intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT Đông Hiếu

Chia sẻ: Ngaynangmoi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:42

17
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT Đông Hiếu” nhằm đóng góp một phần kinh nghiệm cùng đồng nghiệp để trao đổi, học hỏi và làm tốt hơn công tác giáo dục học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT Đông Hiếu

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT Ở TRƯỜNG THPT ĐÔNG HIẾU Lĩnh vực: Chủ nhiệm Năm 2021 1
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT ĐÔNG HIẾU SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT Ở TRƯỜNG THPT ĐÔNG HIẾU Lĩnh vực: Chủ nhiệm Người thực hiện: Đậu Thị Thuận Chức vụ: Giáo viên Tổ: Toán-Tin Số điện thoại: 0976284108 Năm 2021 2
  3. MỤC LỤC TT Nội dung Trang 1 A. Đặt vấn đề 2 2 B. Nội dung 3 3 1. Cơ sở lý luận 3 4 2.Cơ sở thực tiễn 10 5 2.1.Thực trạng chung về công tác giáo dục học sinh cá biệt của 10 GVCN ở các trường THPT hiện nay 6 2.2.Thực trạng về công tác giáo dục học sinh cá biệt của GVCN 12 tại trường THPT Đông Hiếu trong giai đoạn hiện nay 7 3.Một số giải pháp giáo dục học sinh cá biệt của GVCN tại 17 trường THPT nói chung và trường THPT Đông Hiếu 8 3.1.Nguyên tắc đề xuất giải pháp 17 9 3.2.Một số giải pháp giáo dục học sinh cá biệt đã được áp dụng 18 10 3.2.1.Giải pháp 1:Tìm hiểu, nắm vững hoàn cảnh, tính cách cụ 19 thể của từng học sinh lớp chủ nhiệm 11 3.2.2. Giải pháp 2: Giáo dục học sinh cá biệt bằng những câu 21 chuyện có ý nghĩa 12 3.2.3. Giải pháp 3: Giáo dục kết hợp với tình thương 23 13 3.2.4. Giải pháp 4: Đổi mới cách thức phối hợp với Đoàn trường 26 14 4. Kết quả đạt được 32 15 5. Bài học kinh nghiệm 35 16 C. Kết luận 35 17 D. Kiến nghị, đề xuất 37 18 Tài liệu tham khảo 38 19 Phụ lục 39 3
  4. A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Trẻ em là một nhân tố quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, trong thời đại ngày nay Đảng và nhà nước ta đã và đang có nhiều chính sách ưu đãi, quan tâm sâu sắc đến sự phát triển của các em. Việc chăm lo đó nhằm định hướng cho các em phát triển một cách toàn diện về tri thức, đạo đức và thể lực. Các em được tổ chức nhiều hình thức hoạt động khác nhau mà trong đó hoạt động học tập và vui chơi tại nhà trường là mang lại hiệu quả cao nhất. Tại nhà trường học sinh được tổ chức học tập và vui chơi có mục đích giáo dục và hết sức khoa học theo từng bộ môn, từng lứa tuổi. Tại các trường THPT nói chung và trường THPT Đông Hiếu nói riêng hiện nay sự cải cách về việc giáo dục học sinh cũng như nâng cao phương pháp giảng dạy của từng bộ môn của nhà trường cũng nhằm vào mục tiêu rèn luyện cho học sinh có sự phát triển toàn diện. Tuy nhiên với xu thế phát triển của xã hội, học sinh không chỉ nhận được sự tác động tích cực từ giáo viên mà các em còn nhận được nhiều sự tác động khác từ phía bạn bè, gia đình và xã hội . Chính sự tương tác của nhiều hình thức tác động đó đa số các em có sự phát triển tích cực về thể chất, tri thức và thể lực. Hiện nay do xu thế hội nhập kinh tế thị trường, mặt trái của xã hội tác động mạnh mẽ đến tuổi trẻ làm cho các em nhiều lúc mất phương hướng, suy nghĩ lệch lạc, sa sút về phẩm chất đạo đức. Trong đó các em lứa tuổi học sinh dễ bị kích động, bởi lứa tuổi này vừa có cá tính tò mò, thích khám phá, vừa nhạy cảm, thích làm người lớn...Nên có một số em phát triển theo hướng ngược lại, những học sinh này có nhiều biểu hiện hết sức bất thường, phức tạp được gọi là “học sinh cá biệt” Như vậy việc một số em học sinh được xem là “cá biệt” này xuất hiện ngày càng nhiều hơn. Nguyên nhân từ đâu, có phải tự thân các em trở nên cá biệt hay do nhiều nguyên nhân khác từ quá trình giáo dục các em từ phía gia đình, nhà trường và xã hội đã đưa các em đến những biểu hiện được xem là cá biệt? Đối với học sinh “cá biệt” chúng ta có thể giáo dục các em như thế nào là hợp lí? Cách thức nào có thể hướng các em trở về với sự phát triển bình thường? đây là những câu hỏi mà nhiều thầy cô đang quan tâm tìm câu trả lời. Trong những năm qua, trong quá trình tham gia giáo dục học sinh tại trường THPT Đông Hiếu tôi đã nghiên cứu tìm ra nguyên nhân và biện pháp tích cực để giáo dục các em cá biệt. Vì vậy, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT Đông Hiếu” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình nhằm đóng góp một phần kinh nghiệm cùng đồng nghiệp để trao đổi, học hỏi và làm tốt hơn công tác giáo dục học sinh. 4
