trong dạy học truyện ngắn hiện đại Chương 3: Giáo án thực nghiệm B. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Đọc hiểu 1.1.1.1. Khái niệm đọc hiểu Đọc hiểu văn bản là một quá trình nhận thức của người đọc. Đối tượng cần chiếm lĩnh của hoạt động đọc hiểu là các văn bản ngôn từ. Trong hành động đọc, độc giả tiếp nhận những thông tin đến từ văn bản. Chúng có thể đến từ những vấn đề sát sườn, thiết thực của đời sống cũng có thể là những mô hình về thế giới để chúng ta qua thể nghiệm mà khám phá bản thân mình. Mỗi người đọc đều có sẵn một “giản đồ nhận thức” bao gồm những hiểu biết, trải nghiệm, tâm tư tình cảm, nhu cầu hứng thú nhận thức nhất định Theo UNESCO: “Đọc hiểu là khả năng nhận biết, thấu hiểu, giải thích, sáng tạo, trao đổi, tính toán và sử dụng những tài liệu viết hoặc in ấn kết hợp với những bối cảnh khác nhau. Đọc hiểu đòi hỏi sự học hỏi liên tục cho phép một cá nhân đạt được mục đích của mình, phát triển kiến thức, tiềm năng và tham gia một cách đầy đủ trong xã hội rộng lớn.” Đọc hiểu phải trải qua ba giai đoạn. Thứ nhất là đọc hết, đầy đủ văn bản ngôn từ đoạn trích hoặc tác phẩm ngắn, tương đối ngắn tùy theo lớp, để nắm toàn bộ thông tin của văn bản. Năng lực đồng cảm của học sinh thể hiện chủ yếu ở khâu này. Khi đọc phát huy sức tưởng tượng, nhìn thế giới nghệ thuật theo điểm nhìn của người kể chuyện hay điểm nhìn của nhận vật chính , để cảm nhận hết con người và tình huống, tâm trạng nhân vật trong tác phẩm. Bước hai, đứng cao hơn nhân vật, nhận ra tác giả
  6. hàm ẩn trong văn bản, tìm hiểu ý nghĩa, thông điệp mà văn bản gợi ra cho người đọc. Bước ba, có thể liên hệ với các văn bản cùng loại (nguyên tắc liên văn bản) để nhận ra điểm giống hoặc khác, tính sáng tạo. Đọc hiểu hiện nay đang là phương pháp dạy học tích cực, phổ biến đối với môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông. GS Phan Trọng Luận cũng khẳng định: “Đọc hiểu là một kiểu dạy học văn bản Ngữ văn”. Đó là con đường đi đến tri thức mà học sinh làm chủ thể. Với các tác phẩm thơ Đường trong trường THPT, đọc hiểu là con đường ngắn nhất giúp học sinh tiếp nhận nó. 1.1.1.2. Cấp độ đọc hiểu Học sinh tiếp nhận văn bản thông qua hoạt động đọc để hiểu nội dung ý nghĩa, cái hay, cái đẹp mà người nghệ sĩ gửi gắm trong đó.Các cấp độ của đọc hiểu: Đọc thông - đọc thuộc; Đọc kĩ - đọc sâu; Đọc hiểu - đọc sáng tạo; Đọc đánh giá - đọc ứng dụng. Đây là các bước sẽ cho ta thấy mức độ và khả năng hiểu tác phẩm văn học của người đọc. 1.1.2. Năng lực đọc hiểu 1.1.2.1. Khái niệm năng lực Năng lực được coi là một thuộc tính tâm lí phức tạp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố như tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, sự sẵn sàng hành động, trách nhiệm và đạo đức, kinh nghiệm sống của cá nhân. Năng lực của con người có được là nhờ sự lao động thường xuyên, lâu dài, cần mẫn đầy hứng thú. Năng lực được hình thành nhờ một phần không lớn của năng khiếu hoặc tài năng. Nói đến năng lực đọc hiểu là nói đến năng lực ngôn ngữ của con người. Một đứa trẻ sinh ra phải học mới biết nói, rồi học để biết chữ và lúc đó mới học đọc. Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể xác định “năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt được kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.” Khái niệm “năng lực” có nhiều định nghĩa khác nhau, tùy thuộc vào quan điểm của mỗi người. Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, khái niệm “năng lực” được sử dụng như sau: - Năng lực liên quan đến bình diện mục tiêu của dạy học: mục tiêu dạy học được mô tả thông qua các năng lực cần hình thành. - Trong các môn học, những nội dung và hoạt động cơ bản được liên kết với nhau nhằm hình thành các năng lực.
