intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp dạy học phần Nói và nghe trong chương trình Ngữ văn 10 theo định hướng phát triển năng lực (Qua phần Nói và nghe: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ / truyện, Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề - Ngữ văn 10 Tập 1 – Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:47

60
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm giúp học sinh có thể diễn đạt đúng và hay ngôn ngữ tiếng Việt. Yêu cầu bao gồm phát âm đúng (hoặc cơ bản không sai, hay ít nhất không làm người nghe hiểu sai), không nói đớt, nói ngọng; đọc/nói rõ ràng, chính xác điều muốn nói hoặc điều văn bản biểu đạt; nói/đọc gãy gọn, không nuốt chữ hoặc ngắt từ không đúng; nói/đọc theo đúng dấu câu và theo đúng tính chất, nội dung muốn diễn đạt; đọc/nói có tính biểu cảm, có ngữ điệu phù hợp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp dạy học phần Nói và nghe trong chương trình Ngữ văn 10 theo định hướng phát triển năng lực (Qua phần Nói và nghe: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ / truyện, Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề - Ngữ văn 10 Tập 1 – Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống)

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT CHUYÊN PHAN BỘI CHÂU SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Một số giải pháp dạy học phần Nói và nghe trong chương trình Ngữ văn 10 theo định hướng phát triển năng lực (Qua phần Nói và nghe: "Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ / truyện’’,"Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề’’- Ngữ văn 10 Tập 1 – Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống) Họ và tên GV : Ngô Thị Thu Hiền Hoàng Thị Hiền Lương Tạ Quỳnh Trang Giáo viên bộ môn : Ngữ văn Số điện thoại : 0912742302 Năm học : 2022 - 2023
  2. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Chương trình Ngữ văn 2018 lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói, nghe) làm trục chính xuyên suốt để tổ chức nội dung dạy học nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực và phẩm chất của người học. Bấy lâu nay việc dạy học văn ở nhà trường phổ thông đang bất cân xứng về bốn kỹ năng này cho học sinh (HS). HS chủ yếu được rèn luyện nhiều ở mặt đọc và viết, còn kỹ năng nói rất hạn chế, đặc biệt là kỹ năng nghe thì dường như bị bỏ quên. Các kỹ năng về “nghe” và “nói” của HS còn nhiều khiếm khuyết. HS chưa có năng lực biết lắng nghe để nhận thức, thấu hiểu mà ứng xử cho phù hợp. HS chưa quen với lắng nghe để cảm nhận theo cách nghệ thuật, ví dụ như âm điệu của một bài thơ, tiết tấu của một bản nhạc. Bên cạnh đó, HS yếu về kỹ năng nói, thuyết trình và tranh luận. Cho nên, nhiều em trong lớp học ở trường thì thụ động, rụt rè; ra ngoài xã hội thì khép nép thu mình vì sợ nói, sợ sai. Việc học văn bị cho thiếu thực tiễn là vì thế. Điều đáng nói là, trong chương trình THPT môn văn hiện hành có nhiều bài học hữu ích và thực tế nhằm phát huy kỹ năng nói cho HS, như bài phát biểu theo chủ đề, bài tự do phát biểu… Song do quá chú trọng về thi cử, điểm số và với tâm lí “thi gì thì dạy học nấy”, nên các bài học này bị xem thứ yếu, giáo viên và HS chỉ lướt qua theo kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”. Rõ ràng là việc dạy học văn hiện nay còn “nợ” nhiều câu hỏi: Làm sao để phát huy toàn diện 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho HS? Làm sao để kéo việc học văn về với ứng dụng thực tế? Điểm khác biệt lớn nhất của Chương trình GDPT 2018 so với Chương trình GDPT 2016 là sự chuyển hướng hoàn toàn từ chương trình coi trọng truyền đạt kiến thức sang chương trình chú trọng phát triển phẩm chất và năng lực, lấy các kĩ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết làm trục chính. Trong đó, Chương trình GDPT 2018 đã quy định rõ thời lượng dành cho hoạt động nói và nghe là 10% số tiết của năm học. Lộ trình dạy học kĩ năng nói và nghe trong chương trình có sự nhất quán, liên tục cả ba cấp học. Ở cấp THPT, Chương trình định hướng người dạy tiếp tục phát triển các năng lực đã hình thành ở cấp trung học cơ sở với các yêu cầu cần đạt cao hơn: Nói và nghe linh hoạt; có khả năng nghe và đánh giá được nội dung cũng như hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có chủ kiến, cá tính, có thái độ tranh luận phù hợp… Chương trình GDPT 2018 quy định cụ thể về các kĩ năng cần đạt trong học tập nói và nghe ở cấp phổ thông như sau: Kĩ năng nói yêu cầu về âm lượng, tốc độ, sự liên tục, cách diễn đạt, trình bày, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ, phương tiện hỗ trợ khi nói,...; Kĩ năng nghe yêu cầu về cách nghe, cách ghi chép, hỏi đáp, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ khi nghe, nghe qua các phương tiện kĩ thuật,…; Kĩ năng nói và nghe tương tác gồm các yêu cầu về thái độ, sự tôn trọng nguyên tắc hội thoại và các quy định trong thảo luận, phỏng vấn,…
  3. Với mong muốn nâng cao hiệu quả của dạy học phần Nói và nghe – nội dung còn rất nhiều mới mẻ so với dạy học truyền thống trước đây, chúng tôi đã tìm hiểu và nhận thấy cần có những giải pháp trong việc vận dụng cách thức, quy trình tổ chức thuyết trình, thảo luận, tranh biện kết hợp với các phương pháp, kĩ thuật dạy học hiệu quả, hợp lí để thực hành kĩ năng Nói và nghe về các vấn đề trong văn học và cuộc sống, từ đó đạt được mục tiêu phát triển năng lực giao tiếp và bồi dưỡng phẩm chất, nhân cách cho học sinh. 2. Mục đích nghiên cứu Dạy học Nói và nghe hiệu quả giúp học sinh nâng cao kĩ năng nói, nghe, rèn luyện khả năng tư duy và sử dụng linh hoạt ngôn ngữ; diễn đạt, trình bày quan điểm bằng ngôn ngữ nói một cách mạch lạc, tự tin; có khả năng hiểu đúng và tôn trọng người nói, người nghe; có thái độ văn minh trong trao đổi, thảo luận…từ đó góp phần gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nâng cao năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, tinh thần trách nhiệm và khả năng cộng tác làm việc của người học trong học tập và cuộc sống. Cụ thể các mục đích của sáng kiến kinh nghiệm hướng tới như sau: Thứ nhất, giúp học sinh có thể diễn đạt đúng và hay ngôn ngữ tiếng Việt. Yêu cầu bao gồm phát âm đúng (hoặc cơ bản không sai, hay ít nhất không làm người nghe hiểu sai), không nói đớt, nói ngọng; đọc/nói rõ ràng, chính xác điều muốn nói hoặc điều văn bản biểu đạt; nói/đọc gãy gọn, không nuốt chữ hoặc ngắt từ không đúng; nói/đọc theo đúng dấu câu và theo đúng tính chất, nội dung muốn diễn đạt; đọc/nói có tính biểu cảm, có ngữ điệu phù hợp… Thứ hai, giúp học sinh giao tiếp tốt bằng lời nói. Tức là học sinh có thể giao tiếp với từng đối tượng bằng những lời lẽ phù hợp (như giao tiếp với người lớn tuổi phải khác với bạn cùng lứa về các từ chọn dùng, về cách đặt câu…); bảo đảm người nghe hiểu đúng điều em muốn nói (như không nói tắt, nói không đầu không đuôi…); bằng một thái độ và hình thức phù hợp (thái độ thể hiện, ngữ âm biểu đạt với từng đối tượng cần khác nhau)… Thứ ba, giúp học sinh tự tin, mạnh dạn trình bày điều mình muốn nói. Điều này thể hiện ở 3 cấp độ: học sinh đủ tự tin và mạnh dạn để nói, để phát biểu chứ không rụt rè, nhút nhát, bởi đã được làm quen, được rèn luyện với việc phát biểu; học sinh đủ vốn từ và đủ kiến thức để nói về một vấn đề nào đó mà không phải ấp a ấp úng do năng lực tư duy và năng lực biểu đạt được rèn luyện thường xuyên; học sinh biết cách thể hiện ý tứ của mình bằng những ngôn ngữ và cách thức phù hợp, không dùng sai từ, không dùng sai phương pháp… Có được điều này, khi trưởng thành, học sinh có thêm nhiều cơ hội thể hiện mình, thuận lợi hơn trong việc thuyết phục và tạo ấn tượng với người khác, đồng nghĩa với khả năng thành công sẽ lớn hơn.
