
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh THPT qua môn Ngữ văn
lượt xem 6
download

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Một số giải pháp rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh THPT qua môn Ngữ văn" nhằm đề xuất giải pháp phát triển năng lực nói trong giờ Ngữ văn cho học sinh trung học phổ thông.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh THPT qua môn Ngữ văn
- SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT CHUYÊN PHAN BỘI CHÂU TỔ: NGỮ VĂN … …..……….***……………. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ GIẢI PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH THPT QUA MÔN NGỮ VĂN. Người thực hiện: Nguyễn Thị Giang Chi Lê Lương Tâm Nguyễn Thị Hoài An Tổ chuyên môn: Ngữ văn SĐT: 0915 488366 Vinh tháng 4/2023
- A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lí do chọn đề tài Hiện nay, các nước trên thế giới rất coi trọng dạy học theo quan điểm giao tiếp. Đây là một trong những tư tưởng quan trọng của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở trường phổ thông, lấy hoạt động giao tiếp là một trong những căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết. Nếu như nghe, đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin, thì nói và viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường. Điểm khác biệt lớn nhất của Chương trình GDPT 2018 so với Chương trình GDPT 2006 là sự chuyển hướng hoàn toàn từ chương trình coi trọng truyền đạt kiến thức sang chương trình chú trọng phát triển phẩm chất và năng lực, lấy các kĩ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết làm trục chính. Trong đó, Chương trình GDPT 2018 đã quy định rõ thời lượng dành cho hoạt động nói và nghe là 10% số tiết của năm học. Lộ trình dạy học kĩ năng nói và nghe trong chương trình có sự nhất quán, liên tục cả ba cấp học. Ở cấp THPT, Chương trình định hướng người dạy tiếp tục phát triển các năng lực đã hình thành ở cấp trung học cơ sở với các yêu cầu cần đạt cao hơn: Nói và nghe linh hoạt; có khả năng nghe và đánh giá được nội dung cũng như hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có chủ kiến, cá tính, có thái độ tranh luận phù hợp… Chương trình GDPT 2018 quy định cụ thể về các kĩ năng cần đạt trong học tập nói và nghe ở cấp phổ thông như sau: Kĩ năng nói yêu cầu về âm lượng, tốc độ, sự liên tục, cách diễn đạt, trình bày, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ, phương tiện hỗ trợ khi nói,...; Kĩ năng nghe yêu cầu về cách nghe, cách ghi chép, hỏi đáp, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ khi nghe, nghe qua các phương tiện kĩ thuật,…; Kĩ năng nói và nghe tương tác gồm các yêu cầu về thái độ, sự tôn trọng nguyên tắc hội thoại và các quy định trong thảo luận, phỏng vấn,… Kĩ năng nói (KNN) được đánh giá là phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển năng lực (NL) giao tiếp bằng một ngôn ngữ của mỗi người. Cùng với kĩ năng
- (KN) nghe, KNN được xác định là một trong những KN cơ bản của thế kỉ XXI. Erik Palmer đã thống kê cách chúng ta sử dụng thời gian giao tiếp: Viết: 9%, Đọc: 16%, Nói: 30%, Nghe: 45%. Như vậy, chúng ta sử dụng 3/4 thời gian giao tiếp cho việc nghe và nói. Việc thiếu hụt KNN trong các hoạt động giao tiếp sẽ là một cản trở rất lớn đối với mỗi người trong xã hội. Nói là khả năng diễn đạt lời nói dưới dạng âm thanh, thể hiện ở việc người nói dùng khẩu ngữ để truyền đạt thông tin, biểu đạt tư tưởng, tình cảm một cách chính xác, sinh động, có sức thuyết phục. Làm chủ được KNN sẽ giúp người nói tạo ra mối quan hệ tốt đẹp trong giao tiếp, tự khẳng định mình và là công cụ tạo ảnh hưởng với người khác. “Một trong những hình thức gây tổn thương phổ biến và rõ ràng nhất là không lắng nghe khi người khác đang cố nói điều gì đó với bạn” (Karen Casey). Muốn cho người nghe hiểu cho được thì người nói phải nói cho tốt, có nghĩa là nói phải mạch lạc,logic, phải bảo đảm các qui tắc hội thoại, phải chú ý đến các cử chỉ, nét mặt, âm lượng… Vì thế, rèn luyện và phát triển kĩ năng nói là việc rất quan trọng trong quá trình dạy- học văn, là biện pháp góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của giờ dạy học Ngữ văn. Có kĩ năng nói tốt sẽ giúp người học có được một công cụ giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống xã hội. Tuy nhiên, hiện nay, một bộ phận học sinh (HS) trung học còn yếu về kĩ năng nói. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, trong đó có một thực tế là bản thân giáo viên chưa chú ý đến rèn kĩ năng nói cho học sinh. Chương trình giáo dục phổ thông thể hiện sự quan tâm nhất định đến việc phát triển toàn diện các KN hoạt động lời nói cho người học, trong đó có kĩ năng nói. Bởi vậy, cần thiết có một sự nhìn nhận thỏa đáng và có những nghiên cứu thiết thực để tìm ra những cách thức dạy học (DH) kĩ năng nói hiệu quả cho HS. Đó là lí do chúng tôi lựa chọn đề tài: Đề xuất giải pháp phát triển năng lực nói trong giờ Ngữ văn cho học sinh trung học phổ thông. II. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu 1. Phạm vi nghiên cứu: Một số giải pháp rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh THPT qua môn Ngữ văn. 2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp khảo sát, thống kê - Phương pháp so sánh