  7. - Mục tiêu hình thành năng lực định hướng cho việc lựa chọn, đánh giá mức độ quan trọng và cấu trúc hóa các nội dung và hoạt động và hành động dạy học về mặt phương pháp; - Năng lực mô tả việc giải quyết những đòi hỏi về nội dung trong các tình huống; - Các năng lực chung cùng với các năng lực chuyên môn tạo thành nền tảng chung cho công việc giáo dục và dạy học. 1.1.2.2. Khái niệm “dạy học theo định hướng năng lực” Dạy học định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng “đầu ra” của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức. CTGD phổ thông theo định hướng phát triển năng lực không quy định những nội dung dạy học chi tiết mà quy định những kết quả đầu ra mong muốn của quá trình giáo dục, trên cơ sở đó đưa ra những hướng dẫn chung về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy học nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu dạy học tức là đạt được kết quả đầu ra mong muốn. Trong chương trình, mục tiêu học tập - tức là kết quả học tập mong muốn - thường được mô tả thông qua hệ thống các năng lực. Kết quả học tập mong muốn được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được. HS cần đạt được những 1.1.3. Chương trình giáo dục phổ thông theo định hướng phát triển năng lực ở Việt Nam Theo tinh thần của Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 với mục tiêu “Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hoà đức, trí, thể, mĩ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi HS”. Sau một quá trình chuẩn bị tích cực, đến nay, BGD-ĐT đã chính thức công bố CTGD phổ thông bao gồm chương trình tổng thể (khung chương trình), các chương trình môn học và hoạt động giáo dục (ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT). 1.1.3.1. Về chương trình giáo dục tổng thể CTGD phổ thông tổng thể được xây dựng theo quan điểm “bảo đảm phát triển phẩm chất và năng lực người học thông qua nội dung giáo dục với những kiến thức cơ bản, thiết thực, hiện đại; hài hoà đức, trí, thể, mĩ; chú trọng thực hành, vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề trong học tập và đời sống; tích hợp cao ở các lớp học dưới, phân hoá dần ở các lớp học trên; thông qua các phương pháp, hình thức tổ
  8. chức giáo dục phát huy tính chủ động và tiềm năng của mỗi HS, các phương pháp kiểm tra, đánh giá phù hợp với mục tiêu giáo dục và phương pháp giáo dục để đạt được mục tiêu đó” . Theo quan điểm này, chương trình giáo dục đặt ra yêu cầu “hình thành và phát triển cho HS những năng lực cốt lõi sau : a) Những năng lực chung được hình thành, phát triển thông qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác,năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; b) Những năng lực đặc thù được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực khoa học, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất. Bên cạnh việc hình thành, phát triển các năng lực cốt lõi, chương trình giáo dục phổ thông còn góp phần phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu của HS”. Đồng thời, “Căn cứ mục tiêu giáo dục và yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực ở từng giai đoạn giáo dục và từng cấp học, chương trình mỗi môn học và hoạt động giáo dục xác định mục tiêu, yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực và nội dung giáo dục của môn học, hoạt động giáo dục đó”. 1.1.3.2. Về chương trình môn Ngữ văn Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể xác định: “Giáo dục ngôn ngữ và văn học có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng tình cảm, tư tưởng và hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực cho HS. Thông qua ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật, nhà trường bồi dưỡng cho HS những phẩm chất chủ yếu, đặc biệt là tinh thần yêu nước, lòng nhân ái, tính trung thực và ý thức trách nhiệm; hình thành, phát triển cho HS các năng lực chung và hai năng lực đặc thù là năng lực ngôn ngữ, năng lực văn học”. Trên cơ sở của định hướng đó, mục tiêu chung của môn Ngữ văn được xác định là: a) Hình thành và phát triển cho HS những phẩm chất chủ yếu: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm; bồi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách và phát triển cá tính. Môn Ngữ văn giúp HS khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn; có tình yêu đối với tiếng Việt và văn học; có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá Việt Nam; có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và khả năng hội nhập quốc tế. b) Góp phần giúp HS phát triển các năng lực chung: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác,năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đặc biệt, môn Ngữ văn giúp HS phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học: rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe, có hệ thống kiến thức phổ thông nền tảng về tiếng Việt và văn học, phát triển tư duy hình tượng và tư duy logic, góp phần hình thành học vấn căn bản của một người cóvăn hoá; biết tạo lập các văn bản thông dụng; biết tiếp nhận, đánh giá các văn bản văn học nói riêng, các sản phẩm giao tiếp và các giá trị thẩm mĩ nói chung trong cuộc sống”
  9. 1.1.4. Yêu cầu dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại theo định hướng phát triển năng lực Trong quan niệm truyền thống, tác phẩm văn chương nói chung, truyện ngắn nói riêng chỉ được nhìn nhận như một sản phẩm của nhà văn - đó là một kết cấu trọn vẹn, một khách thể khép kín, tĩnh tại, đã hoàn thành và bất biến, không phụ thuộc vào việc người đọc có đọc nó hay không và hiểu nó như thế nào. Quan niệm này cũng gắn với suy nghĩ cho rằng tác giả là người duy nhất đem lại nội dung, tư tưởng, ý nghĩa cho tác phẩm; và công việc của người nghiên cứu là tập trung vào tìm hiểu những gì nhà văn gửi gắm trong tác phẩm, tìm hiểu “nguyên ý” của tác phẩm. Vì vậy, trong quá trình dạy học văn ở nhà trường, việc xây dựng một thái độ sáng tạo đối với tiếp nhận văn học có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Dạy học sinh đọc và tiếp nhận tác phẩm là giúp cho học sinh bộc lộ những rung động, cảm xúc trước thế giới nghệ thuật của nhà văn, khuyến khích học sinh giải mã, tạo nghĩa cho tác phẩm theo kinh nghiệm, kiến thức, năng lực của mình. Theo định hướng chung của đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực học sinh, giáo viên phải quan tâm tới việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo; rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, năng lực vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tác động đến tư tưởng và tình cảm để đem lại niềm