  4. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Khách thể nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm chính là học sinh THPT, những em đang được dạy thực nghiệm chương trình THPT mới. Cụ thể, chúng tôi hướng tới đối tượng lớp 10 và bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng cụ thể mà sáng kiến kinh nghiệm chúng tôi hướng tới là học sinh lớp 10 trường THPT chuyên Phan Bội Châu. Đây là những lớp học do chúng tôi thực dạy, nên những vấn đề nảy sinh trong quá trình dạy học được cập nhật và điều chỉnh kịp thời, linh hoạt, hiệu quả. Đề tài đã được dạy thực nghiệm tại 5 lớp gồm có: 10C5, 10C6, 10C7, 10A4, 10A5 và bước đầu đã có những kết quả khả thi, đáng ghi nhận. 4. Giả thuyết khoa học Nếu đề xuất và thực hiện đồng bộ các giải pháp có cơ sở khoa học, có tính khả thi của SKKN này, chúng tôi nghĩ có thể thay đổi cách thức dạy học truyền thống, thay vì truyền thụ kiến thức một chiều, giáo viên hoàn toàn có thể chuyển giao các hoạt động cho học sinh, để học sinh tự chiếm lĩnh tri thức và hoàn thiện các kĩ năng của bản thân; đặc biệt là kĩ năng nói và nghe. 5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu (Tập trung vào 03 nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu lý luận; khảo sát, đánh giá thực trạng; đề xuất các giải pháp) - Nghiên cứu lý luận hướng về việc nhận thức đúng đắn vai trò, ý nghĩa của hoạt động nói và nghe trong dạy học hiện đại. - Nghiên cứu thực tế của chúng tôi tập trung vào việc khảo sát, đánh giá thực trạng của học sinh khi chưa thực hiện sáng kiến kinh nghiệm, và sau khi ứng dụng sáng kiến vào các giờ học. Cụ thể chúng tôi tiến hành khảo sát 5 lớp 10 của cả 2 ban C và A để có số liệu khách quan, toàn diện nhất có thể. - Sáng kiến kinh nghiệm cũng đề xuất các giải pháp phù hợp để phát huy hiệu quả của việc rèn luyện kĩ năng nói và nghe cho học sinh thông qua 3 bài học của chương trình Ngữ văn 10, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống. 5.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Các giải pháp dạy học Nói và nghe có thể dùng cho nội dung rèn luyện nói- nghe với các chủ đề tự do, cho hoạt động nói - nghe theo đề tài, chủ đề bắt buộc trong chương trình. Trong Sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi có những giải pháp vận dụng cách thức, quy trình, kết hợp các phương pháp, kĩ thuật dạy
  5. học để thực hành một số nội dung Nói và nghe, cụ thể là qua hoạt động dạy học: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm truyện (Bài 1: Sức hấp dẫn của truyện kể); Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ ( Bài 2: Vẻ đẹp của thơ ca); Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề (Bài 4: Sức sống của sử thi) thuộc SGK Ngữ văn tập 1 – Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống. - Về thời gian: Thời gian thực hiện đề tài kéo dài trong suốt học kì 1 của năm học 2022- 2023, gắn với thời lượng của 3 bài học cụ thể được nêu trên. 6. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp thực nghiệm; phương pháp thu thập số liệu; điều tra thống kê. - Thông qua kinh nghiệm, thực tiễn dạy học của giáo viên và học sinh ở các tiết dạy học thực hành Nói và nghe trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10. 7. Những luận điểm cần bảo vệ của đề tài. Đây là một đề tài có tính khả thi cao, đã được dạy thực nghiệm trên chính học sinh khối 10 của trường THPT chuyên Phan Bội Châu. Chúng tôi muốn nhấn mạnh một số luận điểm trọng tâm mà đề tài hướng tới: - Thứ nhất là cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài. Tổ chức dạy học Nói và nghe tuân thủ định hướng đổi mới phương pháp dạy học của Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn năm 2018: phát huy tính tích cực của người học; dạy học tích hợp và phân hóa; đa dạng hóa các hình thức tổ chức, phương pháp và phương tiện dạy học…tạo cơ hội để học sinh hình thành, phát triển năng lực và phẩm chất thông qua các hoạt động trải nghiệm thực tiễn; chủ động, tự tin trong giao tiếp và kết nối với văn học, với con người và thế giới xung quanh. Phần Nói và nghe là một nội dung dạy học mới được đưa vào chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn năm 2018, nhằm nâng cao năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học của học sinh, bên cạnh nội dung Đọc và viết đã quen thuộc hơn. Tuy nhiên, theo phân phối chương trình Ngữ văn và cấu trúc bài học chủ đề, phần Nói - nghe chiếm dung lượng thời gian khá ít (1 tiết/ 1 bài Nói và nghe). Đây là một thử thách đòi hỏi phải có những giải pháp phù hợp để có thể tổ chức dạy học hiệu quả, giúp học sinh được thực hành nói và nghe đạt được yêu cầu và mục tiêu của bài học. - Thứ 2 là đề xuất một số giải pháp dạy học Nói và nghe trong chương trình Ngữ văn 10. Sáng kiến được chúng tôi tiến hành tại trường THPT Phan Bội Châu và được hiện thực hóa trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn. Chúng tôi đã thực
  6. hiện một số giải pháp trong lựa chọn và sử dụng các hình thức tổ chức, cách thức, phương pháp và phương tiện dạy học Nói và nghe gắn với từng kiểu bài khá hiệu quả. + Giải pháp chung: Dạy học Nói và nghe theo nguyên tác giao tiếp và kết nối; Dạy học Nói và nghe theo quy trình tổ chức linh hoạt, phù hợp; Dạy học Nói và nghe gắn với đặc trưng kiểu bài; Vận dụng các hình thức tổ chức, phương pháp, phương tiện dạy học . + Giải pháp cụ thể cho hoạt động Nói và hoạt động Nghe - Thứ 3, chúng tôi cung cấp 3 bài soạn minh họa Nói và nghe đã được thực hiện tại các lớp 10 của trường THPT chuyên Phan Bội Châu. + Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm truyện (Bài 1: Sức hấp dẫn của truyện kể); + Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ ( Bài 2: Vẻ đẹp của thơ ca); + Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề (Bài 4: Sức sống của sử thi) - Thứ 4, chúng tôi đưa ra