- - Phương pháp phân tích III. Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm B. NỘI DUNG I. Cơ sở của đề tài 1. Cơ sở lý luận 1.1 Khái niệm “ngôn ngữ nói” Theo Nguyễn Quang Uẩn, “ngôn ngữ nói là ngôn ngữ hướng vào người khác là chủ yếu biểu hiện bằng âm thanh và được tiếp thu bằng cơ quan phân tích thính giác” 1. Ngôn ngữ nói là hình thức cổ sơ nhất của lịch sử loài người. Trong sự phát sinh cá thể, ngôn ngữ nói cũng có trước. Ngôn ngữ nói có hai loại: - Ngôn ngữ đối thoại: Là loại ngôn ngữ giữa hai hay một số người với nhau. Loại ngôn ngữ này có những đặc điểm tâm lí riêng: trong quá trình đối thoại có sự thay đổi vị trí và vai trò của mỗi bên, chính sự thay đổi này có tác dụng hỗ trợ, giúp cho hai bên dễ hiểu nhau hơn, người nói và người nghe luôn được gặp mặt trực tiếp (nếu là đối thoại trực tiếp). Ngoài tiếng nói ra còn có phương tiện hỗ trợ cho ngôn ngữ như: cử chỉ, điệu bộ, nét mặt (nếu là đối thoại gián tiếp thì không có đặc điểm này). Do đó, người nói có thể trực tiếp thấy được phản ứng của người nghe, từ đó có thể điều chỉnh lời nói của mình. - Ngôn ngữ độc thoại: là loại ngôn ngữ mà trong đó, một người nói và những người khác nghe. Đó là loại ngôn ngữ liên tục, một chiều mà không có sự hỗ trợ ngược trở lại. Người nói cần có sự chuẩn bị trước về nội dung hình thức và kết cấu của những điều định nói, đôi khi phải tìm hiểu trước về đối tượng (đối tượng người nghe). Ngôn ngữ cần trong sáng, dễ hiểu, chính xác. Ngôn ngữ nói độc thoại có thể tạo những căng thẳng nhất định cho cả người nói và người nghe, vì người nói cần chuẩn bị trước, theo dõi ngôn ngữ của chính mình và phản ứng của người nghe, còn người nghe cần tập trung chú ý trong một thời gian dài. 1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng nói Có nhiều cách xác định các yếu tố ảnh hưởng đến KNN của một học sinh. Các tài liệu tâm lí giáo dục học xác định: Trong nhiều nhân tố khác nhau ảnh hưởng đến việc học 1 Nguyễn Quang Uẩn (2001). Tâm lí học đại cương. NXB Đại học Sư phạm
- tập của học sinh, có ba yếu tố quan trọng nhất là động cơ học tập, thái độ học tập và chiến lược học. Theo đó, việc rèn luyện KNN của học sinh cũng chịu sự chi phối của ba nhân tố này. Góc độ giáo dục ngôn ngữ lại xác định các yếu tố ảnh hưởng đến KNN của một cá nhân bao gồm các yếu tố về con người, nội dung nói và các yếu tố ngoại tác. Xuất phát từ mục đích dạy KNN như là dạy một kĩ năng giao tiếp, chúng tôi coi trọng các yếu tố giáo dục ngôn ngữ này. - Yếu tố con người: Yếu tố con người bao gồm các vấn đề về nhân khẩu học, phát âm, nhịp điệu, tốc độ nói, kinh nghiệm nói, sự chuẩn bị và tâm lí khi nói... Trong đó phát âm có ảnh hưởng lớn nhất đến KNN của một cá nhân. Chất giọng, độ cao thấp (lên giọng, xuống giọng), nhịp điệu, âm sắc, tính kịch liệt (trong sự hưởng ứng hay phản kháng), cách chuyển tông điệu... đều có ý nghĩa rất quan trọng. Để rèn luyện tốt KNN, HS cần nhận thức rằng không nên chỉ cố gắng học thuộc lòng toàn bộ nội dung bài viết mà hãy biết điều khiển giọng nói của mình. Trong rèn luyện KNN,giáo viên cần hướng dẫn HS cách tự đúc rút kinh nghiệm sau mỗi lần thực hiện việc nói tự do hoặc nói theo chủ đề. - Nội dung nói: Nội dung nói là một nhân tố thiết yếu. Để có tính hấp dẫn, thu hút người nghe, đề tài nói cần đảm bảo tính thiết thực, đặc sắc, mới lạ và độc đáo. Bố cục và trình bày nội dung nói cần được sắp xếp theo một tổ chức nhất định, rõ ràng, logic, hợp lí, Khi nói, người nói cần đảm bảo tính nhất quán về nội dung được nhắc đến, cụ thể là cần có sự tương đồng giữa các nội dung cơ sở lí thuyết, thực trạng, phân tích, đánh giá... - Các yếu tố ngoại tác: Các yếu tố ngoại tác như người nghe, không gian, thời gian nói, các phương tiện công nghệ hỗ trợ... có những ảnh hưởng quan trọng đến việc rèn luyện KNN. Trong đó, người nghe là tác nhân có ảnh hưởng lớn nhất. Sử dụng công nghệ thông tin vào việc minh họa, hỗ trợ cho phần trình bày bằng lời cũng ảnh hưởng rõ rệt đến hiệu quả và chất lượng nói. Việc sử dụng các công cụ trình chiếu, các hình ảnh minh họa cho bài phát biểu sẽ giúp người nghe hiểu rõ hơn về nội dung đang được nói đến và người nói sẽ dễ dàng tương tác với người nghe 1.2. Ba giai đoạn rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh trong môn Ngữ văn
- Nói là hoạt động tạo lập văn bản bằng âm thanh ngôn ngữ. Đây là việc học sinh vận dụng kiến thức đã học về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp... vào thực tế giao tiếp. Việc rèn KNN cần được phối hợp chặt chẽ với các KN khác, tiến hành từng bước, thường xuyên để học sinh vận dụng vào giao tiếp hàng ngày. Vì vậy, giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn, tổ chức để học sinh có cơ hội, rèn luyện KNN. Vận dụng quan điểm giao tiếp trong dạy học ngôn ngữ nói chung (cả dạy tiếng mẹ đẻ và dạy ngoại ngữ), chúng tôi xác định việc rèn luyện KNN cho học sinh trong môn Ngữ văn có thể được tiến hành theo ba giai đoạn, mỗi giai đoạn có mục đích, nhiệm vụ khác nhau và có cách thức tiến hành riêng. Quy trình này có thể được áp dụng trước hết vào hoạt động nói theo chủ đề. - Giai đoạn 1: Chuẩn bị nói (Pre-speaking) Đây khâu học sinh chuẩn bị các điều kiện trước khi nói, ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công của quá trình nói. Chuẩn bị cho việc nói bao gồm: + Chuẩn bị nội dung: Để nội dung nói mang tính thuyết phục và tạo cảm hứng cho người nghe, người nói phải chuẩn bị đủ thông tin về chủ đề, nắm vững và hiểu chính xác các thông tin. Nếu học sinh biết trước đề tài, chủ đề nói, các em có thể thêm vào chủ đề những thông tin bổ sung, thông tin mới, những ý tưởng, câu chuyện dí dỏm có ý nghĩa để chứng minh rõ thêm, làm phong phú thêm cho vấn đề cần phải trình bày. Người nói cần có sự chuẩn bị về bố cục của phần nội dung sẽ trình bày: Phần mở, phần thân và kết luận. + Tập luyện nói là một việc quan trọng và cần thiết, nhưng HS thường bỏ qua công việc này. KNN phải luôn được đặt trong hoạt động giao tiếp và việc luyện nói một cách nghiêm túc và thường xuyên là yếu tố then chốt giúp nâng cao KNN của mỗi người. Trong quá trình luyện nói, người nói có thể ghi chú, ước tính thời gian và chỉnh sửa những chỗ cần thiết về nội dung và cách thể hiện. Ngoài ra, việc tập luyện sẽ giúp người nói nhận ra được những khó khăn và hạn chế của mình trong lúc phát biểu. Theo đó, cách tốt nhất là mỗi học sinh nên ghi hình lại quá trình luyện nói của mình, tự xem lại để rút kinh nghiệm và nhờ người khác góp ý.