vui, hứng thú trong học tập cho học sinh. Do vậy, nguyên tắc chung của việc xác định, vận dụng các phương pháp dạy học là phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh thông qua hàng loạt tác động của giáo viên; giáo viên tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh theo tinh thần chú ý đến việc rèn luyện phương pháp tư duy, khả năng tự học, nhu cầu hành động và thái độ tự tin; có sự kết hợp giữa học tập cá thể (hình thức học cá nhân) với học tập hợp tác (hình thức học theo nhóm, theo lớp); chú trọng kết hợp học với hành, nâng cao tri thức với rèn luyện các kĩ năng, gắn với thực tiễn cuộc sống; phát huy thế mạnh của các phương pháp dạy học tiên tiến, hiện đại; các phương tiện, thiết bị dạy học và những ứng dụng của công nghệ thông tin; chú trọng cả hoạt động đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh… Như vậy, quá trình tổ chức dạy học tác phẩm văn học, trong đó có truyện ngắn, sẽ triển khai vận dụng nhiều phương pháp dạy học (kể cả phương pháp chung và phương pháp đặc thù) nhưng tất cả đều phải hướng đến mục tiêu phát triển được năng lực học sinh; tức là ưu tiên cho việc giải mã, tạo nghĩa văn bản, gắn các nội dung học tập với trải nghiệm của học sinh; đặt người học vào các tình huống của thực tiễn đời sống để yêu cầu phát biểu suy nghĩ và đề xuất các giải pháp hành động. Trong sáng kiến, tôi sử dụng quan niệm: Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành và phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện để đáp ứng các yêu cầu phức hợp và thực hiện thành công nhiệm vụ trong một bối cảnh nhất định. 1.1.4.1. Năng lực đọc hiểu văn bản
  10. Năng lực đọc hiểu văn bản là tổng hợp những khả năng hiểu, cảm thụ và lĩnh hội cũng như chiếm lĩnh, trở thành người viết thứ hai, ban đọc sáng tạo, phân tích chi tiết và khái quát thành chủ đề cũng như phát triển nghĩa mới của văn bản. CÁC MỨC ĐỘ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN Mức Mô tả 1. Nhận biết thông tin của văn bản Chỉ ra những thông tin có liên quan và được thể hiện trong văn bản: tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác, từ ngữ, chi tiết, nhân vật, qua đó nhận biết về đối tượng và nội dung chính được đề cập. 2. Xác định ý tưởng chính của văn Kết nối các thông tin từ ngữ, bối cảnh trong văn bản bản để xác định được các ý tưởng cơ bản của văn bản. 3. Khái quát giá trị nội dung, nghệ Kết nối các mối liên hệ trong và ngoài văn bản thuật của văn bản để nhận xét về giá trị nội dung, nghệ thuật của văn bản, ý tưởng sáng tác của tác giả, các thông điệp gửi gắm. 4. Vận dụng thông tin vào tình Sử dụng thông tin của văn bản, thông tin của huống giả định , hoặc thực tiễn các nguồn khác và kinh nghiệm bản thân để giải quyết các vấn đề giả định, các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống được gợi ra từ văn bản. 5. Kiến giải ý nghĩa của văn bản Suy nghĩa, bình luận, kiến giải ý nghĩa tư tưởng trong cuộc sống và các giá trị của văn bản trong cuộc sống, vận dụng vào các giải pháp và bối cảnh mới. 1.1.4.2. Truyện ngắn hiện đại Theo định nghĩa trong từ điển nước ngoài (Encylopedia Britannica): “Truyện ngắn thuộc nhóm tác phẩm hư cấu và thường được viết bằng văn xuôi dạng trần thuật. Phương thức này có xu hướng đi vào trọng tâm rõ nét hơn các dạng hư cấu khác như tiểu thuyết ngắn (theo khái niệm của thế kỉ XX và XXI), tiểu thuyết hay sách” Từ điển thuật ngữ văn học thì cho rằng: “Khác với tiểu thuyết, là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng đến việc khắc họa một hình tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người” Quả thật, có rất nhiều quan niệm khác nhau về truyện ngắn của các tác giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, về cơ bản, có thể thấy truyện ngắn là một thể tài mà “hình thức nhỏ” nhưng “không có nghĩa là nội dung không lớn lao”. Được sinh ra
  11. từ những câu chuyện kể hàng ngày rất tự nhiên, truyện ngắn hình thành và phát triển vượt bậc với sức mạnh dẻo dai phi thường qua sự sáng tạo của nhiều thế hệ nhà văn. Đến nay truyện ngắn đã khẳng định vị trí của mình trong hệ thống thể loại tự sự của văn học thế giới. 1.2. Cơ sở thực tiễn: 1.2.1. Nội dung dạy học truyện ngắn hiện đại trong chương trình SGK Ngữ văn THPT Trong chương trình Ngữ văn THPT, số lượng văn bản được đưa vào chương trình rất nhiều. Tuy nhiên, nhìn chung, truyện ngắn hiện đại vẫn chiếm một số lượng lớn cả về dung lượng, lẫn số lượng văn bản. Trong chương trình Ngữ văn THPT, truyện ngắn hiện đại được sắp xếp vào Ngữ văn lớp 10, 11 (học kỳ I). Ở chương trình lớp 10, bộ sách Kết nối tri thức truyện ngắn hiện đại được học trong 3 tiết với tác phẩm Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) thuộc bài 2: Sức hấp dẫn của truyện kể ;ở chương trình lớp 11 được học trong 7 tiết, 4 tác phẩm trong đó có 3 bài học chính và 1 bài đọc thêm. Đó là các tác phẩm: Hai đứa trẻ (Thạch Lam), Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân), Chí Phèo (Nam Cao), Tinh thần thể dục (Nguyễn Công Hoan).Ở chương trình lớp 12, truyện ngắn hiện đại học 17 tiết , với các tác phẩm: Vợ chồng A Phủ ( Tô Hoài). Vợ nhặt ( Kim Lân), Rừng xà nu( Nguyễn Trung Thành), Những đứa con trong gia đình ( Nguyễn Thi), Chiếc thuyền ngoài xa ( Nguyễn Minh Châu), Một người Hà Nội (Nguyễn Khải). Về nội dung, những tác phẩm truyện ngắn được đưa vào chương trình là những tác phẩm tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam hiện đại, quen thuộc với bạn đọc Việt Nam qua nhiều thế hệ và phù hợp với trình độ tiếp thu của học sinh. Học sinh được học các tác phẩm truyện ngắn cũng như sự bồi đắp lí tưởng, nhân cách sống cho các em. Những nét đẹp văn hóa, tính nhân văn trong các tác phẩm truyện ngắn hiện đại sẽ tác động và giúp các em hình thành, phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ. 1.2.2. Thực trạng phát triển năng lực đọc hiểu truyện ngắn hiện đại của giáo viên và học sinh 1.2.2.1. Thực trạng dạy truyện ngắn hiện đại của giáo viên * Đối tượng khảo sát: Giáo viên dạy chương trình Ngữ văn lớp 10, 11, trường THPT Yên Thành 2. * Hình thức khảo sát: Phiếu hỏi, phỏng vấn, nghiên cứu bài soạn và tiết giảng của giáo viên. Người giáo viên là người nắm vị trí quan trọng trong việc dạy học môn Ngữ văn nói chung và phân môn đọc văn nói riêng. Với bộ môn có ba phân môn phức tạp như môn Ngữ văn, các giáo viên THPT đánh giá và đầu tư như thế nào với phân môn đọc văn, đặc biệt là chú ý phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh lớp 10,11 trong dạy học truyện ngắn hiện đại. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát qua phiếu điều tra khảo sát.