một số kết luận và kiến nghị cụ thể : + Với những nội dung đã trình bày, sáng kiến « Một số giải pháp dạy học Nói và nghe trong chương trình Ngữ văn 10 theo định hướng phát triển năng lực” vừa có ý nghĩa định hướng và đưa ra giải pháp cho hoạt động tổ chức dạy học của giáo viên, vừa hình thành các năng lực chung và riêng cho học sinh, từ đó định hướng thái độ sống tích cực, ý nghĩa… + Để những hoạt động dạy học và thực hành, trải nghiệm và sáng tạo đạt được hiệu quả thiết thực cần có sự cố gắng, lòng nhiệt tình, tâm huyết, sự sáng tạo của giáo viên. Dạy học Nói và nghe không chỉ là kĩ năng nghe, nói mà còn là cơ hội để rèn giũa phẩm chất, thái độ, tình cảm, lối sống có văn hóa cho học sinh. Đồng thời, dạy học Nói và nghe cùng với Đọc và viết cũng phải hướng tới hình thành cho học sinh cách học, tự học, thực hành, vận dụng và luyện tập ở nhiều kiểu loại văn bản, nhiều vấn đề, nhiều tình huống trong văn học, nghệ thuật và xã hội, để sau khi rời nhà trường, các em có khả năng thực hiện và giải quyết các vấn đề của cuộc sống. 8. Đóng góp mới của đề tài. - Đề tài được áp dụng ngay trong chính chương trình Ngữ văn 10 của bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống vừa được ban hành, nên tính thời sự, mới mẻ trong phương pháp, nội dung tiếp cận là điều chúng tôi hướng tới. Trên cơ sở các điều tra thực nghiệm tại trường học thực dạy, chúng tôi nhận thấy thực tế kỹ năng nói và nghe của học sinh THPT còn nhiều hạn chế. SKKN của chúng tôi muốn thông qua các bài học trong chương trình, rèn luyện, nâng cao kỹ năng nói
  7. và nghe cho học sinh, nhằm mục đích giúp các em tự tin, chủ động, toàn diện hơn để thích ứng với yêu cầu của nền giáo dục mới. - Đề tài đưa ra các giải pháp thiết thực để phát huy hiệu quả của các bài học trong chương trình, giúp giáo viên dễ dàng triển khai các hoạt động dạy học. Đặc biệt, chúng tôi đề xuất một số kế hoạch dạy học cụ thể đã được thực hiện tại các lớp 10 và đạt kết quả tốt để giáo viên tham khảo. - Đề tài cũng đưa ra một số kiến nghị để giáo viên có thể hiện thực hóa chương trình giáo dục toàn diện, phát huy năng lực cho học sinh, đặc biệt trong việc rèn luyện kĩ năng nói và nghe. - Kết quả, chuyển biến của đối tượng: Sau khi áp dụng các giải pháp của sáng kiến kinh nghiệm, chúng tôi nhận thấy học sinh có những chuyển biến tích cực : Học sinh trở nên tự tin khi trình bày các ý kiến, đề tài trước tập thể, đi cùng với đó là sự cởi mở, thân thiện, hoạt bát, năng động ... ; không khí lớp học bởi vậy cũng trở nên sôi nổi, hào hứng hơn ; các tiết học nói và nghe do được rèn luyện kĩ nên khi trình bày các em có được sự trọn vẹn, không còn ngại ngùng, ấp úng, nội dung và kĩ năng đều có sự hoàn chỉnh hơn...Đặc biệt, thông qua tiết luyện nói và nghe, giáo viên giáo dục cho học sinh cách sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong sáng, hiệu quả, để phát huy tinh thần tự hào về Tiếng Việt cho các em...
  8. PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chương 1. Cơ sở lý luận Tổ chức dạy học Nói và nghe tuân thủ định hướng đổi mới phương pháp dạy học của Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn năm 2018: phát huy tính tích cực của người học; dạy học tích hợp và phân hóa; đa dạng hóa các hình thức tổ chức, phương pháp và phương tiện dạy học…tạo cơ hội để học sinh hình thành, phát triển năng lực và phẩm chất thông qua các hoạt động trải nghiệm thực tiễn; chủ động, tự tin trong giao tiếp và kết nối với văn học, với con người và thế giới xung quanh. 1.1. Kỹ năng nói Kĩ năng nói (KNN) được đánh giá là phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển năng lực (NL) giao tiếp bằng một ngôn ngữ của mỗi người. Cùng với kĩ năng (KN) nghe, KNN được xác định là một trong những KN cơ bản của thế kỉ XXI. Erik Palmer đã thống kê cách chúng ta sử dụng thời gian giao tiếp: Viết: 9%, Đọc: 16%, Nói: 30%, Nghe: 45%. Như vậy, chúng ta sử dụng 3/4 thời gian giao tiếp cho việc nghe và nói. Việc thiếu hụt KNN trong các hoạt động giao tiếp sẽ là một cản trở rất lớn đối với mỗi người trong xã hội. Nói là khả năng diễn đạt lời nói dưới dạng âm thanh, thể hiện ở việc người nói dùng khẩu ngữ để truyền đạt thông tin, biểu đạt tư tưởng, tình cảm một cách chính xác, sinh động, có sức thuyết phục. Làm chủ được KNN sẽ giúp người nói tạo ra mối quan hệ tốt đẹp trong giao tiếp, tự khẳng định mình và là công cụ tạo ảnh hưởng với người khác. Thực tế đã chứng minh những người giao tiếp bằng lời nói hiệu quả sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn trong trường học và trong các lĩnh vực khác của cuộc sống. Các yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng nói: - Yếu tố con người bao gồm các vấn đề về nhân khẩu học, phát âm, nhịp điệu, tốc độ nói, kinh nghiệm nói, sự chuẩn bị và tâm lí khi nói. Để rèn luyện tốt KNN, HS cần nhận thức rằng không nên chỉ cố gắng học thuộc lòng toàn bộ nội dung bài viết mà hãy biết điều khiển giọng nói của mình: cần thể hiện đúng ngữ điệu thể hiện mục đích nói của câu, ý thức được việc nhấn giọng trong cùng một câu nói nhưng ở những vị trí khác nhau sẽ tạo ra nhiều sắc thái ý nghĩa khác nhau... Do đó, trong rèn luyện KNN, GV cần hướng dẫn HS cách tự đúc rút kinh nghiệm sau mỗi lần thực hiện việc nói tự do hoặc nói theo chủ đề. - Nội dung nói là một nhân tố thiết yếu. Để có tính hấp dẫn, thu hút người nghe, đề tài nói cần đảm bảo tính thiết thực, đặc sắc, mới lạ và độc đáo. Bố cục và trình bày nội dung nói cần được sắp xếp theo một tổ chức nhất định, rõ ràng, logic, hợp lí, có tính thuyết phục cao nhằm dẫn dắt người nghe theo dõi diễn tiến của bài phát biểu, từ đó hiểu được thông điệp truyền đạt. Khi nói, người nói cần đảm bảo tính nhất quán về nội dung được nhắc đến, cụ thể là cần có sự tương đồng giữa các nội dung cơ sở lí thuyết, thực trạng, phân tích, đánh giá...