- + Chuẩn bị tâm lí trước khi nói trước nhiều người: Dù là người lần đầu tiên nói trước đông người hay đã phát biểu nhiều lần, học sinh đều không tránh khỏi áp lực tâm lí khi đứng trước đám đông. Trong cuộc nói chuyện, người nói luôn muốn những khán giả, thính giả của mình có thể tiếp thu một cách có hứng thú với nội dung mà mình truyền đạt. Dù đối tượng nghe là ai cũng đều tạo sức ép đối với người trình bày. Chính vì thế, chuẩn bị về tâm lí là điều quan trọng để có được một phần trình bày tốt trước mọi người. Giai đoạn chuẩn bị nói cần đến sự tự giác và ý thức chủ động của học sinh. Giáo viên có vai trò là người định hướng và nhắc nhở học sinh tự điều chỉnh. Hầu hết HS đều chuẩn bị nói ngoài giờ học trên lớp. Tuy nhiên, nếu có điều kiện, giáo viên cũng cần thị phạm sự chuẩn bị của mình trong những hoạt động nói nào đó (ở đó có sự chứng kiến của học sinh).Từ đó, học sinh sẽ được khuyến khích việc chuẩn bị chu đáo các phần nói của mình. - Giai đoạn 2: Luyện nói có kiểm soát (Controlled practice) Đây là giai đoạn chính của việc rèn luyện KNN. Học sinh cần được luyện tập cả việc nói theo chủ đề và nói tự do. Trên lớp, trong các giờ luyện nói (thuộc các bài học Làm văn trong chương trình Ngữ văn), thông thường Hình thức rèn luyện KNN chủ yếu là hoạt động theo cặp, nhóm theo sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên. Việc kiểm soát quá trình rèn luyện là để thúc đẩy sự tiến bộ chứ không nhằm mục đích đánh giá. - Giai đoạn 3: Luyện nói tự do (Free practice) Đây là một bước rèn luyện KN cũng là giai đoạn sản sinh lời nói (Production). Trong rèn luyện KNN, giai đoạn này có người trực tiếp, người nói tham gia vào các tình huống giao tiếp phong phú của đời sống để rèn luyện KNN của mình. Do vậy, giáo viên cần mở rộng các loại hình hoạt động để thúc đẩy việc nói của học sinh, hoàn thiện KNN cho học sinh, giúp học sinh vận dụng vốn kiến thức cá nhân và các phương pháp đã rèn luyện vào hoạt động giao tiếp hàng ngày, trước hết là giao tiếp trong giờ học, lớp học. giáo viên cần là người hướng dẫn, tổ chức các hoạt động để học sinh tự luyện nói. Giáo viên nên lưu ý một số điểm sau để giúp HS luyện nói tốt hơn: 2. Cơ sở thực tiễn:
- - Thực tiễn tổ chức các hoạt động nói trong nhà trường THPT hiện nay: Dễ thấy nhất là học sinh ngại nói trong giờ học, có tâm lí ngượng ngùng, dè dặt vì sợ nói sai, không có đủ thông tin để diễn đạt... Sự hạn chế về vốn sống, vốn hiểu biết và kinh nghiệm giao tiếp, ít giao lưu trong gia đình, tập thể dẫn đến việc học sinh không chủ động, linh hoạt trong việc thực hiện các chủ đề, hình thức nói. Các hoạt động tập thể cần đến việc trao đổi, thảo luận, diễn thuyết, hùng biện,... ít và khó được tổ chức nên hóc inh không có nhiều điều kiện để rèn luyện KNN. Số lượng học sinh ở mỗi lớp học khá đông nên việc rèn luyện kĩ năng nói cho từng học sinh còn hạn chế. Một bộ phận giáo viên chú trọng rèn luyện KN viết, chưa có phương pháp phù hợp, sáng tạo để khuyến khích, tạo điều kiện và phát triển NL nói cho học sinh. Nhu cầu giao tiếp, truyền thông quốc tế ngày càng mở rộng trong thời đại thông tin đã khiến nhiều người tham gia vào các lớp học ngôn ngữ để nâng cao khả năng nói của mình. - Thực tiễn tổ chức hoạt đông nói tại trường THPT chuyên Phan Bội Châu: Thực tế là, với giáo viên, kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh chưa nhiều so với rèn luyện kỹ năng viết. Nhiều học sinh không tự tin khi nói trước đám đông. Do thời gian hạn hẹp, tiết đọc hiểu văn bản, tiết tiếng Việt theo chương trình Ngữ văn 11,12 hiện hành ít có cơ hội cho các em được trình bày, thể hiện suy nghĩ của mình. Thời gian tiết luyện nói trong chương trình Ngữ văn 10 lại có hạn (45 phút) không tạo được điều kiện cho tất cả học sinh được nói. Sách giáo viên cũng chưa có hướng dẫn cụ thể cho việc dạy rèn luyện kỹ năng nói. Do vậy mà trong một tiết luyện nói chỉ hiệu quả với những em khá, giỏi, chăm trong lớp còn những học sinh lười sẽ thụ động, không phát huy được. Dù có hoạt động thảo luận nhóm thì những em yếu cũng ít tham gia. Điều này khiến giờ học chưa phát huy được. Mặt khác, nhiệm vụ phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi khiến việc học ở trường vẫn còn nặng về kiến thức, nhẹ về kĩ năng. Điều này càng khiến việc phát triển kĩ năng nói chưa thực sự được giáo viên và học sinh coi trọng. Đây là nguyên nhân chính tạo nên sự hạn chế trong việc phát triển kĩ năng nói trong các tiết học ngữ văn tại trường, II. Các giải pháp rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh 1. Nhóm giải pháp cho giai đoạn chuẩn bị nói