  12. Qua việc khảo sát cách nhìn nhận và phương pháp của giáo viên về phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh trong dạy học truyện ngắn hiện đại cho học sinh lớp 10,11, tôi nhận thấy các thầy (cô) đều rất quan tâm, chú trọng đến vấn đề này. Tất cả các giáo viên đều có ý thức trong việc soạn giảng, cụ thể là việc ý thức trong việc tham khảo các nguồn tài liệu để soạn bài. 100% các thầy cô sử dụng SGK và sách giáo viên; 57,1% các thầy cô sử dụng cả SGK, Sách giáo viên, Sách tham khảo, Sách báo và mạng Internet. Có thể nhận thấy, việc soạn giáo án của giáo viên đã được chú trọng đầu tư, thầy cô đã ý thức được đó là nền tảng cơ sở góp phần tạo nên chất lượng dạy học hiệu quả. Tín hiệu đáng mừng mà chúng tôi nhận thấy qua thực tế khảo sát, nhiều giáo viên mong muốn làm phong phú, sinh động thêm bài giảng của mình bằng cách tìm tòi sáng tạo trong soạn giảng, tìm kiếm các phương pháp mới nhằm tác động đến sự tiếp nhận của học sinh. Về việc sử dụng các phương pháp dạy học trong giờ dạy: Các hình thức, phương pháp dạy học Kết quả Số lượng Tỉ lệ % Thuyết trình và hỏi đáp 7/7 100% Sử dụng câu hỏi gợi mở, gợi tìm 7/7 100% Chia nhóm, giao nhiệm vụ 3/7 42,9% Dạy học nêu vấn đề 2/7 28,6% Kết hợp các phương pháp khác 1/7 14,3% Có thể thấy, hai phương pháp truyền thống là thuyết trình, hỏi đáp và sử dụng câu hỏi gợi mở, gợi tìm được 100% giáo viên sử dụng. Với các phương pháp mới như cho học sinh hoạt động nhóm hay dạy học nêu vấn đề thì số lượng giáo viên áp dụng còn hạn chế với lần lượt là 42,9% và 28,6%. Về độ phù hợp và khoa học của phần hướng dẫn học bài sau mỗi tác phẩm truyện ngắn trong sách giáo khoa, 3/7 thầy cô cho rằng phần này đã khoa học và phù hợp. Số còn lại đánh giá mức độ khoa học phù hợp của phần hướng dẫn học bài chỉ ở mức tương đối. Cùng với việc khảo sát ý thức soạn giáo án của giáo viên, tôi cũng khảo sát về ý thức của giáo viên trong việc yêu cầu học sinh chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Đa số các giáo viên ở cuối giờ học đều yêu cầu học sinh đọc tác phẩm ở nhà, tóm tắt tác phẩm, trả lời những câu hỏi cuối sách giáo khoa. Tuy nhiên, đây cũng chính là khó khăn mà giáo viên gặp phải khi còn khá nhiều học sinh lười đọc tác phẩm và chuẩn bị bài trước khi đến lớp, gây khó khăn cho chính thầy cô và các em trong quá trình tiếp thu bài học. 1.2.2.2. Thực trạng học truyện ngắn hiện đại của học sinh
  13. Trả lời Câu hỏi Số lượng Tỉ lệ (%) 1. Em thích học tác phẩm thuộc thể loại nào sau đây?  Thơ 14 28,6%  Tiểu thuyết 17 34,7%  Truyện ngắn 28 57,1%  Ký 3 6,1% 2. Em có gặp khó khăn trong việc đọc hiểu các tác phẩm truyện ngắn ở chương trình Ngữ văn 11 không?  Có 17 34,7%  Bình thường 25 51%  Không 7 14,3% 4. Theo em, muốn tìm hiểu một tác phẩm truyện ngắn cần chú ý những đặc trưng nào sau đây? Cốt truyện 10 16,1% Nhân vật 17 27,4% Chi tiết 10 16,1% Tình huống truyện 3 4,8 % Người trần thuật, lời văn nghệ thuật 4 6,4% Tất cả những đặc trưng trên 18 29% 5. Trong giờ học Văn, em có thích tham gia thảo luận nhóm theo yêu cầu của GV không?  Có 18 36,7%  Bình thường 29 59,2%  Không 2 4,1% 6. Theo em, HS cần chuẩn bị những gì trước khi học các tác phẩm truyện ngắn? Đọc tác phẩm trước ở nhà, gạch chân những chi tiết quan trọng 14 28,6% Tóm tắt tác phẩm 17 34,7%
  14. Trả lời câu hỏi trong phần Hướng dẫn học bài 3 6,1% Ghi ra giấy những vấn đề cần trao đổi 28 57,1% Tất cả những công việc trên 7. Em đánh giá như thế nào về việc đọc tác phẩm truyện ngắn sẽ được học trước khi đến lớp? Rất cần thiết 25 51%  Đọc cũng được, không đọc cũng được 0 0% Cần thiết 24 49%  Không cần thiết 0 0% 8. Phần “Hướng dẫn học bài” dưới mỗi tác phẩm truyện ngắn trong SGK Ngữ văn 10,11, tập 1 có giúp em đọc hiểu tác phẩm tốt hơn không?  Có 26 53%  Bình thường 23 47%  Không 0 0% 9. Em có hứng thú với các tác phẩm truyện ngắn trong chương trình Ngữ văn 10,11 không? Có 29 59,2%  Bình thường 17 34,7%  Không 3 6,1% 10. Em đánh giá mức độ hiểu các tác phẩm truyện ngắn hiện đại trong chương trình Ngữ văn 10,11của mình như thế nào? 6 12,2%  Khoảng 30% 18 36,7%  Khoảng 50% 25 51%  Khoảng 70% 0 0%  Khoảng 90% Để biết được cách nhìn và suy nghĩ của học sinh về việc học các tác phẩm truyện ngắn trong chương trình Ngữ văn lớp 10,11 chúng tôi tiến hành khảo sát qua phiếu điều tra.