  9. - Các yếu tố bên ngoài như người nghe, không gian, thời gian nói, các phương tiện công nghệ hỗ trợ... có những ảnh hưởng quan trọng đến việc rèn luyện KNN. Trong đó, người nghe là tác nhân có ảnh hưởng lớn nhất. Thái độ, sự hợp tác và ủng hộ của người nghe sẽ khiến cho người nói thoải mái hơn và bộc lộ hết khả năng và truyền tải được trọn vẹn, sinh động nội dung cần nói. Sử dụng công nghệ thông tin vào việc minh họa, hỗ trợ cho phần trình bày bằng lời cũng ảnh hưởng rõ rệt đến hiệu quả và chất lượng nói. Việc sử dụng các công cụ trình chiếu, các hình ảnh minh họa cho bài phát biểu sẽ giúp người nghe hiểu rõ hơn về nội dung đang được nói đến và người nói sẽ dễ dàng tương tác với người nghe. 1.2. Kỹ năng nghe Điểm khác biệt lớn nhất của Chương trình GDPT 2018 so với Chương trình GDPT 2006 là sự chuyển hướng hoàn toàn từ chương trình coi trọng truyền đạt kiến thức sang chương trình chú trọng phát triển phẩm chất và năng lực, lấy các kĩ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết làm trục chính. Trong đó, Chương trình GDPT 2018 đã quy định rõ thời lượng dành cho hoạt động nói và nghe là 10% số tiết của năm học. Lộ trình dạy học kĩ năng nói và nghe trong chương trình có sự nhất quán, liên tục cả ba cấp học. Ở cấp THPT, Chương trình định hướng người dạy tiếp tục phát triển các năng lực đã hình thành ở cấp trung học cơ sở với các yêu cầu cần đạt cao hơn: Nói và nghe linh hoạt; có khả năng nghe và đánh giá được nội dung cũng như hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có chủ kiến, cá tính, có thái độ tranh luận phù hợp… Kĩ năng nghe yêu cầu về cách nghe, cách ghi chép, hỏi đáp, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ khi nghe, nghe qua các phương tiện kĩ thuật,…; Kĩ năng nói và nghe tương tác gồm các yêu cầu về thái độ, sự tôn trọng nguyên tắc hội thoại và các quy định trong thảo luận, phỏng vấn,… Như vậy, nghe và lắng nghe là kỹ năng tiếp nhận và diễn giải chính xác các thông điệp trong quá trình giao tiếp thông qua lời nói và cả ngôn ngữ cơ thể của đối phương. Ông bà ta từng nói : “người nói có người nghe”. Bởi vậy, cùng với kỹ năng nói, lắng nghe là chìa khóa vàng của một cuộc đối thoại hiệu quả. Nếu không có khả năng này, các thông điệp giao tiếp sẽ không được truyền tải rõ ràng giữa người với người. Từ đó, quá trình đối thoại cũng dễ bị gián đoạn, khó tránh khỏi những hiểu lầm, thậm chí gây xích mích và ảnh hưởng tới mối quan hệ của người nói và người nghe. Việc lắng nghe trong học văn sẽ giúp học sinh tiếp thu ý kiến của thầy cô, các bạn, từ đó học hỏi và đưa ra những ý kiến cá nhân phù hợp trên cơ sở tôn trọng, hợp tác, chia sẻ... để đạt hiệu quả tối ưu cho bài học. Khi lắng nghe một cách đồng cảm, bạn đang thể hiện sự quan tâm đến người đối diện. Bạn đang mong muốn hiểu rõ hơn tình huống, cảm xúc mà họ đang thảo luận. Bạn đặt mình vào vị trí của người nói để hiểu rõ hơn về những gì họ nói. Mục tiêu của kỹ năng nghe trong giao tiếp là tập trung tất cả vào
  10. người nói chứ không phải vào bản thân mình. Do đó, bạn sẽ dễ dàng đồng cảm và thấu hiểu quan điểm của họ. Kỹ năng nghe còn giúp bạn đánh giá, phân tích tất cả thông tin và đưa ra quyết định. Lắng nghe để đánh giá cũng đồng nghĩa với việc bạn phải suy nghĩ cẩn thận hơn để đưa ra những nhận xét chuẩn xác dựa trên những gì mắt thấy, tai nghe và thấu hiểu. Một người có kỹ năng lắng nghe giỏi sẽ là người có tư tưởng thoáng với những suy nghĩ khách quan. Luôn tôn trọng người nói và đồng cảm với quan điểm của họ. Suy cho cùng, không phải tất cả điều gì chúng ta nghĩ nó đúng là sẽ luôn đúng. Tiếp thu và cởi mở với tư tưởng mới, hạn chế cái tôi, học cách nhìn nhận vấn đề từ nhiều hướng sẽ giúp bạn trở nên sâu sắc và giao tiếp hiệu quả hơn. Qua hoạt động nghe của các bài học văn, HS biết xác định mục đích giao tiếp, lựa chọn nội dung, kiểu văn bản và thể loại, ngôn ngữ và các phương tiện phi ngôn ngữ khác nhau để thảo luận; biết đối thoại phù hợp dựa trên ngữ cảnh; chủ động, tự tin và biết kiểm soát cảm xúc, thái độ trong giao tiếp. HS biết đồng cảm với suy nghĩ của người khác; biết sống hoà hợp và hoá giải các mâu thuẫn; thiết lập và phát triển mối quan hệ với người khác... Chương 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Thực tế của việc dạy học kỹ năng nói và nghe trong trường THPT hiện nay. Phần Nói và nghe là một nội dung dạy học mới được đưa vào chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn năm 2018, nhằm nâng cao năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học của học sinh, bên cạnh nội dung Đọc và viết đã quen thuộc hơn. Tuy nhiên, theo phân phối chương trình Ngữ văn và cấu trúc bài học chủ đề, phần Nói - nghe chiếm dung lượng thời gian khá ít (1 tiết/ 1 bài Nói và nghe). Đây là một thử thách đòi hỏi phải có những giải pháp phù hợp để có thể tổ chức dạy học hiệu quả, giúp học sinh được thực hành nói và nghe đạt được yêu cầu và mục tiêu của bài học. Một thực tế có thể thấy là hiện nay, một bộ phận học sinh (HS) trung học còn yếu về kỹ năng nói và nghe. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này. Dễ thấy nhất là HS ngại nói trong giờ học, có tâm lí ngượng ngùng, dè dặt vì sợ nói sai, không có đủ thông tin để diễn đạt... Sự hạn chế về vốn sống, vốn hiểu biết và kinh nghiệm giao tiếp, ít giao lưu trong gia đình, tập thể dẫn đến việc HS không chủ động, linh hoạt trong việc thực hiện các chủ đề, hình thức nói. Các hoạt động tập thể cần đến việc trao đổi, thảo luận, diễn thuyết, hùng biện,... ít và khó được tổ chức nên HS không có nhiều điều kiện để rèn luyện kỹ năng nói và nghe. Số lượng HS ở mỗi lớp học khá đông nên việc rèn luyện kỹ năng nói và nghe cho từng HS còn hạn chế. Một bộ phận giáo viên (GV) chú trọng rèn luyện KN viết, chưa có phương pháp phù hợp, sáng tạo để khuyến khích, tạo điều kiện và phát triển NL nói cho HS. Nhu cầu giao tiếp, truyền thông quốc tế ngày càng