- Đây là giai đoạn giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh chuẩn bị giới thiệu, thuyết trình, trình bày nội dung, thời gian chuẩn bị tùy vào nội dung và hình thức tổ chức. Nhóm giải pháp gồm: - Chuẩn bị nội dung nói: thực hiện nhiệm vụ của bài tập nêu trong sách giáo khoa hoặc bài tập giáo viên giao, xác định đề tài (nói cái gì ?), xác định đối tượng giao tiếp ( nói trong hoàn cảnh nào ?), xác định mục đích giao tiếp (nói để làm gì), tìm thông tin phục vụ vấn đề, tìm các phương tiện phù hợp… + Hoạt động 1: Lên kế hoạch nói Để tìm ra một chủ đề cho bài nói, học sinh cần xác định các nhiệm vụ trong Sách giáo khoa/ nhiệm vụ giáo viên giao, đồng thời xem xét trong ngân hàng ý tưởng ( trao đổi với các bạn trong lớp, với gia đình, những người hàng xóm, họ hàng, quan sát thực tế đời sống xung quanh mình, xem các phương tiện thông tin đại chúng...) Cần chú ý tới những vấn đề thời sự thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều người… để chọn chủ đề Chẳng hạn, dạy bài Phát biểu tự do, Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 2 có đưa ra bài tập: “Giả sử anh (chị) tham gia cuộc thảo luận về một cuốn sách đang được giới trẻ quan tâm, yêu thích và đã phát biểu một cách tự do những ý kiến của riêng mình. Hãy ghi lại lời phát biểu đó và tự đánh giá xem so với những yêu cầu đặt ra thì lời phát biểu của anh (chị) có những ưu điểm và hạn chế gì?” Với yêu cầu trên, học sinh cần chọn được một cuốn sách đang được giới trẻ quan tâm cũng như chủ đề phát biểu về cuốn sách đó, chẳng hạn về một nhân vật, về giá trị nội dung, về nét mới mẻ trong triển khai chủ đề hay về sự cập nhật những vấn đề mà giới trẻ quan tâm…. Sau khi đã chọn được chủ đề, giáo viên hướng dẫn HS thực hiện các thao tác sau: a) Tập hợp các thông tin về chủ đề: Thông tin có thể do người nói trực tiếp quan sát thực tế, chứng kiến sự việc, ghi chép, lưu giữ. Thông tin có thể tìm trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, internet. Thông tin cũng có thể do các cơ quan, tổ chức chính quyền, tổ chức xã hội và người dân cung cấp. Khi tổng hợp thông tin cần chú ý lựa chọn những thông tin hướng tới làm rõ chủ đề nói.
- Ví dụ: Bài Luyện tập phỏng vấn và trả lời phỏng vấn, Sách giáo khoa Ngữ văn 11, mục 3 đưa ra yêu cầu: “Hỏi chuyện một người bạn từ một vùng quê (hoặc từ một quốc gia khác) đến.” Sau khi chọn được chủ đề, ở đây là chọn nhân vật được phỏng vấn, vùng quê/quốc gia của nhân vật, học sinh cần tập hợp các thông tin về chủ đề: thông tin về vùng quê/ quốc gia của bạn, các vấn đề mà em quan tâm khi trò chuyện với bạn… Trong một số trường hợp, vấn đề cần số liệu, thông tin xác thực, học sinh có thể thực hiện các cuộc khảo sát, phỏng vấn với những nhân vật, nhân chứng để tìm câu trả lời cho những câu hỏi mình đặt ra. b) Xác định người nghe là ai Việc xác định này nhằm mục đích trả lời câu hỏi: Người nghe đã biết gì về vấn đề mà mình sẽ trình bày. Mình muốn họ biết điều gì? Những thông tin nền mà mình phải cung cấp Ví dụ: Khi cần nói về vấn đề Ô nhiễm không khí ở Việt Nam, học sinh cần tìm hiểu xem người nghe đã hiểu gì về ô nhiễm không khí: ô nhiễm không khí thực chất là gì; các khí thải độc hại với công thức hóa học CO2 , SO2 , C6H6, CO, NO2 thực chất là gì; chúng có thể gây ra những tác hại gì… Trên cơ sở những gì người nghe chưa biết, muốn biết, người nói sẽ triển khai được các nội dung phù hợp, thiết thực và hấp dẫn người nghe. c) Kiểm soát, đánh giá thông tin Cần phải chắc chắn rằng các thông tin phải chính xác. Muốn như vậy phải tập hợp thông tin từ những tài liệu đáng tin cậy và đã được kiểm soát (như trong các văn bản cho phép phát hành, trong các luận văn, luận án đã được bảo vệ trước hội đồng đánh giá; các nguồn tin từ các tổ chức pháp nhân và các cá nhân đủ tư cách cung cấp hoặc phát ngôn. Nếu số liệu tự mình thu thập, đo đạc thì các công cụ phải đáng tin cậy và phải trích nguồn rõ ràng. Có thể sử dụng cả những nguồn thông tin hỗ trợ. d) Sắp xếp thông tin Khi làm việc này cần trả lời câu hỏi: đâu là thứ tự tốt nhất để trình bày thông tin của mình? Có thể kết hợp những yếu tố truyền thông ở đâu? e) Quyết định về phương tiện truyền thông sẽ sử dụng (nếu có).