  15. Theo số liệu thống kê, khảo sát, tôi nhận thấy hầu hết các em học sinh đều yêu thích các tác phẩm truyện ngắn (28%) và hứng thú với các giờ học này (59,2%). Có thể thấy phần lớn học sinh có thái độ tích cực với các giờ đọc hiểu truyện ngắn trên lớp học. Tuy nhiên, ý thức chuẩn bị bài ở nhà của các em vẫn chưa được cao khi chỉ có số ít học sinh thực hiện đầy đủ các thao tác: đọc tác phẩm trước ở nhà, gạch chân các chi tiết quan trọng; tóm tắt tác phẩm; trả lời câu hỏi cuối SGK,... Tự đánh giá mức độ hiểu các tác phẩm truyện ngắn trong chương trình Ngữ văn 10, 11 có 25% học sinh đánh giá mình hiểu 70% bài học, đặc biệt không có học sinh nào cho rằng mình hiểu được đến 90%. TIỂU KẾT Như vậy, qua việc tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài, chúng ta thấy việc phát triển năng lực đọc hiểu các tác phẩm truyện ngắn là vô cùng quan trọng và cần thiết. Nó xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và phát triển năng lực cho người học. Muốn phát triển được năng lực đọc hiểu chúng ta cần hiểu rõ vai trò của năng lực và việc đọc hiểu. Các kĩ năng để đọc cũng như những nét cơ bản về đặc trưng nội dung cũng như hình thức của các tác phẩm truyện ngắn hiện đại. Từ đó ta hiểu rõ vai trò của việc phát triển năng lực đọc hiểu tác phẩm truyện ngắn đối với lứa tuổi học sinh lớp 10, 11 là điều cần thiết và cần được chú trọng và vô cùng cần thiết đối với sự phát triển tâm sinh lí của các em. Kết quả nghiên cứu của chương 1 sẽ làm cơ sở quan trọng để chúng tôi đưa ra định hướng hướng dẫn học sinh “Phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh THPT trong dạy học truyện ngắn hiện đại”. CHƯƠNG 2: ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 10,11 TRONG DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN HIỆN ĐẠI 2.1. Yêu cầu đối với việc phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh lớp 10,11 trong dạy học truyện ngắn hiện đại 2.1.1. Yêu cầu đối với nội dung Nội dung của mỗi bài học cần đảm bảo tính khoa học, phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh lớp 11. Cần giúp học sinh đọc hiểu đúng cách nhằm nắm chắc nội dung và giá trị của các tác phẩm truyện ngắn hiện đại trong chương trình Ngữ Văn hiện hành. 2.1.2. Yêu cầu đối với phương pháp Giáo viên nên áp dụng những phương pháp mới vào việc dạy đọc hiểu truyện ngắn giúp học sinh có hứng thú và coi trọng việc phát triển năng lực đọc hiểu. Đây là một việc tương đối khó và đòi hỏi sự đầu tư thời gian, tâm huyết của giáo viên và cả sự hưởng ứng của học sinh. Trong các tiết học, giáo viên nên đưa các em vào các tình huống có vấn đề để các em suy nghĩ hướng giải quyết. Thông qua đó, học sinh sẽ tự lĩnh hội và phát triển được năng lực đọc hiểu của mình.