  5. 2. Phạm vi áp dụng Bản thân tôi tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu, tiến hành thể nghiệm về công tác giáo dục học sinh cá biệt ở các lớp tại trường THPT Đông Hiếu và một số lớp ở các trường THPT lân cận (Trường THPT Thái Hòa, THPT Tây Hiếu, THPT 1/5). Trong đó tập trung bắt đầu thể nghiệm ở lớp 11C5 năm học 2016- 2017 và lớp 12C5 năm học 2017 - 2018 mà bản thân tôi đã chủ nhiệm ở trường THPT Đông Hiếu. 3. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng linh hoạt các phương pháp sau: Phương pháp thu thập, xử lí tài liệu, thông tin; phương pháp khảo sát thực tế trước và sau khi tác động; phương pháp so sánh trước và sau khi tác động; phương pháp thống kê, xử lý số liệu, tranh ảnh,... 4. Cấu trúc đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung đề tài gồm: - Cơ sở lí luận - Thực trạng vấn đề giáo dục học sinh cá biệt thông qua GVCN tại trường THPT Đông Hiếu, Nghệ An - Một số giải pháp nhằm giáo dục học sinh cá biệt tại trường THPT Đông Hiếu, Nghệ An - Kết quả đạt được 5. Tính mới của đề tài Đưa ra được một số giải pháp giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả B. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận 1.1. Tìm hiểu học sinh cá biệt Học sinh cá biệt là một thuật ngữ thường được sử dụng đối với những em học sinh nghịch ngợm, quậy phá, hay đánh nhau, mất trật tự trong giờ học, các học sinh này thường trốn tiết, bỏ học. Hầu hết những học sinh này thường không tuân theo các nội quy của lớp, của trường và đa phần thường làm theo ý của bản thân. Do vậy nếu gia đình, nhà trường không kịp thời đưa ra phương hướng giải quyết, biện pháp khắc phục thì những học sinh này sẽ dễ dàng bị người xấu lôi kéo dẫn đến các tệ nạn xã hội. Con người vốn hiền lành nhưng do quá trình sống và lớn lên con người chịu sự tác động của các yếu tố xung quanh như bạn bè, gia đình, xã hội... nên 5
  6. mỗi người hình thành nên mỗi tính cách. Tục ngữ có câu: “ Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài ”, “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Những học sinh cá biệt chắc chắn điều kiện ngoại cảnh: Gia đình - Bạn bè - Xã hội đang sống là không tốt. Nhưng làm sao giúp đỡ các em “Gần mực mà không đen, ở ống mà không dài”. Đó là nhiệm vụ của giáo dục của thầy cô của nhà trường chúng ta. Không ít GVCN lớp cho rằng việc giáo dục HS cá biệt quả là một việc vô cùng khó, có lúc cho rằng đó là bản chất của các em. Sinh thời Bác Hồ đã từng nói: “ Ngủ thì ai cũng như lương thiện Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền Hiền dữ phải đâu là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên" Bản chất con người - học sinh là lương thiện, nhưng do những yếu tố khác nhau làm ảnh hưởng đến đời sống, tâm lý của học sinh nên các em có những biểu hiện khác nhau như vậy. Ở lứa tuổi các em cần có sự hỗ trợ, tư vấn của người lớn hay nói cách khác các em cần có sự giáo dục và các em rất cần đến chúng ta, không việc gì phải bi quan về hiệu quả giáo dục của mình, muốn đạt được hiệu quả cao chúng ta cần có tâm huyết, năng động sáng tạo đồng thời có sự kiên trì, nhất định chúng ta sẽ thành công. Đúng vậy, giáo dục là nhân tố quyết định sự hình thành nhân cách của học sinh. Đối với học sinh cá biệt thì đòi hỏi cần phải đầu tư nghiên cứu giáo dục các em nhiều hơn, để lôi các em trở về vị trí ban đầu và định hướng giáo huấn cho các em trở thành người tốt. Có thế người làm công tác giáo dục mới tự hào, mới vui vẻ, xã hội mới bớt đi gánh nặng, đất nước mới phồn vinh trong tương lai. Đảng và nhà nước ta đã đề cao “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, đầu tư cho giáo dục là đầu tư lâu dài trong tương lai. Bác Hồ đã khẳng định “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Sự nghiệp trồng người là sự nghiệp vẻ vang cao cả của người giáo viên, không có lí do gì mà chúng ta bất lực hay đầu hàng trước một học sinh cá biệt nào; chỉ có điều chúng ta đã dùng phương pháp giáo dục đúng cách chưa? Kỹ chưa? Phương pháp giáo dục của ta phù hợp chưa? Chúng ta đã đem hết nhiệt huyết chưa? Cuộc sống con người không ai là suôn sẻ, không ai tự nhiên trở thành người tốt. Những lúc các em sa ngã, ngang bướng, sống lệch lạc,... là những lúc các em cần sự quan tâm, an ủi, giáo dục và động viên của thầy cô. Nếu buông thả các em lúc này khác nào đẩy các em vào hố sâu tội lỗi mà không có lối thoát. Hiên nay học sinh “cá biệt” không chỉ là những em học kém thường xuyên vi phạm nội quy mà học sinh cá biệt còn biểu hiểu hiện ở một số ít học khá, giỏi. Đây là điều mà nhiều giáo viên cũng như phụ huynh không bao giờ ngờ được. 6
  7. Các em có thể tập trung thành từng nhóm cùng lớp hoặc khác lớp để chơi cùng nhau và có chung nhau các biểu hiện tiêu cực như bỏ học, đánh nhau, hút thuốc, sử dụng điện thoại di động, gây rối trong giờ dạy của bất kỳ một giáo viên nào đó mà các em cho rằng mình không thích,… Khi các em có những biểu hiện vi phạm tại nhà trường, giáo viên chủ nhiệm, đoàn thể và ban giám hiệu nhà trường ra sức giáo dục với nhiều hình thức khác nhau tùy theo mức độ vi phạm của các em, các hình thức thường được sử dụng như: nhắc nhở, khiển trách, kĩ luật, đình chỉ học tập có thời hạn, mời phụ huynh đến để hợp tác giáo dục,….. Khi nhà trường thông báo mời họp mặt phụ huynh cùa các đối tượng cá biệt thì gia đình thường rất ít có mặt hoăc khi đến gặp gỡ, trao đổi với nhà trường cùng giáo viên chủ nhiệm thì phụ huynh rất ngại và “mặc cảm” và sau đó là đánh mắng con mình khi về nhà. Một số phụ huynh thì chọn cách im lặng vì “bó tay” với đứa con của mình. Họ chỉ biết nói: “trăm sự nhờ vào thầy cô”. Đối với nhiệm vụ giáo dục học sinh cá biệt thì người có tính chất quyết định nhất là giáo viên chủ nhiệm. Để làm được điều đó thì người giáo viên chủ nhiệm phải có hiểu biết rộng về văn hóa chung, có trí thức sâu sắc; vững vàng về môn học phụ trách ở lớp chủ nhiệm; có khả năng sáng tạo trong công tác giáo dục, dạy học; có khả năng thu thập tích lũy trí thức để ngày càng năng cao hoặc mở rộng tầm hiểu biết của mình; có khả năng kích hoạt nhằm khơi dậy sự hứng thú và động cơ học tập, rèn luyện đạo đức của học sinh; giáo viên chủ nhiệm cần tự trang bị cho mình nhiều kĩ năng sư phạm như: giao tiếp sư phạm trước đám đông , biểu lộ và kiềm chế tình cảm, cảm xúc khi cần thiết, ứng xử các tình huống sư phạm linh hoạt,...Và trước hết, giáo viên chủ nhiệm phải thực sự là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Như vậy, giáo viên chủ nhiệm là người đóng vai trò quan trọng để giáo dục thành công những học sinh cá biệt trong nhà trường phổ thông. Để thực hện tốt nhiệm vụ, chức trách của mình, việc học hỏi và không ngừng trau dồi bản thân là yếu tố tiên quyết của một giáo viên chủ nhiệm. 