- Ở thao tác này HS cần trả lời câu hỏi: Bạn quyết định phương tiện truyền thông nào sẽ được sử dụng trong bài thuyết trình? Clip, phần mềm, các dạng phương tiện nào có thể sử dụng và giúp bạn đạt được hiệu quả tốt nhất khi thể hiện luận điểm của mình. Ở đây, có thể đưa ra một số gợi ý để HS tham khảo. Ví dụ: Băng đĩa thì cho phép thuyết trình những hiệu ứng âm thanh như âm nhạc, lời nói, giọng nói; Sơ đồ, tranh ảnh, slide,… cho phép bạn thuyết trình hình ảnh một cách rất đa dạng mà không cần sử dụng đến máy tính; băng hình video cho phép bạn thuyết trình được cả âm thanh và hình ảnh cùng lúc hay những phần mềm thuyết trình trên máy tính cho phép bạn kết hợp âm thanh, hình ảnh để tạo ra sơ đồ grap – vẽ tranh. Bạn cũng có thể tạo ra một liveshow, trình chiếu slide từ một máy tính. Trong quá trình này, vai trò hỗ trợ của giáo viên rất quan trọng. Giáo viên có thể định hướng, hướng dẫn học sinh ở một số phương diện sau: - Giáo viên lựa chọn một chủ đề trong SGK hoặc ngoài SGK, tuy nhiên, chủ đề đó phải gần gũi, thiết thực với học sinh; hoặc giáo viên trao quyền lựa chọn chủ đề cho học sinh, nếu học sinh không đề xuất được chủ đề phù hợp, giáo viên gợi ý một vài chủ đề cho học sinh lựa chọn. Đề tài lựa chọn có thể là kế thừa ở phần Viết trước đó hoặc một đề tài hoàn toàn mới mà nhóm quan tâm ở hiện tại. Chẳng hạn, trong Bài 3 - Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, SGK Ngữ văn 10 (tập 1), bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống”, ở phần Nói và nghe: “Thảo luận về một vấn đề đời sống có ý kiến khác nhau”, học sinh có thể kế thừa phần viết: “Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hay một quan niệm”. Học sinh có thể lựa chọn một trong những chủ đề sau: (1) Từ bỏ một thói quen (Có nhất thiết phải làm mọi thứ thuận theo tay phải?; Nên hay không nên duy trì thói quen lướt mạng xã hội 1 tiếng/ ngày; Phong trào check-in khi đi du lịch, nên hay không?; Nên hay không nên phạt học sinh trang điểm khi đến trường?...); (2) Từ bỏ một quan niệm (Lịch sử có nên là một môn học lựa chọn? Có nên khuyến khích thần tượng siêu anh hùng Hollywood cho giới trẻ? Có nên ủng hộ những bạn trẻ được hỗ trợ học bổng đi du học phải trở về cống hiến cho quê hương hay được tự do
- lựa chọn ở lại làm việc ở nước ngoài? Nên hay không nên thỏa hiệp với bố mẹ về ước mơ, tương lai của bản thân? Nên hay không nên tạo áp lực lớn cho bản thân?...). Với các đề tài mới học sinh tự lựa chọn, giáo viên cần kiểm duyệt tính khả thi trước khi triển khai luyện nói để đảm bảo hiệu quả của tiết học. Với các đề tài thảo luận trên, học sinh được gián tiếp trải nghiệm các tình huống thực tiễn trong đời sống. Chẳng hạn, với đề tài “Có nên khuyến khích thần tượng siêu anh hùng Hollywood cho giới trẻ?”, học sinh sẽ rất hứng thú. Phim hành động Hollywood từ lâu đã chiếm trọn thị phần phim ảnh trên thế giới. Nhân vật siêu anh hùng có ảnh hưởng lớn đến giới trẻ (từ nhận thức đến lời nói, hành động). Các siêu anh hùng cổ vũ người trẻ có những ước mơ táo bạo, bồi dưỡng niềm tin vào cuộc sống. Tuy nhiên, các bậc phụ huynh lại cho rằng hành động bạo lực trong phim cần có sự kiểm soát, cấm đoán. Vấn đề đặt ra là việc thần tượng một nhân vật không có thật và thường xuyên phải sử dụng hành động bạo lực để bảo vệ công lí có nên được khuyến khích ở giới trẻ hay không? Với vai trò là người trong cuộc, học sinh sẽ có những kiến giải để bảo vệ quan điểm đồng tình hay bác bỏ. Từ đó, học sinh sẽ có nhận thức đúng đắn về vấn đề “thần tượng” và điều chỉnh hành vi của mình trong đời sống. - GV cung cấp các tài liệu liên quan đến chủ đề cho HS đọc, chọn lọc thông tin phù hợp để giải quyết nhiệm vụ học tập. Ví dụ: trong Bài 8 - Thế giới đa dạng của thông tin, SGK Ngữ văn 10 (tập 2), bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống”, ở phần Nói và nghe: “Thảo luận về văn bản nội quy hoặc văn bản hướng dẫn nơi công cộng”, GV giao nhiệm vụ cho HS thảo luận phác thảo một văn bản nội quy hướng dẫn tham quan triển lãm lớp học dựa trên những văn bản nội quy và hướng dẫn tương tự. Trước khi HS tiến hành thảo luận, GV có thể cung cấp cho HS tham khảo, phân tích các văn bản sau: Văn bản 1: Nội qui tham quan bảo tàng. (Nguồn: https://baotanghochiminh.vn/noi-quy-tham-quan.htm) Văn bản 2: Nghệ An: Khuyến cáo du khách không ăn mặc, tạo dáng phản cảm tại nơi tôn nghiêm. (Nguồn: https://baonghean.vn/nghe-an-khuyen-cao-du-khach-khong-an-mac- tao-dang-phan-cam-tai-noi-ton-nghiem-post188649.html)
- Văn bản 3: Bản đồ du lịch chùa Hương một ngày. (Nguồn: https://viethanquangngai.edu.vn/ban-do-di-chua-huong) Từ các văn bản mẫu trên, HS nảy sinh nhiều ý tưởng cho văn bản nội quy và hướng dẫn tham quan triển lãm của lớp mình. + Thứ hai, GV tuyển chọn, xây dựng hệ thống các hình ảnh trực quan, video clip, bản nhạc, tranh ảnh,… phù hợp với chủ đề thảo luận, nhằm kích thích tư duy trực quan hình tượng ở người học, từ đó HS dễ hình dung đối tượng đúng định hướng hơn. Ví dụ: trong Bài 9 - Hành trang cuộc sống, SGK Ngữ văn 10 (tập 2), bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống”, ở phần Nói và nghe: “Thuyết trình về một vấn đề xã hội có sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ và các phương tiện phi ngôn ngữ”, HS có thể kế thừa đề tài đã học ở phần đọc và phần viết để tiếp tục triển khai dàn ý bàn về vấn đề Thuận lợi và áp lực của giới trẻ “gen Z” hiện nay thông qua việc tham khảo các ngữ liệu GV cung cấp: - Video: Gen Z vượt qua áp lực công việc (chương trình Cho ngày hoàn hảo, VTV2) - Hệ thống các bài viết với chủ đề: Áp lực gen Z, nguồn: https://viez.vn/ap-luc- gen-z-t.html Với các ngữ liệu trên, HS có thể dễ dàng nảy sinh nhiều ý tưởng để giải quyết vấn đề. + Thứ ba, GV có thể cung cấp hệ thống câu hỏi gợi dẫn, phiếu học tập, phiếu KWL, khăn trải bàn… làm công cụ hỗ trợ HS giải quyết vấn đề trong quá trình TLN. Hệ thống câu hỏi gợi dẫn dùng để định hướng cho HS giải quyết nhiệm vụ học tập. Ví dụ: trong bài 1 (Sức hấp dẫn của truyện kể), ở phần Nói và nghe: “Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm truyện”, nhóm có thể lựa chọn một văn bản đã học trong SGK hoặc một văn bản mới ngoài SGK nhưng phải đảm bảo bài nói đầy đủ các thông tin sau
- CÂU HỎI HƯỚNG DẪN BÀI NÓI GIỚI THIỆU, ĐÁNH GIÁ VỀ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA MỘT TÁC PHẨM TRUYỆN 1) Tác phẩm được nhóm giới thiệu và đánh giá tên là gì, xuất xứ? 2) Vì sao tác phẩm này được lựa chọn để giới thiệu, đánh giá? Điều gì khiến nhóm ấn tượng nhất ở tác phẩm? 3) Nội dung, chủ đề chính của tác phẩm là gì? 4) Truyện kể là gì? Đặc trưng của truyện kể là gì? Tác phẩm có những nét đặc sắc nào về nghệ thuật (cách xây dựng cốt truyện, tình huống truyện, nhân vật, ngôi kể, lời thoại…)? Ví dụ minh họa. 5) Truyện kể có những giá trị nội dung nào? Thông điệp ý nghĩa truyện gửi gắm? 6) Nhận xét, đánh giá về những thành công và hạn chế của tác phẩm. Phiếu học tập, phiếu thăm dò là những dạng bài tập, khảo sát GV đưa ra sau hoạt động nhóm nhằm kiểm tra chất lượng của hoạt động. HS cần phân bố thời gian hợp lí sau TLN lớn để hoàn thiện bài tập theo hình thức cá nhân. Bằng cách này, GV quản lí được sự tích cực tham gia của mỗi cá nhân trong nhóm bởi chỉ có những cá nhân chú ý giải quyết vấn đề chung mới có khả năng trả lời được phiếu hỏi của GV. Ví dụ, trong Bài 9 - Hành trang cuộc sống, sau khi nhóm cùng thảo luận về vấn đề Thuận lợi và áp lực của giới trẻ “gen Z”, GV yêu cầu mỗi cá nhân hoàn thành một phiếu hỏi và nộp cho GV vào cuối buổi học.
