intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn ở những trường THPT có chất lượng đầu vào thấp

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:30

10
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Một số kinh nghiệm phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn ở những trường THPT có chất lượng đầu vào thấp" nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường nói riêng cũng như của địa phương miền núi cao nói chung thì các thầy cô giáo ngoài nhiệt tâm với nghề thì cần phải không ngừng tìm tòi, phát hiện và chia sẻ những kinh nghiệm, bài học mà chính bản thân mình trải nghiệm, chiêm nghiệm từ thực tế dạy học mà rút ra được.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn ở những trường THPT có chất lượng đầu vào thấp

  1. Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Chất lượng học sinh giỏi và chất lượng mũi nhọn của một trường góp  phần không nhỏ  tạo nên thương hiệu của ngôi trường đó nói riêng và thương  hiệu của ngành GD địa phương đó nói chung. Nó góp phần tạo động lực học tập   cho các thế  hệ  học sinh và đặc biệt là tạo nên sự  tin tưởng, niềm tin yêu của  phụ huynh và xã hội vào ngôi trường đó và nền GD của địa phương để từ đó họ  yên tâm gửi gắm con em mình cho nhà trường. Đối với các huyện miền núi cao như Kỳ Sơn, Tương Dương việc thu hút  được học sinh, đặc biệt là những học sinh có tố chất vào học cấp THPT gặp vô   vàn những khó khăn, thách thức. Vấn đề cấp thiết đặt ra đó là, những người làm  GD, các thầy cô giáo vùng cao ngoài nhiệm vụ  vận động thu hút học sinh đến  trường thì còn cần phải chứng minh được rằng học sinh khi đến trường sẽ  được học tập tốt nhất, hiệu quả  cao và đạt được chất lượng thật  sự. Và còn  phải chứng minh được lợi ích bền vững và lâu dài của việc học tập  từ  đó dần  dần tạo được niềm tin để  phụ  huynh yên tâm gửi gắm con em mình ở  lại học   tập góp phần giảm gánh nặng kinh tế cho gia đình và xã hội, góp phần nâng cao   dân trí và nâng cao vị  thế, uy tín của các nhà giáo nói riêng và ngành GD nói   chung. Bồi dưỡng HSG là vấn đề  không mới, đặc biệt là đối với các trường  trọng điểm CLC ở miền xuôi, nhưng đó lại là vấn đề không hề dễ và là bài toán  khó mà nhiều thế hệ quản lí và giáo viên các trường có điểm đầu vào thấp như  Tương Dương, Kỳ Sơn loay hoay mãi mà chưa tìm ra đáp án hiệu quả nhất.  Ở  đây không thể bê nguyên xi và áp dụng máy móc các phương pháp, kinh nghiệm   của các trường miền xuôi được. Mà đòi hỏi các giáo viên phải   vận dụng kết  hợp và  có những phương pháp, cách làm phù hợp, phải có lộ  trình lâu dài ,  sự  mạnh dạn, kiên trì thực hiện. Đồng thời còn cần có sự  thấu hiểu, sẻ  chia của   các cấp quản lí để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở các trường như đã nói đạt   kết quả cao. Bởi vì người giáo viên  ở  đây nhiều lúc phải vừa dạy vừa dỗ, phải  biết kích thích, khai mở, giải thích, vận động, phát hiện, động viên, hướng dẫn,  bồi dưỡng, quan tâm sát cánh, đồng sức đồng lòng với học trò. Với  những  lý  do  trên  bản  thân  tôi  mạnh  dạn   đề  xuất  “Một   số   kinh   nghiệm phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn ở những trường   THPT có chất lượng đầu vào thấp”. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường nói riêng  cũng như  của địa phương miền núi cao nói chung thì các thầy cô giáo ngoài  1