  16. 2.1.3. Yêu cầu đối với giáo viên và học sinh: 2.1.3.1. Yêu cầu đối với giáo viên Mọi hoạt động của người giáo viên văn trong các tiết học khác nhau đều có thể giúp học sinh phát triển năng lực đọc hiểu của bản thân mỗi em ở một khía cạnh hay phương diện nào đó. Giáo viên là người tổ chức hoạt động rèn luyện cho học sinh, đóng vai trò vô cùng quan trọng, là người cố vấn cho các em. Giáo viên cần phối hợp các phương pháp dạy học để phát huy tính tích cực, khả năng tư duy của các em học sinh. Các kĩ thuật dạy học mới như: sơ đồ tư duy, khăn trải bàn, hoạt động nhóm có thể áp dụng để giờ học không bị nhàm chán. Hoạt động nhóm là hình thức giáo viên hay sử dụng để áp dụng trong giờ Làm Văn. Trong hoạt động này, giáo viên phải có sự giám sát chặt chẽ, yêu cầu tất cả các bạn trong nhóm phải làm việc. Giáo viên cũng cần chú ý phát huy năng lực của các em qua việc động viên các em phát biểu, nêu ý kiến của mình. 2.1.3.2. Yêu cầu đối với học sinh: Yêu cầu về kiến thức, thái độ Để có thể đọc hiểu các tác phẩm truyện ngắn hiện đại trong sách giáo khoa Ngữ văn 10,11 một cách tốt nhất, các em học sinh cần chuẩn bị các kiến thức cơ bản về truyện ngắn hiện đại như kiến thức về bối cảnh lịch sử của nước ta lúc bấy giờ, hoàn cảnh ra đời tác phẩm, các cây bút truyện ngắn tiêu biểu ( Nguyễn Tuân,Thạch Lam, Nam Cao,…), Học sinh có thái độ yêu quý, trân trọng giá trị các tác phẩm truyện ngắn, những thành tựu của văn học nước nhà. Yêu cầu về kĩ năng Kĩ năng đọc - hiểu trơn tru, lưu loát các câu văn, lời nhân vật (chú trọng đọc các từ có vần khó, từ dễ đọc sai do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương). - Đọc hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại. - Đọc diễn cảm, đọc sáng tạo. - Tìm hiểu nghĩa của từ, câu; nội dung, ý chính của đoạn văn; nội dung của các tác phẩm. - Đọc thuộc một số đoạn hay chi tiết, hình ảnh quan trọng của mỗi truyện ngắn. Kĩ năng đọc hiểu văn bản nghệ thuật (truyện ngắn hiện đại): giải mã được văn bản từ hình thức diễn đạt đến nội dung và giá trị của văn bản. - Từ vỏ ngữ âm của ngôn từ đến nội dung ngôn từ, hiểu được nội dung khái quát của tác phẩm. - Tái tạo được hình tượng nghệ thuật của tác phẩm (tưởng tượng những hình ảnh, cảnh tượng, nhân vật, hoàn cảnh… được miêu tả trong tác phẩm). Ở bước này người
  17. đọc khám phá nội dung của một loạt tín hiệu mới, trong đó có cái biểu đạt là ngôn từ, còn cái được biểu đạt là nghệ thuật ngôn ngữ. - Khám phá được ý nghĩa (chân lí đời sống) của tác giả, tư tưởng, tình cảm, thái độ của tác giả ẩn chứa sau hình tượng nghệ thuật, cái được biểu đạt là ý nghĩa của tác phẩm và tư tưởng, tình cảm, thái độ của tác giả. - Phát hiện các chi tiết đặc sắc thể hiện thi pháp của tác phẩm, tài nghệ và phong cách của tác giả. Từ những biểu hiện cụ thể trong tác phẩm, khái quát được những vấn đề của đời sống hiện thực và đời sống nghệ thuật. 2.2. Định hướng phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh lớp 10,11 trong dạy học truyện ngắn hiện đại 2.2.1. Định hướng phát triển năng lực đọc hiểu cốt truyện Cơ sở sâu xa của cốt truyện là một xung đột đang vận động. Vì vậy, quá trình phát triển của một cốt truyện cũng giống như quá trình vận động của xung đột, bao gồm các bước hình thành, phát triển và kết thúc. Nhìn chung, một cốt truyện thường có các thành phần chính sau: “trình bày, khai đoan (thắt nút), phát triển, đỉnh điểm (cao trào) và kết thúc (mở nút). Có thể thấy truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao là một minh hoạ điển hình cho một cốt truyện có đầy đủ các thành phần trên, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tìm hiểu theo truyện ngắn theo các phần: Phần mở đầu: Nam Cao miêu tả Chí Phèo từ lúc ra đời đến lúc hắn trở thành người làm thuê cho nhà Bá Kiến Phần thắt nút: trong truyện, xung đột giữa Chí Phèo với Bá Kiến bắt đầu từ chỗ Bá Kiến vì ghen tuông nên đã đẩy Chí Phèo vào tù. Phần phát triển: nhà tù và sự độc ác của bọn cường hào đã biến Chí Phèo từ người thành quỷ dữ, và rồi tình yêu của Thị Nở lại làm cho Chí Phèo muốn chuyển biến từ quỷ dữ của làng Vũ Đại thành con người bình thường trong xã hội. Phần đỉnh điểm: Chí Phèo cầm dao đến nhà Bá Kiến đòi làm người lương thiện, xung đột giữa Chí Phèo (nạn nhân) và Bá Kiến, (thủ phạm) đã lên đến tột đỉnh. Phần kết thúc: từ sự căm thù cao độ và trong trạng thái bế tắc hoàn toàn, Chí Phèo đã giết chết Bá Kiến rồi tự sát. Ta có thể thấy, tuy cốt truyện Chí Phèo có đầy đủ 5 phần nhưng chủ yếu được tổ chức trên hai trục tình tiết chính: trục thứ nhất xoay quanh mối quan hệ Chí Phèo - Bá Kiến, gắn liền với sự hủy diệt linh hồn của Chí; trục thứ hai xoay quanh quan hệ Chí Phèo - Thị Nở, gắn liền với sự thức tỉnh linh hồn Chí Phèo. Đối với truyện ngắn Hai đứa trẻ, để học sinh nắm được diễn biến cốt truyện giáo viên phải hướng dẫn học sinh nhận ra, trong truyện ngắn này, Thạch Lam tập trung miêu tả cảm giác, cảm tưởng của nhân vật Liên, làm cho bức tranh phố huyện cũng là bức tranh tâm trạng, như được dệt bằng cảm giác.