1.2. Những biểu hiện của học sinh cá biệt 1.2.1. Qua lời nói Thường là các em ăn nói cộc lốc, thiếu Dạ - Thưa, ngôn ngữ tỏ ra vô lễ với thầy cô và người lớn. Trình bày vấn đề gì thường ấp a ấp úng, hay nói dối và tìm cách chạy tội. Do học yếu nên lời nói, lời viết không rõ ràng. Đối với bạn bè thường sử dụng lời nói tỏ vẻ người bề trên, ra vẻ hách dịch; lời nói có tính chất đe doạ, bắt nạt hù doạ học sinh khác; có khi sử dụng xảo ngôn để lừa đối bạn bè và thầy cô. 7
  8. 1.2.2. Qua cử chỉ hành động Học sinh cá biệt thường có những hành động thái quá, vô lễ. Trước mặt thầy cô thường tỏ ra lì lợm, ngang bướng, không biết vâng lời, thậm chí tỏ vẻ thách thức với thầy cô; có khi tỏ ra nghe lời nhưng giả dối. Với bạn bè thường có những hành động gây gỗ, đánh lộn nhau gây mất đoàn kết. Thường hay bắt nạt học sinh khác một cách vô cớ. Nghiêm trọng hơn là có những hành động vi phạm pháp luật như trộm cắp, đánh lộn hay bỏ học chơi la cà, lân la vào các quán,... 1.2.3. Qua quan hệ với bạn bè và người khác Học sinh cá biệt có những quan hệ bạn bè và người khác hết sức phức tạp. Đối với bạn bè tốt các em thường ngại tiếp xúc, tìm cách xa lánh, bởi sợ các bạn tố giác và phản ánh đến nhà trường, gia đình những điều mình sai phạm. Học sinh cá biệt thường tìm cách lôi kéo những học sinh hư hỏng khác vào cuộc để thành lập nên bè phái. Các em thường quan hệ với người xấu hoặc bị những người xấu lôi kéo làm những việc phạm pháp... 1.3. Phân loại học sinh cá biệt Học sinh “cá biệt” hiện nay biểu hiện rất phức tạp về tâm lí, qua quá trình giáo dục các em tôi thực hiện quan sát, trò chuyện và đã phân các đối tượng “ cá biệt” thành các nhóm nhỏ như sau: 1.3.1. Nhóm học sinh chậm tiến bộ, thường xuyên vi phạm - Về học tập và thực hiện nội quy: Nhóm học sinh này rất lười học, thường xuyên có các vi phạm như: trốn học, bỏ tiết, mất trật tự thường xuyên, vô lễ với thầy cô và cha mẹ. - Về phong trào: Đa số các em trong nhóm này rất thích tham gia các hoạt động ngoài giờ học như lao động, hoạt động ngoài giờ lên lớp… - Về gia đình và nhóm bạn: Nhóm học sinh này thường tham gia vào nhóm bạn có hoàn cảnh giống nhau như: khả năng học tập yếu hoặc trung bình, ít được sự động viên nhắc nhở từ phía gia đình. 1.3.2. Nhóm học sinh học lực khá, giỏi - Về học tập và thực hiện nội quy: Các em trong nhóm này đều có ý thức tự giác trong học tập, khả năng tư duy rất cao, nhưng lại thích chứng tỏ mình trước tập thể và bạn bè nên thường có các thái độ chống đối, phản đối giáo viên, cha mẹ. - Về phong trào: Các em tham gia phong trào khá tốt đặc biệt là các buổi tranh luận, thảo luận. - Về gia đình và nhóm bạn: Học sinh trong nhóm này thường có nhiều mối quan hệ bạn bè, rất ít khi chịu lắng nghe ý kiến của người lớn hoặc ít được 8
  9. sự quan tâm động viên nhắc nhở từ gia đình hoặc gia đình không cho học sinh làm theo những gì mà bản thân các em thích. 1.3.3. Nhóm học sinh không sống gần người thân Học sinh trong nhóm này thường rất khó tiếp xúc và tìm hiểu các em, các đối tượng này ít nói, ít cười thậm chí rất khó chịu khi nghe người khác nói về cha, mẹ hoặc gia đình, nhóm này có các trường hợp như mồ côi, cha mẹ li dị phải sống với ông bà. Các em rất ít tham gia các hoạt động tập thể mà thường thu mình để sống nội tâm, hành động theo cảm tính và không có mục đích rõ ràng cho mỗi hành động của mình cũng như hậu quả của mỗi việc làm đó. 1.4. Nguyên nhân dẫn đến học sinh cá biệt Như đã nêu, tâm lí học sinh được tác động “đa chiều” và trong lứa tuổi này sự biến đổi về mặt hình thái và sinh lí trong cơ thể của mỗi học sinh cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển về tâm lí ở tất cả các em, tuy nhiên mỗi học sinh có một cách cảm nhận về mỗi cách tác động làm cho mỗi em có những biến đổi tâm lí phức tạp của riêng bản thân mình. Sự cảm nhận của các em có thể là tích cực hoặc tiêu cực đối với cùng một vấn đề. Ví dụ: khi bị cha, mẹ mắng vì học kém học sinh có thể nhận ra khuyết điểm của mình để cố gắng học bài hoặc có thể các em nghĩ vì không thích học môn đó nên không học bài, các em tiếp tục không thuộc bài và xem như đó là cách để chứng tỏ bản thân mình. Chính sự cảm nhận khác nhau đó mà chúng ta rất khó phân loại nguyên nhân dẫn đến cá biệt, với tôi khi tìm hiểu về các em học sinh, tôi nhận thấy một số nguyên nhân như sau: 1.4.1. Từ gia đình Chính nhịp sống ngày càng nhanh của thời đại nhiều phụ huynh phải vất vả mưu sinh và công việc đã chiếm hết thời gian làm cho mối