- PHIẾU HỎI VỀ VẤN ĐỀ THUẬN LỢI VÀ ÁP LỰC CỦA GIỚI TRẺ GEN Z HIỆN NAY Đây có phải là vấn đề mà giới trẻ quan tâm? Bao nhiêu thành viên trong nhóm em tâm đắc sâu sắc về vấn đề này? ……………………………………………………………………………………… Theo em, giới trẻ gen Z gồm những ai? ……………………………………………………………………………………… Em có cảm thấy mình có thuận lợi so với các thế hệ cha, anh đi trước không? Nếu có, đó là những gì? ……………………………………………………………………………………… Bản thân em có từng cảm thấy áp lực không? Hãy chia sẻ những áp lực mà bản thân em đã/ đang phải chịu đựng ……………………………………………………………………………………… Nếu nói giới trẻ ngày nay có những áp lực, vậy cha ông ta ngày xưa có áp lực hay không? Nếu có, tại sao đây lại làvấn đề nổi bật của xã hội hiện đại đối với gen Z? Áp lực ngày xưa và ngày nay khác nhau như thế nào? ……………………………………………………………………………………… Nhận định của em về thuận lợi và áp lực của giới trẻ gen Z trong xã hội hiện nay? ……………………………………………………………………………………… Nhận định của nhóm em về những thuận lợi và áp lực của giới trẻ gen Z trong xã hội hiện nay? ……………………………………………………………………………………… Yêu cầu và cách thức thực hiện: Các công cụ hỗ trợ cần ngắn gọn, rõ ràng, không rườm rà, đánh đố; Công cụ hỗ trợ chỉ nên mang tính gợi dẫn chứ không phải là đáp án cho sẵn; Chỉ nên lựa chọn một vài công cụ hỗ trợ phù hợp để tránh gây hoang mang, nhầm lẫn hoặc thừa thãi cho HS; Công cụ hỗ trợ chỉ mang tính tham khảo, không nên áp đặt HS sử dụng. - Chuẩn bị kĩ năng nói: mở rộng từ vựng, nắm ngữ pháp, hiểu các phong cách ngôn ngữ, cách sử dụng hiệu quả các yếu tối phi ngôn ngữ - Chuẩn bị các giải pháp để phản biện vấn đề: nhìn nhận vấn đề từ nhiều góc độ, đặt câu hỏi về vấn đề…
- VD: Dạy Đọc hiểu văn bản Vội vàng (Xuân Diệu), giáo viên có thể đặt ra câu hỏi cho học sinh phản biện vấn đề: Quan niệm sống của Xuân Diệu trong “Vội vàng” là hãy sống giục giã gấp gáp... nhưng hiện nay, có trào lưu khuyên mọi người nên “Sống chậm lại, nghĩ khác đi, yêu thương nhiều hơn”. Em nghĩ gì về hai quan niệm này? Đinh hướng giải quyết tình huống của GV: Cả hai cách hiểu đều có cái hay riêng, đều có tính hợp lý. Hai quan niệm nhìn bề ngoài có vẻ mâu thuẫn, ngược chiều với nhau nhưng về bản chất cốt lõi là giống nhau. Tất cả đều hướng con người đến lối sống tích cực, cân bằng và yêu đời hơn. Sở dĩ có sự khác nhau là ở thời điểm xuất phát. Quan niệm của Xuân Diệu được nêu lên vào đầu thế kỷ XX, khi mà cả hàng mấy thế kỷ tồn tại quan niệm sống: ung dung, tự tại và vô vi. Hơn nữa, lúc bấy giờ tuổi trẻ gần như rơi vào sự khủng hoảng lí tưởng, mất phương hướng... người thì rơi vào nỗi sầu vạn kỷ, người thoát lên tiên, kẻ chạy trốn vào thế ma quái, điên loạn. thì quan niệm sống của Xuân Diệu như thế là rất tích cực. Còn ở quan niệm thứ hai lại xuất hiện ở thời đương đại khi mà nhịp sống quá nhộn nhịp, con người dễ bị cuốn vào những áp lực của nhu cầu vật chất của cuộc sống. Vì thế, con người dường để vụt mất những giá tri sống đích thực. Do đó với quan niệm này, cũng hướng chúng ta đến một lối sống lành mạnh, tích cực và cân bằng hơn. Hoặc giáo viên cũng có thể đặt ra câu hỏi: Nhận định về khao khát tận hưởng sự sống trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, từng có ý kiến cho rằng: đó là tiếng nói của cái tôi vị kỷ, tiêu cực. Lại có ý kiến khẳng định: đó là tiếng nói của cái tôi cá nhân tích cực. Em nghĩ như thế nào về các quan niệm trên? Định hướng giải quyết tình huống của GV: Bác bỏ ý kiến cho rằng đó là tiếng nói của cái tôi vị kỉ tiêu cực: Ý kiến xuất phát từ quan điểm cũ, quá coi trọng cái ta mà coi nhẹ cái tôi, xem mọi tiếng nói của cái tôi đều là tiêu cực, đồng nhất sự hưởng thụ chính đáng của con người với lối sống cá nhân chủ nghĩa; thể hiện định kiến hẹp hòi đối với ý thức trân quí bản thân của con người, đồng nhất việc tận hưởng sự sống lành mạnh, tích cực với lối sống gấp của chủ nghĩa hưởng lạc. Khắng định sự đúng đắn của ý kiến: đó là tiếng nói của cái tôi cá nhân tích cực: Ý kiến xuất phát từ quan điểm đúng đắn coi trọng quyền sống chính đáng của con người cá nhân, vì thế đã nhận ra tính nhân bản trong niềm khát khao tận hưởng sự sống của cái tôi ở bài thơ Vội vàng, xem đó là