  2. nhiệt tâm với nghề thì cần phải không ngừng tìm tòi, phát hiện và chia sẻ những   kinh nghiệm, bài học mà chính bản thân mình trải nghiệm, chiêm nghiệm từ  thực tế dạy học mà rút ra được. Dạy học ở miền núi cao xưa nay đã là một công   việc khó khăn đòi hỏi “ những người gieo chữ” phải có một niềm yêu trẻ và sự  hy sinh cống hiến thì việc phát hiện và bồi dưỡng những em có tiềm năng, thấu   hiểu và làm chỗ dựa chắc chắn để các em phát huy hết năng lực, phẩm chất của   mình lại càng là một việc khó khăn bội phần nhưng rất cần thiết phải làm. Mặc dù với kiến thức hạn hẹp nhưng bản thân tôi muốn đề  xuất, chia sẻ, trao   đổi  một số  kinh nghiệm, để  mong được học tập lẫn nhau, hy vọng bản sáng   kiến kinh nghiệm này sẽ  giúp ích được ít nhiều cho các giáo viên, đặc biệt là  các giáo viên trẻ khi được giao nhiệm vụ  phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi  môn Ngữ văn ở những trường THPT có chất lượng đầu vào thấp 3. Đối tượng nghiên cứu đề tài Học sinh đầu cấp THPT đặc biệt là học sinh ở  các lớp CLC của trường,   những học sinh có tố  chất và yêu thích môn Ngữ  Văn; những em được tuyển  chọn vào đội tuyển HSG của trường những năm gần đây. 4. Phạm vi nghiên cứu đề tài Đề  tài  tập  trung làm  rõ  vấn  đề  cách  phát  hiện,  lựa  chọn  và  bồi dưỡng  học  sinh  giỏi  văn  để  đạt  kết  quả.  Đồng  thời  đưa  ra  những  giải  pháp  trước  mắt  và lâu  dài  cho  công  tác  bồi  dưỡng  HSG môn Ngữ  Văn  ở  những trường  THPT có chất lượng đầu vào thấp. 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài Trên  cơ  sở  thực  tế  công  việc  phát  hiện,  lựa  chọn,  bồi  dưỡng  học  sinh  giỏi trong những năm qua, đề tài vận dụng các phương pháp thống kê, phân tích,  so sánh trên số liệu đạt được từ thực tế của cá nhân tác giả và nhóm Ngữ Văn  THPT Tương Dương1. 6. Tính mới của đề tài Trước khi áp dụng các biện pháp phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi   môn Ngữ  Văn  ở  những trường THPT có chất lượng đầu vào thấp, tình hình  chung  ở  trường THPT Tương Dương1. Đó là, gặp rất nhiều khó khăn khi tìm   kiếm, phát hiện và thành lập đội tuyển học sinh giỏi. Trong rất nhiều năm trước  đây đẫ có nhiều giáo viên nói chung và giáo viên bộ môn Ngữ văn nói riêng đã có   rất nhiều cố  gắng tìm tòi và đưa ra nhiều biện pháp để  nhằm tìm kiếm, xây  dựng và bồi dưỡng đội tuyển HSG cho trường và cho bộ môn của mình. Nhưng  do tình hình thực tế  và đặc thù của địa phương và của đối tượng học sinh nơi   đây nên cơ bản các biện pháp đưa ra là chưa thành công. Mặc dù nhà trường và  các giáo viên đã rất nỗ lực cố gắng và nhiệt tình trong công việc này nhưng việc   tìm kiếm những học sinh có tố chất để bồi dưỡng thành học sinh giỏi vẫn như “  Mò kim đáy biển” “ bóng câu, tăm cá”. Có khi phát hiện được một vài em có thể  2
  3. khả dĩ thì lại gặp nhữ khó khăn khác như  đa số các em nhút nhát và thiếu tự tin  và thường tìm mọi cách để thoái thác để không tham gia ôn luyện và đi thi. Thực  tế có nhiều năm học sinh đã ôn luyện được một thời gian nhưng rồi lại bỏ cuộc   giữa chừng hoặc đến ngày đi thi thì xin rút không tham gia. Bên cạnh đó nhiều  bậc cha meh học sinh cũng chưa tin tưởng và ủng hộ và tạo điều kiện cho học  sinh, giáo viên và nhà trường trong việc thực hiện công việc gian khó nhưng đầy  ý nghĩa này. Vì vậy,  ở  đề  tài này ngoài việc đưa ra một số  phương pháp giúp  học sinh ôn luyện kiến thức, kỹ  năng bản thân tôi thấy đối với đối tượng học   sinh  ở  các trường có chất lượng đầu vào thấp nhữ  THPT Tương Dương1 cần   chia sẻ thêm với các đồng nghiệp về công tác nắm bắt tư tưởng, thấu hiểu tâm  lí, suy nghĩ của học sinh, cha mẹ học sinh và tâm lí chung của xã hội để đưa ra   được những cách làm, những bước đi phù hợp, hiệu quả để  trước hết đả thông   tư  tưởng, nhận thức của học sinh, phụ  huynh học sinh và của nhân dân địa  phương để từ đó tạo được niềm tin, sự thấu hiểu, đồng cảm và sự ủng hộ của   họ để tạo nên điểm tựa giúp người giáo viên vùng cao yên tâm, tin tưởng và có   thêm nhiệt huyết và động lực để  tiến hành công việc vô cùng vẻ  vang nhưng   cũng rất nhiều khó khăn thách thức này. Như  Bác Hồ  kính yêu từng nói: “ Dễ  trăm lần không dân cũng khó. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Sau khi áp dụng   đề  tài tôi thấy phần nào đã giải quyết hiệu quả  của thực trạng nói trên. Việc   tìm kiếm, phát hiện học sinh để tham gia đội tuyển học sinh giỏi môn Ngữ văn   nói riêng và một số  môn khác đã trở  nên dễ  giàng hơn và kết quả  bồi dưỡng   cũng khả quan hơn rất nhiều. 3