quan hệ gia đình trở nên xa hơn, các em bắt đầu có những khoảng thời gian rỗng (không có gì để làm, không có ai để chia sẻ), trong khoảng thời gian rỗng đó cảm thấy “cô đơn” từ đó, các em trở nên trầm lắng và sống như “người máy” có nghĩa là sáng đến trường, trưa về nhà ăn cơm, học bài, xem ti vi, ngủ. Chính sự “cô đơn” đó làm cho các em cần có người để chia sẻ và chọn cho mình một đối tượng hết sức quen thuộc đó là bạn học chung lớp để chia sẻ, từ đây nhóm bạn sẽ hình thành và bắt đầu cho những ngày “nhóm người máy thể hiện mình” bằng các buổi trốn học để đi chơi, uống rượu, hút thuốc, chơi game,… Gia đình là sự lạnh nhạt, thờ ơ đối với các em. Các em không biết phải làm gì khi cha và mẹ không ai bảo mình phải làm gì, gia đình nghĩ rằng các em không biết làm nên không cho các em tham gia vào bất cứ công việc nào của gia đình dù là nhỏ nhất, gia đình quan niệm rằng các em chỉ viêc học tập và cho các em đủ tiền để đến trường là xong trách nhiệm. Khi các em mắc phải các lỗi ở 9
  10. trường hay ở nhà thì phụ huynh cho là “tội” và bắt đầu trị tội bằng cách la mắng, đánh, thậm chí sử dụng những từ ngữ thô tục với các em., chính nguyên nhân này làm cho các em cảm thấy bị xúc phạm, hoặc cảm thấy cha mẹ không thương mình, Chính sự cảm thấy như vậy mà các em có những thái độ như không thích nói chuyện với cha mẹ, thầy cô, vì “người lớn” chỉ la mắng , sỉ vả các em. Suy nghĩ và hành động tự tách rời gia đình này rất dễ làm cho các em bị sa ngã bởi nhóm bạn xấu và các em trở nên “cá biệt”. Một số gia đình kinh tế khá, họ chăm lo cho các em đầy đủ tất cả những gì các em cần, nhưng do thương con nên không thường xuyên nhắc nhở, ngại nói chuyện hoặc thảo luận với các em, thậm chí ngay từ những lỗi đầu tiên các em mắc phải phụ huynh không nhắc nhở vì “ngại” và nhiêu lần phạm lỗi sau đó cũng được “hóa không” làm cho các em không còn điểm tựa, không có phương hướng phát triển đúng đã đưa đến sự sai phạm nghiêm trọng và lúc này gia đình dành chấp nhận “bó tay” hoặc gọi đứa con của mình là “ không còn thuốc trị”. Một số học sinh chỉ biểu hiện “cá biệt” khi gia đình có sự bất hòa giữa cha và mẹ, khi tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình thì đa số học sinh cá biệt cho biết là cha mẹ đã li dị, sự bất hòa của gia đình làm các em mất niềm tin vào cuộc sống, các em tự xem mình là gánh nặng cho cha hoặc mẹ hoặc có các suy nghĩ tiêu cực như “ta không còn gì để mất” làm cho các em có ý định “trả thù” bằng các hành vi như quậy phá, vào trường vi phạm, đánh nhau, lôi kéo bè phái, vô lễ với thầy cô. 1.4.2. Từ phía nhà trường Mỗi giáo viên trong nhà trường được xem là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo, học sinh luôn để ý từng hành động, cử chỉ, lời nói của giáo viên để có nhận xét và hình thành sự “tôn sư” cho mình, biết được điều đó mỗi thầy cô giáo khi đứng trước lớp đều rất thận trọng về lời nói và cử chỉ kể cả trang phục, tuy nhiên trong quá trình đứng lớp các tình huống sư phạm có thể xảy ra bất cứ lúc nào và việc ứng xử của mỗi giáo viên trong từng trường hợp cụ thể luôn khác nhau và chỉ cần một ứng xử thiếu khéo léo hoặc tế nhị thì học sinh đặc biệt là học sinh cá biệt lợi dụng để đả phá, công kích thậm chí là thù ghét. Nếu mâu thuẫn trên đã phát sinh giáo viên thường ngại không nhận khuyết điểm hoặc cố tình lấp bỏ khuyết điểm đó bằng cái gọi là “thầy” hoặc “cô” thì sự phản ứng của những học sinh này càng gay gắt và phức tạp hơn . Ngoài ra tại nhà trường học mỗi học sinh còn được tiếp nhận những tác động khác từ bạn bè cùng lớp và khác lớp, các em có thể thần tượng giáo viên của mình vì những bài giảng tốt, những ứng xử tốt,… thì các em vẫn có thể thần tượng một bạn học của mình vì những điều mà bản thân học sinh đó nghĩ là hay và giỏi hơn mình nhưng có thể đó là thần tượng tích cực về khả năng học tập, quản lí lớp, hoạt động phong trào tốt cũng có thể thần tượng đó được mọi người xem là “sành điệu” hoặc “gan lì”,… 10
  11. Tại nhà trường biểu hiện cá biệt được bộc lộ không chỉ ở dạng tiềm tàng mà nó còn được bộc lộ nhanh chóng nhiều khi chớp nhoáng mà giáo viên không thể ngờ trước được, biểu hiện đó nhằm trả lời lại các tác động từ ngoại cảnh khách quan lên cá thể chủ quan của học sinh nhằm chống trả lại những chủ thể tác động. 1.4.3. Từ xã hội Ngoài các mối quan hệ tại nhà trường gia đình thì các em đều có các mối quan hệ rộng lớn từ xã hội. Với sự bùng nổ về công nghệ thông tin và truyền thông các em có được nhiều khái niệm mới, nhiều bài học mới về cách ứng xử, giao tiếp và bạn bè,… chính vì vậy mà không có một khuôn khổ nào để giới hạn các em tìm hiểu về thế giới, các em tự do hơn khi ở trường và ở nhà, các em cảm thấy thoải mái và vui vẻ khi được bạn bè khen rằng “chịu chơi”, “sành điệu”… và các mối quan hệ tình cảm bắt nguồn từ các bộ phim mà các em xem được ở đâu đó để rồi các em muốn sống như các nhân vật trong phim. Các em tự biến mình vào một hoàn cảnh thương tâm nào đó để rồi diễn lại vai diễn đó một cách máy móc. Sự du nhập của nhiều nền văn hóa như ngày nay làm cho tuổi trẻ các em không chọn lọc các em làm theo, sống theo một cách máy móc, các em đã quên đi “bản sắc văn hóa đậm đà” của dân tộc Việt Nam. Các em có xu hướng sống theo các