- biểu hiện mãnh liệt của cái tôi cá nhân tích cực; ở thời đại Thơ mới, khát khao tận hưởng sự sống của cái tôi ấy đã có ảnh hưởng tích cực sâu sắc đến ý thức cá nhân, lòng yêu đời, yêu cuộc sống của con người, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. VD: Dạy đọc hiểu văn bản Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) Giáo viên có thể đặt vấn đề cho học sinh tranh luận, phản biện: Cậu bé Phác là đứa con có hiếu hay bất hiếu? Vì sao? Định hướng giải quyết tình huống của GV: HS cần chỉ ra những hành động của thằng Phác với cha mẹ được miêu tả trong truyện. Từ đó phải chỉ ra được cái sâu xa cốt lõi của những hành động ấy - bạo lực chỉ sinh ra bạo lực. Bi kịch của bạo lực gia đình sẽ biến những đứa con trở thành tội đồ của lòng hiếu nghĩa với mẹ cha. Hoặc giáo viên có thể liên hệ đến thực tế cuộc sống: Theo em trong cuộc sống hiện nay, cam chịu, nhẫn nhịn có phải là “chìa khóa” để giữ hạnh phúc của người phụ nữ không? Định hướng giải quyết tình huống của GV: HS có thể đồng ý hoặc phản đối tùy theo đánh giá nhận xét quan điểm riêng. Vì thế ở tình huống này GV nên tổ chức lớp thành 2 nhóm: ủng hộ và phản đối để tranh luận về vấn đề. VD: Đọc hiểu văn bản "Nhìn về vốn văn hoá dân tộc" của Trần Đình Hượu, giáo viên có thể gợi ý học sinh bằng cách mở rộng vấn đề: Tác giả viết "con đường hình thành bản sắc dân tộc của văn hoá không chỉ trông cậy vào sự sáng tạo mà còn trong cậy vào khả năng chiếm lĩnh, sự đồng hoá những giá trị văn hoá bên mình." Từ gợi ý của tư tưởng đó, anh chị hãy nêu suy nghĩ của mình về hiện tượng tiếp nhận văn hoá ngoại lai ở giới trẻ hiện nay. Giáo viên có thể cho học sinh thảo luận và trình bày ý kiến của mình trước lớp. 2. Nhóm giải pháp luyện nói: Đây là giai đoạn tổ chức cho học sinh trình bày, giới thiệu, thuyết trình và lắng nghe theo dõi nội dung đã chuẩn bị. Đây là hoạt động chính; càng nhiều lượt học sinh được trình bày càng tốt giúp học sinh rèn kĩ năng trình bày một vấn đề cũng như rèn kĩ năng sử dụng hiệu quả các yếu tố ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Một số hình thức luyện nói:
- * Học sinh dựa vào tình huống gợi ý (qua tranh vẽ, từ ngữ cho sẵn hoặc bài hội thoại mẫu) để luyện nói theo yêu cầu: trình bày, miêu tả về một đối tượng, suy đoán về sự việc, sự kiện... Ở đây, học sinh cần: - Tạo ra một đề cương các luận điểm. Nếu thấy cần học sinh có thể viết ra phần kịch bản của mình. Họ cũng phải xác đinh chắc chắn chỗ nào sẽ đưa các yếu tố đa phương tiện vào. Đồng thời họ sẽ phải giới thiệu và giải thích về các đoạn ghi âm hay hình ảnh mà họ thuyết trình. - Tạo ra một phần giới thiệu và kết thúc ấn tượng. Để làm được điều này thì giáo viên có thể hướng dẫn học sinh : Hãy sử dụng một câu hỏi hay đưa ra một sự thật mang tính chất bất ngờ khiến người khác ngạc nhiên, giật gân, hoặc một trích dẫn để thu hút sự chú ý của khán giả. Hãy kết thúc bằng một thông điệp rõ ràng, ấn tượng để lưu lại những điều đáng nhớ. - Tập hợp hoặc sáng tạo những phần truyền thông đa phương tiện. Sau khi đã quyết định phương tiện truyền thông nào sẽ được sử dụng học sinh cần thiết kế bài thuyết trình sao cho phần văn bản và các yếu tố truyền thông kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn, sáng tạo. Làm thế nào để các yếu tố truyền thông phát huy tốt nhất vai trò làm sáng tỏ phần văn bản và sáng tỏ chủ đề. Đồng thời thu hút, hấp dẫn nhất đối với khán giả. HS cần đảm bảo rằng tất cả hình ảnh và chữ viết trên phương tiện nhìn đủ rộng để người ở cuối hội trường cùng nhìn thấy. Cũng cần phải kiểm tra âm thanh để đảm bảo rằng tiếng có thể được nghe rõ. Đồng thời, học sinh cũng cần chú ý kiểm soát yếu tố đa phương tiện. Ở thao tác này, giáo viên yêu cầu học sinh: xem xét với tư duy phản biện những yếu tố truyền thông để xem họ đã sử dụng chúng một cách đa dạng (bao gồm cả việc nói bằng lời) hiệu quả nhất hay chưa. Học sinh cần thấy rằng: Có rất nhiều phần chi tiết thường được thuyết trình bằng sơ đồ và grap tốt hơn bằng lời; Thuyết trình giọng nói được ghi lại của nhân vật có thể tác động tốt hơn việc kể lại xem họ đang nói gì. Học sinh cũng cần hiểu luật bản quyền khi kiểm soát các yếu tố đa phương tiện. *HS luyện nói theo cá nhân/ cặp/ nhóm dưới sự kiểm soát của HS khác và GV để sửa lỗi phát âm, ngữ pháp, luyện ngữ âm, dùng từ ...