  4. Phần II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU I. Cơ sở khoa hoc̣ 1. Cơ sở ly luân ́ ̣ Ngay từ những ngày đầu thành lập cho đến nay, Đảng và nhà nước ta luôn   quan tâm đến công tác phát hiện và bồi dưỡng nhân tài. Trong quá trình lãnh đạo  cách mạng, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: cán bộ  là nhân tố  quyết định sự  thành bại của của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước   và chế  độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng và Đảng ta cũng đã  nhiều lần khẳng định, nguồn cán bộ  tốt nhất được lấy từ  những học sinh, sinh   viên ưu tú.  Tại phiên họp của  Ủy ban Thường vụ  Quốc hội, ngày 30 tháng 3 năm   1961 bàn về cải cách giáo dục, đồng chí Trường Chinh yêu cầu “Vấn đề phát   triển năng khiếu của học sinh rất quan trọng ­ Học sinh cần phải học kiến   thức phổ thông toàn diện, nhưng đối với các em có năng khiếu cần phải có kế  hoạch hướng dẫn riêng”. Chấp hành tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Quốc hội  về việc đào tạo bồi dưỡng học sinh năng khiếu, tài năng, vào năm học 1962­ 1963 Bộ Giáo dục đã có quyết định tổ chức các kỳ thi quốc gia chọn học sinh   giỏi Văn, Toán cấp II và cấp III. Những năm đầu của thập kỷ 60 của thế kỷ  trước, khi mà cuộc kháng chiến chống Mỹ  đang  ở  thời kỳ  gay go ác liệt Bộ  Chính trị (khóa III) đã ra Nghị quyết số 14­NQ/TW ngày 28/6/1966 về đào tạo  bồi dưỡng cán bộ, trong đó khẳng định “Muốn học sinh giỏi vào các trường   đại học, phải có kế hoạch phát triển và bồi dưỡng học sinh giỏi ngay từ lớp  7, lớp 8”. Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất (năm 1975), nền giáo dục của  nước ta bước sang một giai đoạn cách mạng mới, Trước tình hình đó, Bộ  Chính trị  (khóa IV) ra Nghị quyết số 14­NQ/TW ngày 11/01/1979 về cải cách  giáo dục, trong  đó yêu cầu “Trong hệ  thống giáo dục phổ  thông cần mở  những trường ­ lớp phổ thông cho những học sinh có năng khiếu đặc biệt...”   nhằm chuẩn bị  nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài cho đất nước. Tiếp   theo Nghị  quyết số  14­NQ/TW về  cải cách giáo dục, Bộ  Chính trị  (khóa IV)   đã ban hành Nghị  quyết số  37­NQ/TW ngày 20/4/1981 về  “Chính sách khoa  học và kỹ thuật”, trong đó chỉ  rõ “Trên cơ sở  đảm bảo sự bình đẳng thực sự  về  quyền lợi học tập cho mọi người và phổ  cập giáo dục cho toàn dân, cần  quan tâm đào tạo cán bộ  khoa học kỹ  thuật giỏi, những nhân tài của đất  nước”.Đến Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ  VI (năm 1986), trong  Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương có nêu “Nhân tài không phải   là sản phẩm tự  phát mà phải được phát hiện và bồi dưỡng công phu. Nhiều  tài năng có thể mai một nếu không phát hiện và sử dụng đúng lúc, đúng chỗ”. 4
  5. Đến Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta khẳng định:  “Có chính sách hỗ trợ đặc biệt những học sinh có năng khiếu, hoàn cảnh sống   khó khăn được theo học ở các bậc học cao. Có quy hoạch và chính sách tuyển  chọn người giỏi, đặc biệt chú ý trong con em công nhân và nông dân để  đào  tạo ở các bậc đại học và sau đại học”. Trong Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp   hành Trung  ương lần thứ  6 (khóa IX) có nêu “Hoàn thiện hệ  thống cơ  chế,  chính sách, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, đáp ứng yêu cầu   công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sớm xây dựng chính sách sử dụng và tôn vinh   các nhà giáo, cán bộ  quản lý giỏi, những người có công lao lớn trong sự  nghiệp giáo dục, đào tạo.  