nền văn hóa mới du nhập để rồi đắm mình trong sự “sống không có mục đích” và sống một cách lạnh lùng đơn độc ngay trong ngôi nhà có đủ cha và mẹ, rồi các em lại trách rằng không ai quan tâm đến mình, không ai thương mình. Quá trình giao tiếp với xã hội, sự non nớt của các em đã bị lợi dụng, kích động, mê hoặc nhằm phá hoại của một số đối tượng xấu và thực hiện theo các yêu cầu của các đối tượng đó mà không biết điều đó đúng hay sai, hậu quả của nó như thế nào. 1.4.4. Từ bản thân các em Ở độ tuổi thanh thiếu niên các em có nhiều sự biến đổi về tâm - sinh lí hết sức phức tạp đặc biệt là sự tham gia của các hoocmon sinh dục, chính vì vậy mà đôi khi các em cáu gắt với bố mẹ, thầy cô hay bạn bè mà ngay sau đó các các em cũng biết rằng mình vừa phạm lỗi. sự thay đổi này cũng là nguyên nhân cho những tình cảm đầu tiên trong lòng các em và các em xem đó là tình yêu. Tình cảm này có thể xuất phát từ một phía hoặc có thể được sự đồng tình từ hai phía nhưng nhìn chung nó chỉ là những cái nhìn cảm mến nhau, những mẫu giấy nhỏ truyền tay hay những tin nhắn với những nội dung pha trộn giữa “con nít” và “người lớn” nhưng nếu gia đình, nhà trường không khéo phân tích mà cương quyết ngăn chặn sẽ làm cho các em cảm thấy bị xúc phạm, các em bắt đầu suy diễn và chống cự bằng nhiều hình thức như vô lễ, bỏ học,… 11
  12. 2. Cơ sở thực tiễn Trường THPT Đông Hiếu chúng tôi nằm trên một địa bàn khá phức tạp gần đường quốc lộ 48, giao giữa hai xã: Đông Hiếu và Nghĩa Thuận của Thị xã Thái Hòa, có thể nói là điểm đến của bất cứ các loại hình văn hoá, các thành phần kinh tế, các thành phần trong xã hội dễ lôi kéo học sinh. Số lượng học sinh toàn trường khá đông, mỗi năm trên một nghìn học sinh nên việc quản lí học sinh gặp nhiều vất vả, khó khăn. Năm nào cũng có đối tượng học sinh cá biệt. Thành phần kinh tế của phụ huynh cũng đa dạng. Một số phụ huynh có điều kiện kinh tế khá, có tâm lí chiều con không đúng cách nên các em dễ hư hỏng; có phụ huynh lo việc buôn bán không quan tâm đến việc học hành con cái nên có em lêu lổng ăn chơi; có nhiều gia đình nghèo quá khó khăn , học sinh có sức học yếu nên chán học lại bị bạn bè rủ rê lôi kéo dẫn đến bỏ học đi chơi... Các dịch vụ kinh doanh trò chơi giải trí như: Điện tử, Chát, Game, Bida... mọc lên rất nhiều là những điểm thu hút học sinh hư hỏng, làm cho các em đam mê bỏ học, thậm chí còn nẩy sinh những hành động lấy cắp vặt trong lớp,... 2.1.Thực trạng chung về công tác giáo dục học sinh cá biệt ở các trường THPT hiện nay + Thuận lợi Cùng với những bước chuyển mình của xã hội hiện đại, của thời kì công nghệ 4.0, lĩnh vực giáo dục Việt Nam đã có những bước tiến dài. Đặc biệt, chúng ta đã có những bước đi đúng đắn khi chú trọng việc dạy chữ song hành với việc dạy người. Cùng với đổi mới chương trình và phương pháp giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá, ngành giáo dục đã có nhiều đổi mới về công tác chủ nhiệm. GVCN có trình độ đạt chuẩn, có tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt tình với học sinh. Đội ngũ GVCN nhìn chung đã nhận thức đúng đắn vai trò của người thầy đối với quá trình giáo dục, hình thành thành nhân cách của học sinh. Họ có khả năng nắm bắt được mục tiêu, kiến thức giáo dục, dạy tốt lớp phụ trách, lập được kế hoạch chủ nhiệm lớp. Ban giám hiệu các trường THPT đã quan tâm đến công tác chủ nhiệm lớp thông qua các việc: Chỉ đạo giáo viên lập kế hoạch chủ nhiệm, duyệt và góp ý cho giáo viên về kế hoạch chủ nhiệm đều đặn, giao chất lượng giáo dục học sinh cho giáo viên, định ra các tiêu chí thi đua cho các lớp và cho giáo viên, khen thưởng cho giáo viên đạt thành tích lao động tiên tiến, lao động suất sắc, lớp tiên tiến, lớp suất sắc, học sinh đạt thành tích trong năm học. Đồng thời nhà trường đã luôn chú ý kết hợp với các tổ chức đoàn thể trong trường để tổ chức cho các em tham gia các phong trào như quyên góp ủng hộ, tổ chức phong trào thể thao giữa các khối vào dịp các ngày lễ,...giúp học sinh nâng cao ý thức đạo đức ngày càng cao. 12
  13. + Khó khăn Tuy nhiên, một số hiện tượng tiêu cực vẫn diễn ra trong ngành giáo dục nước nhà khiến chúng ta phải trăn trở, quan tâm nhiều hơn đối với công việc: “ trồng người” nhất là trong việc giáo dục đạo đức học sinh nói chung và học sinh cá biệt nói riêng, bồi dưỡng cho các em lý tưởng, quan điểm sống đúng đắn. Có nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan từ phía gia đình và xã hội khiến cho đôi lúc uy tín người thầy bị sa sút, các giá trị truyền thống “Tôn sư trọng đạo” bị nhìn nhận một cách méo mó, bị vật chất hóa, thực dụng; có trường hợp người thầy không giữ được tư cách đáng kính trọng trong quan hệ thầy trò. Đâu đó, còn có những hiện tượng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, thích chạy theo lối sống thực dụng, vô cảm, thờ ơ,...