- Tập thuyết trình Tập thuyết trình nhiều lần để cảm thấy thoải mái khi nói từ kịch bản hoặc đề cương và thuần thục trong việc đưa ra các yếu tố đa phương thức. Khi tập dượt thuyết trình luôn lưu ý: - Sử dụng giọng nói của mình tạo hiệu ứng tốt. Hãy nói đủ lớn cho mọi người nghe cũng như tông giọng và cao độ để giữ được sự chú ý của người nghe, của khán giả, thay đổi âm lượng với những phần cụ thể. - Duy trì giao tiếp bằng mắt, sử dụng những cử chỉ và nét mặt phù hợp. Hãy giữ sự chú ý của khán giả bằng cách nhìn trực tiếp vào họ. Sử dụng dáng vẻ, biểu cảm, khuôn mặt của mình để duy trì sự hứng thú của họ. - Xen kẽ các yếu tố truyền thông vào trong bài thuyết trình một cách nhuần nhuyễn. Người thuyết trình cần đảm bảo rằng mình biết cách sử dụng những công cụ mà mình định dùng. Hãy trở nên quen thuộc với nội dung của các yếu tố nghe nhìn để có thể nói về nó một cách hiểu biết. - Khi thấy tự tin với bài thuyết trình của mình, HS có thể mời bạn bè, người thân xem trước và thuyết trình. Nếu cần thiết, hãy chỉnh sửa và thuyết trình theo những phản hồi cơ bản của họ. Hãy hỏi khán giả nghe mình luyện tập những câu hỏi sau: Bạn đã biết được gì từ bài thuyết trình của tôi? Yếu tố nào đã tác động nhiều nhất đến bạn? Thông tin nào chưa rõ ràng và gây bối rối? Cử chỉ, hành động của tôi giúp bạn chú ý hoặc làm bạn sao nhãng? Bạn muốn biết thêm điều gì? - HS nói độc lập hoặc nhóm HS nói có tương tác theo nội dung và hình thức được yêu cầu trước: Luyện nói về thông tin cá nhân, đóng vai giao tiếp, phỏng vấn, thảo luận, tranh luận... - HS luyện trình bày, GV và các HS khác theo dõi, hỗ trợ, uốn nắn, góp ý... Việc tổ chức những nhóm rèn luyện KNN để các thành viên của nhóm có điều kiện hội ý, phân tích, góp ý những điểm mạnh, yếu cho nhau qua phần trình bày trước nhóm hoặc qua các thiếu sót của từng cá nhân là một hoạt động có ý nghĩa đối với việc rèn luyện KNN của mỗi HS.
- Giáo viên có thể sử dụng các thủ thuật gợi dẫn vấn đề thảo luận cho HS: GV có thể tạo các tình huống nhận thức hoặc thực tiễn bằng các thủ thuật sau: Tạo không gian khám phá đối tượng bí mật: Ô cửa bí mật, Bức tranh bí ẩn, Chiếc nón kì diệu,…; Tạo không gian tranh đấu: Trường teen, Phiên tòa thế kỉ, Ai thông minh hơn HS lớp 10, Nhanh như chớp, Ai là triệu phú…; Chuyện kể sáng tạo. Ví dụ, trong phần Nói và nghe của Bài 7 - Quyền năng của người kể chuyện: “Thảo luận về một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau”, giáo viên có thể gợi dẫn vấn đề bằng cách kể một vài dị bản của truyện “Tấm Cám” có kết thúc không giống nhau (Dị bản của NXB Văn hóa - Văn nghệ, Dị bản của NXB Mỹ thuật và Dị bản trong cuốn “Truyện cổ tích Việt Nam” của NXB Văn học). Mỗi cách kết thúc truyện đều gợi cho học sinh những suy nghĩ khác nhau. Giáo viên có thể đưa ra yêu cầu: “Em đồng tình với kết thúc của dị bản nào? Hãy tìm các lí lẽ để thuyết phục người nghe”; Kết hợp dạy học đa phương tiện: Giáo viên có thể vừa cho học sinh đọc văn bản, vừa chiếu video hoạt hình, video ca nhạc, đóng vai,… và cho học sinh tự phát hiện vấn đề. Giáo viên cần gợi vấn đề một cách tự nhiên, không áp đặt quan điểm, cần nới rộng không gian tự do của tư duy để học sinh tự phát hiện, giải quyết vấn đề; Vấn đề thảo luận cần mang tính nhận thức và thực tiễn cao. Trong quá trình thảo luận, sự vỡ lẽ về nhận thức cần được tiếp tục nảy sinh và giáo viên cần chú ý tiếp tục tạo kiện cho học sinh phát triển vấn. Bản thân giáo viên cần có hiểu biết nhất định về vấn đề đó và có kĩ năng ứng xử sư phạm khéo léo trong mọi tình huống, hỗ trợ học sinh khi cần thiết. 3. Nhóm giải pháp cho giai đoạn sau khi nói Đây là giai đoạn học sinh trao đổi, nhận xét, phản hồi về nội dung và kỹ năng nói của người trình bày. * Kĩ năng nghe và ghi chép và nhận xét phần trình bày của người khác. Muốn trình bày tốt quan điểm của mình, trước hết học sinh phải rèn kĩ năng nghe và nhận xét phần trình bày của người khác. Giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét lẫn nhau. Giáo viên nhắc học sinh chú ý hai phương diện:

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý phòng máy tính trong nhà trường
29 p |
326 |
62
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p |
209 |
30
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số ứng dụng của số phức trong giải toán Đại số và Hình học chương trình THPT
22 p |
195 |
25
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh khi dạy học môn Toán lớp 10
44 p |
106 |
19
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p |
165 |
11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p |
58 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng giải bài toán trắc nghiệm về hình nón, khối nón
44 p |
43 |
9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p |
58 |
8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p |
41 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p |
53 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một vài kinh nghiệm hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi Địa lí lớp 12
20 p |
39 |
7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số bài toán thường gặp về viết phương trình tiếp tuyến của đồ thị hàm số
19 p |
52 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả daỵ - học môn Giáo dục quốc phòng và an ninh qua tiết 07 - bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia
45 p |
23 |
6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p |
48 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp tính khoảng cách trong hình học không gian lớp 11
35 p |
24 |
5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn bóng chuyền lớp 11
23 p |
87 |
3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p |
29 |
3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p |
53 |
3


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