  18. Giáo viên có thể đặt ra vấn đề: Hai đứa trẻ là truyện ngắn trữ tình nên sức hấp dẫn của truyện ngắn này được toát ra từ không khí truyện, từ tâm trạng, từ thế giới cảm giác của nhân vật. Đã đọc kĩ văn bản Hai đứa trẻ ở nhà, em hãy cho biết: Bức tranh phố huyện được tác giả miêu tả qua những thời đoạn nào trong ngày? Bức tranh ấy được nhìn và cảm nhận qua đôi mắt, tâm hồn của nhân vật nào? Ánh nhìn và tâm trạng của chủ thể trữ tình qua từng thời đoạn ấy? Truyện là những biến động rất tinh tế trong sâu thẳm tâm hồn một cô gái mới lớn chiều nào cũng lặng lẽ ngồi trông cái cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu trên chiếc chõng tre sắp gãy, từ chiều tà đến đêm khuya, ngắm nhìn phố huyện và đợi chờ con tàu từ Hà Nội đi qua rồi mới đóng cửa hàng đi ngủ. Vào lúc chiều buông, không gian quen thuộc của phố huyện hiện lên với âm thanh buổi chiều, cái chợ tàn, những đứa trẻ con nhà nghèo lúi húi nhặt nhạnh. Khi phố huyện về đêm, bóng tối bao trùm, bầu trời đầy sao, những tia sáng yếu hắt ra từ nơi kiếm sống của những con người nghèo khổ, tội nghiệp đang lầm lũi trong phố huyện. Một phố huyện yên ắng, thưa thớt, buồn tẻ với những con người đang uể oải sống. Tất cả gợi lên trong Liên nhiều cảm xúc, cảm giác khác nhau: Liên buồn, thương cho những con người nơi phố huyện - nghèo túng mà không biết làm sao thoát khỏi, chỉ biết khắc khoải đợi chờ một điều gì đó làm thay đổi cuộc sống của họ. Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi - cái phố huyện thân quen với mùi đất cát, con đường, ngõ xóm, bầu trời thanh bình, thân thương là thế mà sao vắng vẻ, xác xơ, con người gần gũi, tình người ấm áp là thế mà sao đói nghèo. Tuy vậy, khung cảnh ấy của phố huyện không phải chỉ gợi lên trong Liên cảm giác chán chường mà còn chấp cánh cho ước mơ đổi thay mơ hồ trong Liên - mơ ước một cuộc sống mới, cuộc sống như Liên đã từng sống nơi Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam được xem là truyện “không có truyện”, hoặc truyện có cốt truyện mờ nhạt, không rõ. Truyện chỉ là “một mẫu sinh hoạt và kéo dài của hai chị em đứa trẻ” (Nguyễn Tuân). 2.2.2. Định hướng phát triển năng lực đọc hiểu tình huống truyện Trong bài viết Truyện ngắn hôm nay (đăng trên báo Văn nghệ, số 48, ngày 30/11/1991), Nguyễn Đăng Mạnh viết: “Quan trọng nhất của truyện ngắn là tạo ra một tình huống nào đấy, từ tình huống ấy bật nổi một bản chất tính cách nhân vật hoặc bộc lộ một tâm trạng”. Nhà văn Nguyễn Kiên cũng cho rằng: “Điều quan trọng đối với truyện ngắn là phải lựa chọn được tình thế” (Bùi Việt Thắng, Bình luận truyện ngắn, NXB VH, H. 1999, tr.43). Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng quan niệm truyện ngắn phải “tạo ra các tình huống để nhân vật bộc lộ tính cách” (Bùi Việt Thắng, Bình luận truyện ngắn, NXB VH, H. 1999, tr.42). Như vậy, từ người nghiên cứu đến người sáng tác đều thừa nhận vai trò quan trọng của tình huống đối với sự thành công của một truyện ngắn. Tuy nhiên, việc khai thác, tìm hiểu, khám phá truyện ngắn từ góc độ tình huống truyện chưa được sự quan tâm đúng mức của người dạy và người học nên việc cảm thụ tác phẩm truyện ngắn của người học chưa được sâu
  19. sắc. Theo chúng tôi, ngoài việc tiếp cận tác phẩm truyện ngắn qua phân tích nhân vật, cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ..., chúng ta còn có thể tiếp cận từ tình huống của truyện để làm nổi bật được giá trị của tác phẩm. Một số tác phẩm truyện ngắn nên tiếp cận từ hướng này: Vợ nhặt (Kim Lân), Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), Những đứa con trong gia đình(Nguyễn Thi),Đôi mắt (Nam Cao), Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân), Tinh thần thể dục (Nguyễn Công Hoan), Hai đứa trẻ (Thạch Lam)... Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Hiện nay, còn nhiều cách phân loại tình huống khác nhau: Cơ bản có 3 cách phân loại như sau: Cách thứ nhất: Chia tình huống thành các kiểu: Tình huống kịch; Tình huống tâm trạng; Tình huống tượng trưng. Cách thứ hai: Chia tình huống thành các kiểu: Tình huống thắt nút; Tình huống tương phản; Tình huống luận đề. Cách thứ ba: Chia tình huống thành các kiểu: Tình huống hành động; Tình huống tâm trạng; Tình huống nhận thức. Trong ba cách phân loại trên, thì cách phân loại thứ 3 có lẽ dễ tiếp nhận, phù hợp với giáo viên và học sinh THPT. Theo cách phân loại này, thì ba loại tình huống nêu trên tạm thời được TS Chu Văn Sơn phân biệt như sau: Tình huống hành động: Là loại sự kiện đặc biệt mà trong đó nhân vật bị đẩy tới một tình thế (thường là éo le) chỉ có thể giải quyết bằng hành động. Tình huống này thường