Điều đó đã có tác dụng trực tiếp đến việc hình thành và phát triển nhân cách người học, đến an ninh trật tự xã hội. Nhiều vụ việc về bạo lực học đường (đánh bạn, bắt bạn quỳ để dằn mặt,...), xâm hại tình dục, suy đồi đạo đức, lối sống của học sinh,...diễn ra trong thời gian gần đây ngày càng nhiều đã làm cho xã hội nhức nhối, chúng ta đau lòng và thực sự lo lắng về vấn đề giáo dục đạo đức cũng như phẩm chất và năng lực cho học sinh. Có nhiều giải pháp đã được đề cập đến trong những sáng kiến trước đây liên quan đến công tác công tác chủ nhiệm. Tuy nhiên giải pháp để gắn liền với việc giáo dục học sinh cá biệt chưa được chú trọng, vẫn còn tản mạn, cảm tính và chưa mang tính xây dựng một cách hệ thống, toàn diện. Công tác tư vấn, hỗ trợ tâm lý cho các em học sinh, bản thân nhiều GVCN còn hời hợt, còn thờ ơ. Bên cạnh đó, nhiều GVCN chưa chú trọng đổi mới cách thức chủ nhiệm một cách hiệu quả, thiết thực. Vẫn còn tình trạng GVCN lên lớp một cách miễn cưỡng, chủ yếu tiến hành công tác chủ nhiệm theo lối cũ nhàm chán: chỉ giải quyết thủ tục hành chính và xử lí kỉ luật học sinh. GVCN không truyền được động lực, hứng thú học tập, rèn luyện cho các em. Với sự đổi mới về giáo dục hiện nay, GVCN phải giáo dục học sinh phải bằng tình yêu thương của mình, không được phê bình học sinh trước lớp, trước trường, không dùng bạo lực với học sinh,...một số học sinh cá biệt dựa vào đó mà không nghe lời GVCN, phụ huynh học sinh bênh vực con, vì thế mà GVCN gặp rất nhiều khó khăn trong việc giáo dục học sinh nói chung và học sinh cá biệt nói riêng. Đứng trước thực trạng đó, tôi thiết nghĩ cần phải có những giải pháp để đổi mới công tác chủ nhiệm lớp nhằm góp phần thành công về giáo dục học sinh cá biệt trong trường THPT hiện nay một cách nghiêm túc, hệ thống toàn diện và mang tính khả thi cao. Trước những thực trạng chung của công tác giáo dục học sinh cá biệt và thấy được tính cấp bách của nó, năm 2016-2017, chúng tôi đã điều tra 50 giáo viên của ba trường đó là THPT Tây Hiếu, THPT Thái Hòa, THPT 1/5 và 110 13
  14. học sinh ở ba trường trên địa bàn thị xã Thái Hòa và huyện Nghĩa Đàn( thuộc các lớp 10C4 ở trường THPT Thái Hòa, lớp 11C3 ở trường THPT 1/5 và lớp 10C5 ở trường THPT Tây Hiếu) để biết được nhận thức của giáo viên và học sinh THPT về vai trò của công tác chủ nhiệm lớp đối với giáo dục học sinh cá biệt. Chúng tôi đã tiến hành phát phiếu điều tra giáo viên và học sinh với nội dung câu hỏi như sau: Bảng 1. Câu hỏi dành cho giáo viên Câu hỏi Câu trả lời Tần số Tỉ lệ % Câu 1: Theo thầy(cô), việc Không quan trọng 3 6 giáo dục học sinh cá biệt thông qua công tác chủ nhiệm Bình thường 11 22 có quan trọng không? Quan trọng 36 72 Câu 2: Thầy(cô) đã tìm được Chưa có giải pháp 28 56 giải pháp gì để đổi mới công tác chủ nhiệm góp phần thành Đã tìm ra giải pháp nhưng 20 40 công trong việc giáo dục học chưa hiệu quả sinh cá biệt? Đã tìm ra giải pháp và thực hiện có hiệu quả 2 4 Qua phiếu điều tra dành cho giáo viên thì nhiều giáo viên chủ nhiệm đã quan tâm và tìm ra các biện pháp giáo dục học sinh cá biệt, tuy nhiên số biện pháp tìm ra và thực hiện có hiệu quả chưa nhiều. Thiết nghĩ GVCN chúng ta phải thay đổi cách cách suy nghĩ, các phương pháp giáo dục học sinh cũng như học sinh cá biệt. GVCN phải làm việc với tâm huyết cao thì mới giáo dục được học sinh một cách toàn diện về mọi mặt. Bảng 2: Câu hỏi dành cho học sinh Theo em, công tác chủ nhiệm lớp có vai trò quan trọng trong việc giáo dục học sinh cá biệt không? Câu trả lời Tần số Tỉ lệ % Hoàn toàn không có ý nghĩa 3 2,7% Không quan trọng 7 6,4% Bình thường 30 27,3% Quan trọng 50 45,5% Rất quan trọng 20 18,1% Tổng 110 100% 14
  15. 2.2. Thực trạng về công tác giáo dục học sinh cá biệt của GVCN tại trường THPT Đông Hiếu trong giai đoạn hiện nay 2.2.1. Một vài nét về đặc điểm tình hình của trường THPT Đông Hiếu + Thuận lợi: -Trường THPT Đông Hiếu trước đây là phân hiệu 2 của trường cấp 3 Nghĩa đàn và nay là cấp 3 Thái Hòa. Tháng 9 năm 2001, trường được chính thức thành lập. Với sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Giám Hiệu và toàn thể cán bộ, giáo viên nhà trường thông qua các thời kì, trường đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Ban giám hiệu là một tập thể lãnh đạo nhất trí năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, kiểm tra đánh giá sâu sát, thực chất và luôn luôn chủ động điều chỉnh để kế hoạch kịp thời sát với thực tế. Đội ngũ giáo viên luôn đoàn kết, nhiệt tình, có trách nhiệm, yêu nghề, chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục, có tinh thần chia sẻ và hợp tác với đồng nghiệp, có ý thức đổi mới phương pháp giảng dạy và công tác chủ nhiệm lớp. Học sinh chủ yếu là con em nông thôn, chịu khó, chăm chỉ, yêu lao động, sống giản dị và cơ bản có ý chí vươn lên trong học tập và rèn luyện. Trường có khuôn viên rộng với tổng diện tích trên 1500 m2, có hệ thống tường rào được xây kiên cố, khu hiệu bộ, các phòng học, phòng chức năng được bố trí hợp lí, cảnh quan hài hòa, tạo môi trường xanh, sạch, đẹp và thân thiện. Hiện tại trường có 28 lớp với trên 1000 học sinh và 30 phòng học đủ tiêu chuẩn, đảm bảo cho học một ca. Ngoài các phòng học văn hóa, trường có đủ các phòng thực hành thí nghiệm Vật lý, Hóa học, Sinh học - Công nghệ, sân bóng chuyền, bóng rổ, cầu lông,...Năm học 2020 - 2021, trường được công nhận là trường chuẩn quốc gia. + Khó khăn: Chất lượng học sinh đầu cấp còn thấp, thái độ - ý thức - động cơ học tập và rèn luyện của một bộ phận học sinh chưa cao. Gia đình học sinh cơ bản khó khăn, thiếu thốn về điều kiện vật chất vì hoàn cảnh gia đình các em đều là con nông thôn, gia đình hộ nghèo và cận nghèo. Một số gia đình học sinh có điều kiện nhưng nuông chiều con làm cho con hư hỏng,...Một số giáo viên trẻ có nhiệt tình nhưng thiếu kinh nghiệm trong giảng dạy và giáo dục, chủ nhiệm học sinh.Vẫn còn một số giáo viên có sức ỳ lớn, ít chịu khó học hỏi, đổi mới, chưa bắt nhịp được với yêu cầu của thời đại. Vẫn còn tình trạng học sinh bỏ học, học lực yếu, nhiều học sinh chư phát huy tốt khả năng tự học, tự rèn luyện phẩm chất đạo đức, một số em còn bị bạn bè lôi kéo và sa vào những cám dỗ của mạng xã hội, vấnđề giáo dục học sinh cá biệt chưa thực sự quan tâm, chú ý nhiều. 15