  11. mở rộng trong thời đại thông tin đã khiến nhiều người tham gia vào các lớp học ngôn ngữ để nâng cao khả năng nói của mình. Chương trình giáo dục phổ thông thể hiện sự quan tâm nhất định đến việc phát triển toàn diện các KN hoạt động lời nói cho người học, trong đó có kỹ năng nói và nghe. Bởi vậy, cần thiết có một sự nhìn nhận thỏa đáng và có những nghiên cứu thiết thực để tìm ra những cách thức dạy học (DH) kỹ năng nói và nghe hiệu quả cho HS. 2.2. Thực tế của việc dạy học kỹ năng nói và nghe trong Trường THPT chuyên Phan Bội Châu, Nghệ An Chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên 5 lớp 10 thuộc cả 2 ban A và C trường THPT chuyên Phan Bội Châu, Nghệ An về mức độ tự tin khi nói và nghe của học sinh. Kết quả như sau: Lớp 10C5 10C7 10C6 10A4 10A5 Sĩ số học sinh 35 35 35 34 35 Tỉ lệ học sinh tự tin trình bày quan điểm cá 50% 55% 40% 45% 45% nhân trước tập thể. Tỷ lệ học sinh tập trung lắng nghe các bài 50% 50% 30% 30% 30% trình bày của các bạn trong các buổi thuyết trình. Nhìn vào bảng thống kê sơ bộ, chúng ta có thể nhận thấy thực tế của kỹ năng nói và nghe ở một số lớp chưa đạt như kì vọng. Các em học sinh vốn năng động với các hoạt động ngoại khóa, nhưng kỹ năng trình bày, thể hiện quan điểm bản thân trước tập thể vẫn còn hạn chế. Nguyên nhân chính có lẽ do sự thiếu tự tin, ngại sai, ngại bộc lộ ...của học sinh, nhưng cũng cần nhìn nhận từ việc cần đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên. Tổ chức các hoạt động dạy học để rèn luyện kỹ năng nói và nghe cho HS đã trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông hiện nay, nhất là ở cấp Trung học. Mặc dù chương trình giáo dục quốc gia và nhà trường đã có sự nhìn nhận đúng mức về vai trò của việc dạy học kỹ năng nói và nghe, GV đã có sự quan tâm nhất định đối với kỹ năng nói và nghe trong mỗi giờ học Ngữ văn nhưng công việc này còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, trong đó có việc chưa tìm ra những phương pháp rèn luyện hiệu quả. Chúng tôi cho rằng chương trình và sách giáo khoa môn Ngữ văn Trung học sắp tới cần phải tăng cường thời lượng, giới thiệu cụ thể và mở rộng hơn nội dung và hình thức luyện nói cho HS. Việc áp dụng ba giai đoạn rèn luyện kỹ năng nói và nghe cho HS Trung học trên đây là một hướng đi đơn giản nhưng căn cơ, đòi hỏi sự kiên trì và sức sáng tạo của GV. Có thể xem đây là một hướng rèn luyện kỹ năng nói và nghe cho HS trong môn
  12. Ngữ văn hiệu quả, góp phần giải quyết được một số khó khăn trước mắt trong việc luyện nói cho HS Trung học. Chương 3: Một số giải pháp dạy học Nói và nghe trong chương trình Ngữ văn 10 Sáng kiến được chúng tôi tiến hành tại trường THPT Phan Bội Châu và được hiện thực hóa trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn. Chúng tôi đã thực hiện một số giải pháp trong lựa chọn và sử dụng các hình thức tổ chức, cách thức, phương pháp và phương tiện dạy học Nói và nghe gắn với từng kiểu bài khá hiệu quả. 3.1. Giải pháp chung. 3.1.1. Dạy học Nói và nghe theo nguyên tắc giao tiếp và kết nối: Dạy học Nói và nghe theo nguyên tắc giao tiếp ( xác định đối tượng giao tiếp, nhân vật giao tiếp, mục đích giao tiếp, phương tiện giao tiếp phù hợp); dạy học kết nối với Đọc – viết ( chú ý mối quan hệ tích hợp, kết nối chặt chẽ giữa các hoạt động đọc, viết và hoạt động nói, nghe)… Hướng vào hoạt động giao tiếp là nguyên tắc đặc trưng của việc dạy học Ngữ văn. Để hình thành các kỹ năng vận dụng ngôn ngữ, học sinh phải được hoạt động trong các môi trường giao tiếp cụ thể, đặc biệt là môi trường văn hoá ứng xử. Chỉ có trong các môi trường giao tiếp, môi trường văn hoá ứng xử, học sinh mới hiểu lời nói của người khác, đồng thời vận dụng ngôn ngữ sáng tạo để người khác hiểu được tư tưởng và tình cảm của các em. Bởi lẽ, ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với văn hóa của một dân tộc, nhất là văn hóa ứng xử. Thông qua các bài tập thực hành kỹ năng nói và nghe theo mục đích nhất định, học sinh được luyện tập về các kĩ năng ứng xử trong các hoàn cảnh giao tiếp khác nhau. Nguyên tắc này yêu cầu : Việc lựa chọn và sắp xếp nội dung dạy học phải lấy hoạt động giao tiếp làm mục đích, tức là hướng vào hình thành các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho HS. Nguyên tắc giao tiếp yêu cầu hạn chế diễn giảng, thuyết minh, tăng cường sử dụng các PPDH tích cực như sử dụng tình huống có vấn đề, thảo luận nhóm, sử dụng trò chơi học tập, thực hành GT... Bên cạnh những tình huống giả định, GV cần có năng lực dự kiến và ứng xử các tình huống GT xảy ra trong lớp học. Quan hệ tích hợp, kết nối chặt chẽ giữa các hoạt động đọc, viết và hoạt động nói, nghe là trục dạy học xuyên suốt của chương trình THPT 2018. Nội dung cốt lõi của môn học này sẽ bao gồm các mạch kiến thức và kỹ năng cơ bản, thiết yếu về văn học và tiếng Việt, đáp ứng các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực của học sinh ở từng cấp học. Hệ thống kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về văn học và tiếng Việt được tích hợp vào hoạt động dạy đọc,