hướng tới một kiểu nhân vật: Nhân vật hành động. Tức là loại nhân vật chủ yếu được hiện lên bằng hệ thống hành vi, hành động của nó, các bình diện khác ít được quan tâm. Do đó, nó quyết định đến diện mạo của toàn truyện: truyện ngắn giàu kịch tính. Tình huống tâm trạng: Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà ở đó nhân vật rơi vào một tình thế làm nảy sinh một biến động nào đó trong thế giới tình cảm. Tình huống này thường dẫn tới một kiểu nhân vật là: con người tình cảm. Nghĩa là kiểu nhân vật được hiện lên chủ yếu bằng thế giới nội cảm của nó, nhà văn tạo dựng nên hình tượng nhân vật chủ yếu bằng một hệ thống chất liệu là cảm giác, cảm xúc với các phức hợp khác nhau của chúng. Còn các khía cạnh khác (như ngoại hình, hành động, lí tính...) ít được quan tâm. Và vì thế, nó quyết định đến diện mạo của toàn truyện: truyện ngắn trữ tình. Tình huống nhận thức: Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà tại đó nhân vật được đẩy tới một tình thế bất thường: đối mặt với một bài học nhận thức, bật lên một vấn đề (về nhân sinh, về nghệ thuật) cần phải vỡ lẽ, giác ngộ. Kiểu nhân vật của dạng tình huống này đương nhiên là: nhân vật tư tưởng. Nghĩa là kiểu nhân vật được khai thác chủ yếu ở đời sống nhận thức lí tính của nó. Chất liệu cơ bản để dệt nên nhân vật là hệ thống những quan sát, phân tích, suy lí, đúc kết, chiêm nghiệm,... Mà trường hợp đậm đặc nhất là mỗi nhân vật giống như một tư tưởng được nhân vật hoá vậy. Diện mạo của loại truyện ngắn này cũng đương nhiên là nghiêng về triết luận. Sự phân loại như trên là tương đối. Trong thực tế, các dạng ấy đều ít nhiều có tính pha tạp chứ không hoàn
  20. toàn"thuần chủng" như mô tả. Viêc nhận diện chỉ dựa vào sự nổi trội của yếu tố nào đó. Quy trình tiếp cận tình huống gồm các bước sau: Xác định tình huống truyện : Đặt câu hỏi: Sự kiện nào bao trùm và chi phối toàn bộ thiên truyện này? Hay sự kiện bao trùm nào đã giúp tác giả dựng lên toàn bộ truyện ngắn này?... Tổng hợp các tình tiết: Lướt qua những tình tiết chính và xác định một trong các tình tiết ấy đóng vai trò bao trùm, chi phối quán xuyến toàn truyện, hay chúng chỉ là những thành tố nối kết với nhau để làm thành một sự kiện lớn hơn, sự kiện ấy mới trùm lên tất cả? -Tìm tên gọi để định danh. Đây là khâu khá then chốt, chưa tìm được tên thích hợp thì xem như tình huống vẫn còn nằm ngoài tầm tay của ta vậy. Phân tích tình huống: Cần phân tích trên các bình diện cơ bản sau: Diện mạo của tình huống (bình diện không gian) : diễn biến của tình huống (bình diện thời gian) , mối liên kết của tình huống với các khâu khác của tác phẩm (chi phối đến tổ chức hình thức của văn bản nghệ thuật truyện ngắn). Rút ra ý nghĩa tư tưởng của tình huống: Thông điệp thẩm mĩ mà tình huống chứa đựng ;toát lên quan niệm gì về nhân sinh, thẩm mĩ ? chứa đựng cảm xúc chủ đạo gì ? 2.2.3. Định hướng phát triển năng lực đọc hiểu nhân vật Văn học không thể thiếu nhân vật, bởi vì đó là hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Trong tác phẩm văn học, nhân vật là phương tiện khái quát những quy luật của cuộc sống, khái quát các tính cách, số phận con người và thể hiện những hiểu biết, ước mong, kì vọng về con người. Nói đến nhân vật là nói đến chi tiết. Nhà văn dùng chi tiết để miêu tả ngoại hình, hành động, tâm trạng, ngôn ngữ, số phận,…của nhân vật cũng như miêu tả ngoại cảnh, môi trường, sự vật xung quanh nhân vật. Đồng thời, nhân vật cũng được thể hiện qua mâu thuẫn, xung đột, sự kiện và mối quan hệ với các nhân vật khác. Nhân vật luôn luôn gắn bó chặt chẽ với cốt truyện và là một chỉnh thể vận động, tính cách được bộc lộ dần trong không gian, theo thời gian như một quá trình phát triển. Nhân vật là điều kiện thiết yếu đảm bảo cho sự miêu tả thế giới của văn học có được chiều sâu và tính hình tượng. Nhờ có nhân vật với những lời nói, hành động, tương tác mà cốt truyện được hình thành. Nó được xem như là chìa khóa để nhà văn bước vào thế giới hiện thực, tiếp cận những đề tài, chủ đề mới mẻ, miêu tả và khái quát các loại tính cách xã hội. Và do đó, nhân vật văn học còn có khả năng giúp nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật về thế giới, về con người. Vì vậy việc tìm hiểu nhân vật không phải là liệt kê hàng loạt những chi tiết về nhân vật đó. Điều quan trọng là phân tích được, chỉ ra được dụng ý của tác giả, quan niệm tư tưởng của tác giả về cuộc sống, con người. Nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một nhân vật lí tưởng, có vẻ đẹp phi phàm, vừa là một hào kiệt, vừa là một nghệ sĩ. Ở truyện ngắn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0