  16. 2.2.2. Những ưu điểm, hạn chế trong việc giáo dục học sinh cá biệt thông qua công tác chủ nhiệm ở trường THPT Đông Hiếu 2.2.2.1. Ưu điểm Trong những năm qua, Ban giám hiệu nhà trường luôn chú trọng chỉ đạo việc dạy chữ song hành với việc dạy người. Đội ngũ GVCN lớp nhiệt tình, tâm huyết, đã chú trọng đến việc giáo dục đạo đức, rèn luyện nhiều kĩ năng quan trọng cho học sinh. Đặc biệt các thầy/ cô chủ nhiệm luôn có sự kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường để tổ chức cho học sinh trải nghiệm, phát triển một số phẩm chất quan trọng. 2.2.2.2. Hạn chế Phẩm chất và năng lực của học sinh cá biệt được thể hiện qua: hoạt động cá nhân, hoạt động tập thể, mối quan hệ với các thầy cô, cách xử lý các tình huống trong cuộc sống,...Tuy nhiên, trong công tác chủ nhiệm lớp, GVCN chưa thực sự chú trọng việc giáo dục học sinh cá biệt một cách hệ thống, đồng bộ, cụ thể và thiết thực. Kế hoạch chủ nhiệm còn chung chung, phương pháp chủ nhiệm chưa thực sự đổi mới, cách thức tiến hành công tác chủ nhiệm (điều hành tổ chức lớp học, họp phụ huynh, sinh hoạt giờ chủ nhiệm, cách thức kết hợp với giáo viên bộ môn, các tổ chuyên môn và các tổ chức trong nhà trường,...) chưa thực sự chặt chẽ, hiệu quả. Đôi lúc còn nặng nề tính hình thức và áp lực thành tích, chưa chú ý đến sự khuyến khích, động viên, uốn nắn với những tiến bộ dù rất nhỏ của học sinh cá biệt trong lớp chủ nhiệm. Giờ sinh hoạt chỉ một mục đích là để chỉ trích, phê bình, nhắc nhở học sinh vi phạm. Một số giáo viên chỉ dựa vào sổ đầu bài, từ đó lo truy tìm lỗi học sinh vi phạm để dọa nạt các em. Đến giờ chủ nhiệm học sinh chỉ thấy lo sợ, chán ghét, thậm chí còn thấy ức chế, nặng nề. Giáo viên nhận thức chưa toàn diện, đầy đủ về công tác chủ nhiệm. Khi được phân công chủ nhiệm lớp thì công việc tìm hiểu nhân cách, tâm lý, hoàn cảnh của một số học sinh ở một số giáo viên còn xem nhẹ. Qua loa chiếu lệ. Công tác phối hợp với lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường còn thiếu đồng bộ, không chặt chẽ. Giáo viên chưa quan tâm nhiều đên việc giáo dục toàn diện cho học sinh. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, các tiết chủ nhiệm lớp, sinh hoạt tập thể chưa được chú trọng đúng mức. Một số em lười học, ý thức tổ chức kỉ luật chưa cao. Một số phụ huynh còn mang tư tưởng “khoán trắng” cho nhà trường. Họ coi việc giáo dục học sinh là trách nhiệm của nhà trường, của các thầy cô. Đa số phụ huynh không có thời gian quản lý, kiểm tra đôn đốc nhắc nhở việc học hành của con em mình. Hơn nữa, việc giáo dục học sinh cá biệt thông qua công tác chủ nhiệm còn hết sức hạn chế hoặc nếu chú ý thì GVCN còn đang thực hiện một cách cảm tính, mơ hồ, chưa có tính chiến lược, hệ thống và bền vững. 16
  17. Qua khảo sát 180 học sinh, trong đó 60 học sinh khối 10, 60 học sinh khối 11, 60 học sinh khối 12 được lựa chọn ngẫu nhiên của trường THPT Đông Hiếu trong năm học 2116 - 2017: Câu hỏi: Em có hứng thú với các hoạt động của lớp không? Số câu trả lời Khối Chưa bao giờ Thỉnh thoảng Thường xuyên Khối 10 13 38 9 Khối 11 10 44 6 Khối 12 18 35 7 Riêng lớp 11C5 năm học 2016 - 2017 mà bản thân tôi chủ nhiệm, tôi cũng tiến hành khảo sát, với số lượng 34 học sinh thì thu được kết quả như sau: Câu hỏi Số câu trả lời Câu 1 Chưa bao giờ Thỉnh thoảng Thường xuyên 4 27 3 Không Ít Nhiều Câu 2 7 25 2 17
  18. Câu hỏi: Lớp em có nhiều hình thức tổ chức trong giờ chủ nhiệm lớp để bản thân em được trải nghiệm không? Số câu trả lời Khối Không Ít Nhiều 6 Khối 10 16 38 Khối 11 12 42 6 Khối 12 15 35 10 Câu hỏi: Theo em công tác chủ nhiệm lớp có vai trò quan trọng trong việc góp phần giáo dục học sinh cá biệt không? Câu trả lời Tần số Tỉ lệ Hoàn toàn không đồng ý 1 2,9% Không quan trọng 3 8,8% Bình thường 22 64,7% Quan trọng 6 17,7% Rất quan trọng 2 5,9% Tổng 34 100% Từ những khảo sát trên chúng tôi nhận thấy: Công tác chủ nhiệm lớp (ngay cả bản thân tôi trong năm học 2016 - 2017) vẫn chưa được đầu tư thời gian, công sức và chưa chú trọng đổi mới nhiều về nội dung và hình thức sinh hoạt. Trong đó về vấn đề giáo dục học sinh cá biệt chưa được quan tâm thích đáng, sâu sắc và cụ thể đặc biệt là thông qua giờ chủ nhiệm. GVCN mới chỉ lên lớp để đảm bảo đúng số tiết, đúng thời lượng của kế hoạch nhà trường. Các hoạt động tiến hành một ách miễn cưỡng, gượng ép theo nghĩa vụ mà chưa khơi dậy 18