  13. viết, nói và nghe. Chương trình được xây dựng theo hướng mở; không quy định chi tiết về nội dung dạy học và các văn bản cụ thể mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp. Quy định một số kiến thức cơ bản, cốt lõi về văn học, tiếng Việt và một số văn bản quan trọng của văn học dân tộc là nội dung thống nhất bắt buộc đối với học sinh toàn quốc. Qua những văn bản ngôn từ, đặc biệt là các văn bản văn học đặc sắc, môn Ngữ văn hướng tới cho học sinh cơ hội khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, biết đồng cảm, sẻ chia, có cá tính và đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn; Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu đối với tiếng Việt và văn học, ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá Việt Nam. Nói và nghe căn cứ vào nội dung của đọc và viết để luyện tập cho học sinh trình bày, nói và nghe tự tin, có hiệu quả; từ nói đúng đến nói hay. Từ các yêu cầu trên, chương trình nêu lên các nội dung dạy học, bao gồm kiến thức về tiếng Việt, văn học và ngữ liệu văn bản. Do yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực nên chương trình nhấn mạnh việc chú ý chú ý hình thành cho học sinh cách học, tự học, từ phương pháp tiếp cận, phương pháp đọc hiểu đến cách thức tạo lập văn bản và nghe-nói; Thực hành, luyện tập và vận dụng nhiều kiểu loại văn bản khác nhau để sau khi rời nhà trường các em có thể tiếp tục học suốt đời và có khả năng giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. 3.1.2. Dạy học Nói và nghe theo quy trình tổ chức linh hoạt, phù hợp Quy trình tổ chức dạy học Nói và nghe có thể được hình dung qua các bước sau: Bước 1: Xác định đặc trưng và yêu cầu cần đạt ở từng kiểu bài; lựa chọn hình thức tổ chức và PPDH, KTDH. Bước 2: Tổ chức, hướng dẫn học sinh chuẩn bị nói và nghe. Bước 3: Tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hành nói và nghe. Bước 4: Tổ chức, hướng dẫn học sinh trao đổi, đánh giá về việc nói, nghe đã thực hiện. 3.1.3. Dạy học Nói và nghe gắn với đặc trưng kiểu bài Nói và nghe trong chương trình Ngữ văn 10 tập trung vào một số nội dung như thuyết trình về loại/thể loại văn học, báo cáo kết quả nghiên cứu và thảo luận các vấn đề đời sống, xã hội. Mỗi nội dung có những đặc thù riêng – do vậy, dạy học Nói và nghe cần gắn với đặc trưng kiểu bài để đạt hiệu quả yêu cầu, mục tiêu bài học. * Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm truyện Chú ý chủ đề truyện kể (tóm tắt nội dung, khái quát chủ đề; ý nghĩa/giá trị của chủ đề); hình thức truyện kể ( dựng bối cảnh/tình huống/cốt truyện; xây dựng nhân vật; sự kết hợp lời của người kể chuyện và lời nhân vật…).
  14. * Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ Chú ý mạch vận động cảm xúc của nhân vật trữ tình, sự biểu đạt của các hình ảnh, hình tượng; tính độc đáo của những phương tiện ngôn từ ( từ ngữ, cách gieo vần, nhắt nhịp, các biện pháp tu từ…) * Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề Chú ý hệ thống luận điểm khoa học, mạch lạc; các ngữ liệu, dẫn chứng minh họa xác đáng, tiêu biểu; kết quả nghiên cứu mang tính phát hiện… 3.1.4. Vận dụng các hình thức tổ chức, phương pháp, phương tiện dạy học Linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động và sử dụng PPDH, KTDH tùy theo điều kiện cơ sở vật chất, năng lực của HS và yêu cầu của từng kiểu bài: trình chiếu PowerPoint, hình ảnh, video, sơ đồ, bảng biểu; tổ chức cho HS nói- nghe, tranh luận theo nhóm; cho HS nhận xét, đánh giá chéo; sử dụng bảng kiểm kĩ năng giới thiệu, đánh giá nội dung, nghệ thuật của một truyện kể/ một bài thơ/; kĩ năng trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu; bảng kiểm kĩ năng nghe giới thiệu, đánh giá/ báo cáo… - Như chúng ta biết chức năng của việc dạy học tiết nói và nghe là: + Hướng dẫn học sinh cách nói/trình bày về một kiểu bài. + Hướng dẫn học sinh hình thành và phát triển năng lực giao tiếp, bao gồm cách kĩ năng nói, nghe và nói nghe tương tác. + Hướng dẫn học sinh hình thành và phát triển khả năng tự kiểm soát, tự định hướng bài nói/trình bày của mình, khả năng phản biện và tự điều chỉnh. Vì tầm quan trọng của tiết nói nghe, nên để tổ chức giảng dạy trên lớp tiết nói và nghe được tốt, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều khâu, nhiều công đoạn. Nhưng quan trọng là phần chuẩn bị ở nhà của học sinh và việc lựa chọn hình thức, phương pháp lên lớp của giáo viên. Có rất nhiều phương pháp để hướng dẫn học sinh thực hành, rèn luyện kỹ năng nói và nghe, nhưng ở đây chúng tôi xin đề xuất 3 phương pháp tiêu biểu như sau: a) Phương pháp thảo luận nhóm Trong số các phương pháp dạy học tích cực môn ngữ văn, phương pháp thảo luận nhóm thường được giáo viên sử dụng, bởi nó tạo ra sự sôi nổi trong tiết học và giúp các em học sinh có được khả năng tư duy, tính tự giác, trách nhiệm và năng lực giao tiếp. Phương pháp thảo luận nhóm đặc biệt mang lại hiệu quả trong các tiết thực hành, làm bài tập ngữ văn. Để thực hiện, giáo viên cần chia lớp thành các nhóm nhỏ, đưa ra vấn đề, quy định thời gian để các nhóm thảo luận và trình bày kết quả của nhóm trước lớp.