  19. được hứng thú cho học sinh (đặc biệt đối với học sinh cá biệt) và chưa tận dụng hết thời gian, tiềm năng vốn có của cả GVCN và học sinh để tạo được hiệu quả giáo dục cao nhất. Đặc biệt là công tác tư tưởng, tâm lý học sinh để giải đáp, tư vấn những vấn đề tế nhị trong đời sống tinh thần của các em như về tình bạn, tình yêu, sức khỏe vị thành niên,...chưa được quan tâm. Vấn đề bạo lực học đường, cách ứng xử văn hóa với môi trường xung quanh và trên mạng xã hội, vấn đề tự vệ, lên tiếng trước những hiện tượng xấu,...hầu như chưa được đề cập đến hoặc có đề cập đến nhưng chưa có chiều sâu và chưa có hiệu quả rõ nét. 3. Một số giải pháp giáo dục học sinh cá biệt của GVCN tại trường THPT nói chung và trường THPT Đông Hiếu hiện nay 3. 1. Nguyên tắc đề xuất giải pháp - Phải hình thành, phát triển được nhân cách của học sinh cá biệt Phẩm chất và năng lực là hai thành phần chủ yếu cấu thành nhân cách con người. Mặt khác, nhân cách được xem là một chỉnh thể thống nhất giữa hai mặt phẩm chất và năng lực (đức và tài). Trong quá trình giáo dục, dạy học phát triển phẩm chất năng lực người học là một phương pháp dạy học ưu thế hướng người học tiếp cận gần hơn tới sự phát triền nhân cách của mình. Chính vì vậy, trong quá trình lựa chọn các giải pháp giáo dục học sinh cá biệt, chúng tôi nhận thấy cần áp dụng các giải pháp phát huy cao nhất các yếu tố hình thành, phát triển nhân cách của học sinh cá biệt, đảm bảo tính tự nhiên trong phát triển con người và nâng cao năng lực tự chủ của mỗi cá nhân. - Đảm bảo quan điểm giáo dục theo phương pháp sư phạm tương tác Trong quá trình học tập ở trường THPT, mỗi học sinh không chỉ phải tự mình chiếm lĩnh hệ thống trí thức, kĩ năng mà còn cần hội tụ đủ khả năng vươn lên thích ứng với những yêu cầu do thực tiễn xã hội và cách mạng khoa học, công nghệ đặt ra. Thông tư số 13/2012/TT-BGDĐT ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá trường học trung học phổ thông và trường trung học phổ thông có nhiều cấp học, đưa ra tiêu chuẩn về hoạt động giáo dục học sinh cũng chỉ ra: Giáo dục kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng ứng phó, kiềm chế, kĩ năng hợp tác và kĩ năng hoạt động theo nhóm cho học sinh; Giáo dục, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh thông qua giáo dục ý thức chấp hành luật giao thông, cách tự phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác, thông qua việc thực hiện các quy định về cách ứng xử có văn hóa, đoàn kết, thân ái, giúp đỡ lẫn nhau, phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh. Từ quan điểm trên, chúng tôi tiến hành các biện pháp giáo dục học sinh (đặc biệt là học sinh cá biệt) trên tinh thần tôn trọng quan điểm, cá tính của từng học sinh. Giáo dục học sinh phải linh hoạt, tạo được sự tương tác, không giáo dục một chiều, máy móc, rập khuôn. - Đảm bảo tính hoạt động thực tiễn giáo dục tại trường THPT Đông Hiếu 19
  20. Các giải pháp đề xuất cho việc giáo dục học sinh cá biệt phải được thực thi trong thực tiễn hoạt động trải nghiệm tiến hành ở trường THPT Đông Hiếu. Bởi thế, các giải pháp này phải đáp ứng mục tiêu giáo dục học sinh cá biệt phù hợp với giáo dục của nhà trường cũng như giáo dục hiện nay. Các giải pháp phải phù hợp với điều kiện của nhà trường, đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, đảm bảo tính hiện đại, thiết thực, hài hòa, phù hợp về nội dung, phương pháp chủ nhệm, tạo điều kiện để học sinh phát triển một cách toàn diện cả và trí thức và đạo đức. 3.2. Một số giải pháp giáo dục học sinh cá biệt đã được áp dụng GVCN trở thành người trung gian trao đổi thông tin giữa Nhà trường và gia đình, thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội và truyền đạt những chủ trương của Nhà trường đến gia đình đồng thời thu nhận ý kiến, nguyện vọng của gia đình để báo cáo lại với lãnh đạo Nhà trường. Qua đó gắn kết được trách nhiệm giữa Nhà trường và gia đình trong việc giáo dục học sinh cá biệt. Khi chủ nhiệm lớp, người GVCN cần phải nắm vững quyền hạn và trách nhiệm của mình theo Luật giáo dục; điều lệ trường THPT và trường THPT có nhiều cấp học. Đồng thời người GVCN cần phải xác định được vai trò, vị thế của mình trong nhiệm vụ giáo dục học sinh (đặc biệt là học sinh cá biệt) lớp mình được phân công làm chủ nhiệm lớp. Công tác chủ nhiệm là tổng thể hàng loạt những công việc liên quan đến khâu quản lý, tổ chức, điều hành, giám sát, kiểm tra, đưa ra kế hoạt hoạt động cho một tập thể học sinh trong một lớp nhất định. Quy trình giáo dục học sinh( học sinh cá biệt) là một quy trình mang tính toàn diện và thống nhất từ: Lập kế hoạch đến tổ chức thực hiện; chỉ đạo; kiểm tra, đánh giá kết quả; là sự kết hợp giữa các tổ chức, cá nhân nhà trường - gia đình và xã hội. Thông thường, hoạt động của một GVCN bao gồm: Một là, tìm hiểu, nắm vững hoàn cảnh, tính cách cụ thể của từng học sinh lớp mình chủ nhiệm. Hai là, biết quan tâm, lắng nghe suy nghĩ của học sinh. Ba là, phân chia tổ và phân công nhiệm vụ cho các em một cách cụ thể, hợp lý, rõ ràng. Bốn là, xây dựng một bộ quy tắc ứng xử và nội quy của lớp một cách đầy đủ, chi tiết, phù hợp để giáo dục tính kỉ luật và cách ứng xử văn hóa cho học sinh. Năm là, lên kế hoạch cụ thể, hợp lý cho lớp chủ nhiệm theo cả năm học, từng kì học, từng tháng và từng tuần. Sáu là, phối hợp với giáo viên bộ môn thường xuyên uốn nắn, giúp đỡ, giáo dục học sinh cả về kiến thức và đạo đức, lối sống. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2