  15. Cách thực hiện: Bước 1: Chuẩn bị  Phương tiện hỗ trợ. Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ  Chia lớp thành từng nhóm.  Bầu nhóm trưởng.  Giáo viên quan sát, kiểm tra và hướng dẫn nếu cần thiết.  Yêu cầu tất cả các thành viên phải tích cực tham gia thảo luận. Bước 3: Trình bày kết quả  Cử thành viên trong nhóm trình bày kết quả trước lớp.  Các nhóm còn lại đánh giá, bổ sung ý kiến.  Giáo viên tổng kết, đánh giá và đưa ra kết luận. b) Phương pháp đóng vai Trong các phương pháp dạy học tích cực, đóng vai là phương pháp phù hợp với đặc trưng dạy - học của môn Ngữ văn. Đây là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành để trình bày những suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo một vai giả định. Từ đó giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách đứng từ chỗ đứng, góc nhìn của người trong cuộc, tập trung vào một sự kiện cụ thể mà các em quan sát được từ vai của mình.Phương pháp đóng vai được thực hiện trong một số nội dung học tập sau: vào vai một nhân vật kể lại câu chuyện đã học, chuyển thể một văn bản văn học thành một kịch bản sân khấu, xử lý một tình huống giao tiếp giả định, trình bày một vấn đề, một ý kiến từ các góc nhìn khác nhau… Một số yêu cầu khi đóng vai: + Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề giáo dục, phù hợp với lứa tuổi, trình độ học sinh và điều kiện lớp học. + Tinh huống nên để mở, có thể không cho trước kịch bản để học sinh tự sáng tạo. + Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai. + Ngươi đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong tình huống của bài tập đóng vai để không lạc đề. + Nên khích lệ cả học sinh nhút nhát cùng tham gia. + Nên có hóa trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của việc đóng vai (nếu có điều kiện).
  16. Tuy nhiên, đóng vai không phải là sự chuyển hóa một cách tuyệt đối, học sinh có thể mang vào đó những cách cảm, cách nghĩ, cách ứng xử của riêng mình trên cơ sở tôn trọng ý nghĩa khách quan của tác phẩm và ý đồ chủ quan của nhà văn. Đây chính là tiền đề để học sinh phát huy được khả năng “đồng sáng tạo” của mình. Cách thực hiện: Bước 1: Giao nhiệm vụ chuẩn bị bài mới - Giáo viên chia nhóm, gợi ý một số nội dung/chủ đề cần đóng vai. Trong đó quy định rõ thời gian chuẩn bị và thời gian đóng vai cho các nhóm. Giáo viên có thể chia nhóm dựa trên năng lực, sở thích của học sinh. - Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai: phân vai, dàn cảnh, học lời thoại, cách thể hiện nhân vật, diễn thử… Bước 2 : Học sinh trình bày sản phẩm – thảo luận - HS trình bày sản phẩm nhóm. - Giáo viên định hướng học sinh thảo luận về những nội dung trọng tâm của bài học được đặt ra từ các sản phẩm. - Học sinh thảo luận, nhận xét, đánh giá. Bước 3: Chốt kiến thức: GV chốt kiến thức, hướng dẫn học sinh tổng hợp và khái quát những vấn đề trọng tâm từ của bài học. c) Thảo luận Socratic (truy vấn biện chứng) Đối thoại Socratic (còn gọi là phương pháp truy vấn biện chứng) là hình thức hỏi- đáp trên tinh thần dân chủ để từ đó những người tham gia cuộc đối thoại dần tiệm cận chân lý về vấn đề mình đang thảo luận. Thông qua hình thức thảo luận nhóm, phương pháp thảo luận Socratic chủ yếu thúc đẩy học sinh giúp đỡ lẫn nhau để hiểu những ý tưởng, những vấn đề, những giá trị được phản ánh trong tác phẩm. Quá trình thảo luận giúp học sinh hình thành một số năng lực sau: - Năng lực tự học thể hiện qua việc nghiên cứu tài liệu. - Năng lực hợp tác - Năng lực ngôn ngữ: biết trình bày ý tưởng, biết đặt câu hỏi, biết lắng nghe. - Năng lực thẩm mỹ- cảm xúc: hình thành trong quá trình khám phá tác phẩm, đặt mình vào vị trí nhân vật, nhận biết giá trị thẩm mỹ của tác phẩm.
  17. Đặc trưng của đối thoại Socrates đó là tính dân chủ, nơi mọi người đều ngang hàng với nhau để cùng tiệm cận chân lý. Do vậy tác phẩm lựa chọn phải là tác phẩm có cấu trúc mở, mang đậm tinh thần dân chủ. Đó có thể là tác phẩm giàu sức gợi với nhiều tầng nghĩa chưa được khơi phá. Đó có thể là tác phẩm đặt ra những vấn đề muôn thuở, đa diện nhiều chiều không dễ gì có một đáp án duy nhất. Những vấn đề có tinh nhân loại, những trăn trở muôn thuở của con người được thể hiện trong tác phẩm văn học đều có thể trở thành cơ sở cho đối thoại Socratic Cách thực hiện thảo luận Socratic : - Giáo viên đưa ra chủ đề cho buổi thảo luận. Mặc dù học sinh đóng vai trò chủ đạo và dẫn dắt diễn tiến buổi thảo luận, nhưng giáo viên cần chuẩn bị hệ thống câu hỏi. (Cụ thể: Cần chuẩn bị những câu hỏi chủ đề để dẫn dắt học sinh vào cuộc thảo luận; những câu hỏi gợi mở để dẫn dắt khi học sinh gặp khó khăn, bế tắc; những câu hỏi liên hệ thực tế khơi gợi trải nghiệm, kinh nghiệm cá nhân sẽ giúp nối kết học sinh với văn bản...) - Học sinh đóng vai trò chủ đạo và dẫn dắt diễn tiến buổi thảo luận. Học sinh thường được sắp xếp ngồi thành vòng tròn, xoay quanh vị trí trung tâm là giáo viên. Mỗi cá nhân tự do phát biểu quan điểm của mình và cần đưa ra được những lí lẽ, dẫn chứng để bảo vệ ý kiến của bản thân. Học sinh có thể sử dụng một số câu hỏi phổ biến trong quá trình thảo luận như sau: Ý tưởng đó được gợi ra từ đoạn nào, câu nào trong văn bản?/ Nghĩa của từ/cụm từ đó là gì?/ Bạn có thể diễn đạt lại bằng một cách khác được không?/ Khi bạn nói “…” thì ý bạn là gì?/ Theo bạn ở đây thông điệp mà tác giả muốn thể hiện là gì? - Sau buổi thảo luận, giáo viên tổ chức cho học sinh đánh giá những hoạt động trải nghiệm của mình. Giáo viên có thể sử dụng các phiếu học tập với những câu hỏi ngắn để đánh giá hiệu quả của buổi thảo luận. Ví dụ mẫu phiếu sau: 3.2. Giải pháp cho hoạt động Nói và Nghe 3.2.1. Với hoạt động Nói - Hướng dẫn học sinh trả lời các câu hỏi như người nghe của tôi là ai, họ muốn biết những gì về điều tôi sẽ nói, mục đích của tôi là gì? Từ đó, hướng dẫn học sinh xác định nội dung nói và cách nói. - Hướng dẫn cách thức, quy trình chuẩn bị một bài nói (dựa trên bài viết đã viết) về nội dung và về cách nói (cách thức và quy trình chuẩn bị một cuộc thảo luận, tranh luận). Trong trường hợp học sinh đã có bài viết thì hướng dẫn học sinh chuyển nội dung bài viết thành bài nói. - Hướng dẫn học sinh dùng bảng kiểm để kiểm soát bài nói của bản thân. Ví dụ: Bảng kiểm đánh giá bài nói của bản thân:
  18. Các mức độ tự đánh giá Nội dung tự đánh giá Hoàn thành Hoàn Chưa hoàn xuất sắc thành thành nhiệm nhiệm vụ nhiệm vụ vụ Người nói đã trình bày đầy đủ các vấn đề muốn nói, theo yêu cầu đặt ra. Các sự việc được nói theo trình tự logic, khoa học... Người nói tự tin, cử chỉ, điệu bộ hợp lí, thuyết phục... 3.2.2. Với hoạt động Nghe - Giáo viên có thể làm mẫu cách lắng nghe người nói bằng cách: nhìn vào mặt người nói, nêu câu hỏi cho người nói về những gì chưa rõ, nhắc lại điều người nói vừa trình bày để đảm bảo hiểu đúng ý người nói. - Dùng mảnh giấy nhỏ ghi chép vắn tắt những gì đã nghe. - Dùng bảng kiểm để góp ý cho bài nói của bạn bằng giọng điệu nhẹ nhàng và bằng những mẫu câu như: Bài nói của bạn rất hay nhưng nếu có thể, bạn làm rõ thêm, …; Nếu là tôi, tôi sẽ, …; Nên chăng bạn tập trung vào nội Phiếu góp ý bài nói của nhóm.... 1. Nhận xét khái quát của tôi:.............................................................................. 2. Tôi đánh giá cao các ưu điểm của bài nói........................................................ 3. Bạn có thể làm rõ hơn nội dung:...................................................................... 4. Nếu là tôi, tôi sẽ giải quyết vấn đề................................................................... dung… 3.2.3. Hoạt động nói-nghe tương tác Giáo viên cần hướng dẫn học sinh: - Kiên nhẫn chờ đến lượt mình nói, không ngắt lời người nói. - Nối tiếp cuộc hội thoại bằng những câu hỏi, lời nhận xét, bổ sung gắn với chủ đề cuộc thảo luận/tranh luận/đối thoại. - Tôn trọng người nói và những ý kiến khác biệt. - Hợp tác, giải quyết vấn đề với thái độ tích cực. 3.3. Bài soạn minh họa Nói và nghe
  19. - Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm truyện (Bài 1: Sức hấp dẫn của truyện kể); NÓI VÀ NGHE: GIỚI THIỆU, ĐÁNH GIÁ VỀ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA MỘT TÁC PHẨM TRUYỆN I. Yêu cầu của bài học: Sau bài học, HS có thể: Nêu được tên truyện, tên tác giả; khái quát được giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Trình bày được các nhận định, đánh giá về tác phẩm truyện một cách thuyết phục: nêu luận điểm rõ ràng, phối hợp linh hoạt các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, làm nổi bật nội dung được thuyết trình. II. Tiến trình dạy học: *Hoạt động Khởi động a) Mục tiêu: Tạo hứng thú và tâm thế cho học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập b) Nội dung: GV cho HS xem 01 video Chia sẻ cuốn sách em yêu trên YouTube và thực hiện yêu cầu: Chủ đề của cuốn sách là gì ? Tại sao cuốn sách đó lại được yêu thích ? c) Sản phẩm: Chia sẻ của HS sau khi xem Video d) Tổ chức thực hiện: Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ: GV cho học sinh xem video và thực hiện yêu cầu như phần Nội dung Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ: HS thảo luận cặp đôi để thực hiện yêu cầu Bước 3: Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ: HS chia sẻ ý kiến của mình theo yêu cầu Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ: - HS đánh giá, trảo đổi về chia sẻ của bạn. - GV nhận xét, đánh giá. *Hoạt động Hình thành kiến thức mới * Chuẩn bị bài nói a) Mục tiêu: Nắm được các yêu cầu, mục đích, chủ đề của bài nói.
  20. B) Nội dung: Hs thực hiện các yêu cầu để chuẩn bị cho bài nói : thuyết trình cảm nhận về tác phẩm truyện : “Nữ Oa vá trời” c) Sản phẩm học tập: Câu trả lời theo yêu cầu d) Tổ chức thực hiện: Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ: Giáo viên chia lớp thành các nhóm học tập và yêu cầu học sinh thực hiện: Xác định Tên tác phẩm truyện; Tác giả; chủ đề; nội dung và nghệ thuật của truyện. Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ: HS tiếp nhận các yêu cầu và làm việc theo nhóm phân công Bước 3: Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ: Hs trình bày kết quả chuẩn bị nói theo nhóm phân công Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ: - HS nghe và nhận xét phần chuẩn bị nói của bạn - GV bổ sung, góp ý về sự chuẩn bị bài nói * Trình bày bài nói a) Mục tiêu: Biết được các kĩ năng khi trình bày bài nói theo chủ đề. b) Nội dung: Bài nói theo chủ đề cần có sự sắp xếp các ý theo trật tự, người nghe thực hiện các yêu cầu vào phiếu học tập. c) Sản phẩm: HS trình bày bài nói và những Hs khác cùng lắng nghe và hoàn thành phiếu học tập. d) Tổ chức thực hiện: HOẠT ĐỘNG CỦA GV - HS DỰ KIẾN SẢN PHẨM Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ 1. Chuẩn bị bài nói - Giáo viên gọi HS lên trình bày bài nói - HS chuẩn bị đề cương nói trước lớp - GV yêu cầu những HS còn lại điền vào 2. Các bước tiến hành phiếu học tập (Phụ lục) - Xác định mục đích nói và người Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ người nghe. - HS thực hiện nói - Chuẩn bị nội dung nói và tập - HS nghe và điền thông tin vào phiểu học luyện. tập Bước 3: Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2