Trong Nghị quyết số 27 NQ/TW ngày 6 tháng 8 năm 2008 của Ban Chấp   hành Trung  ương (khóa X), “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy   mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Đảng ta đã thể  hiện quan   điểm: ­ Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của  cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Ðảng và Nhà nước giữ vai trò  quyết định. Trí thức có vinh dự và bổn phận trước Tổ quốc và dân tộc, không   ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên  môn, đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Như  vậy có thể  thấy, từ  xưa đến nay việc phát hiện và bồi dưỡng nhân   tài trong đó có việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi rất được các cấp lãnh   đạo quan tâm chú ý. Học sinh là đối tượng của giáo dục. Là người giáo viên, ai   cũng mong học sinh của mình phát huy hết phẩm chất, năng lực học tập của  mình và đạt được kết quả  học tập cao nhất, đặc biệt là được vinh danh trong  các kì thi HSG cấp Tỉnh, cấp Quốc gia. Vì vậy, với những giáo viên tâm huyết   với nghề  họ  luôn hết sức lực và trí tuệ  để  học sinh của mình phát huy hết sở  trường và đạt được những thành tích cao nhất. 2. Cơ sở thực tiên ̃ 2.1. Thực trạng Chất  lượng đầu vào của học sinh thấp ( do các em học khá giỏi thường  được gia đình tìm mọi cách để  đi học các trường dưới xuôi hoặc ngoài Bắc ­  điều này ngoài một số lợi ích dễ thấy thì cũng để lại nhiều hệ lụy cho gia đình  và xã hội như: tốn kém về  kinh tế, học sinh  ở quá xa, thiếu sự  quan tâm chăm  sóc cũng như  giám sát của gia đình  nhiều em trở  nên chểnh mảng thậm chí sa  ngã,…). Nguyên nhân một phần là do chất lượng mũi nhọn, chất lượng học sinh  giỏi của trường các năm thường không cao dẫn đến cái nhìn chưa đúng, chưa  đầy đủ và thiếu tin tưởng của phụ huynh học sinh, khiến nhiều gia đình tìm mọi  cách để  gửi con đi học xa hoặc không cho con tiếp tục theo học, thậm chí bắt  các cháu nghỉ học sớm để lập gia đình... Những điều đó ảnh hưởng rất lớn đến  chất lượng GD của trường cũng như việc nâng cao dân trí của địa phương. 2.2. Kết quả khảo sát tại trường THPT Tương Dương1 5
  6. Tại các trường THPT có đầu vào thấp như Trường THPT Tương Dương  1 việc phát hiện, lựa chọn, thành lập đội tuyển HSG và bồi dưỡng HSG không  hề dễ  dàng; nguồn HSG của trường hàng năm rất khan hiếm. Đa số  HS không  đủ  năng lực hoặc có tâm lí e ngại, thiếu tự  tin, không dám bộc lộ  năng khiếu   bản thân, nhiều em khi được lựa chọn để bồi dưỡng HSG đều tìm mọi cách để  từ chối. Nguồn HSG ít, hiếm và khó phát hiện và phát hiện không hết dẫn đến kết   quả  HSG nhiều năm không cao dẫn đến tâm lí nghi ngờ, thiếu tin tưởng của   một bộ  phận không nhỏ  các bậc cha mẹ  học sinh và xã hội, từ  đó dẫn đến sự  thiếu quan tâm và không hợp tác thậm chí không ủng hộ, không cho HS đi học,  đi thi... Bảng thống kê điểm thi vào lớp 10 tại THPT Tương Dương 1 một số năm Năm học Điểm trung bình Ghi chú 2019 ­ 2020 Xét tuyển 2020 ­ 2021 Xét tuyển 2021 ­ 2022 Thi tuyển, 6,3 điểm Bảng khảo sát số lượng HS tham gia đội tuyển HSG qua một số năm học: Năm học Số HS tham gia Số đạt giải Chú thích 2017 – 2018 12 2/12 Môn Ngữ văn không đạt  giải 2020 – 2021 16 8/16 Môn Ngữ văn một giải 2021 – 2022 14 6/14 Môn Ngữ văn đạt hai giải        Đối với môn Ngữ  Văn tại các trường có điểm đầu vào thấp như  THPT   Tương Dương 1, việc nhận định và phân tích đề  của các em còn yếu, kỹ  năng  vận dụng kiến thức vào bài làm chưa cao, tâm lí khi đi thi còn chưa vững vàng   dẫn đến thành tích của Đội tuyển HSG tỉnh nhiều năm chưa cao.  Các em được chọn bồi dưỡng và dự  thi HSG cần khắc phục các nhược   điểm thường gặp và phát huy những ưu điểm đã được phát hiện và bồi dưỡng. 2.3. Nhận xét, đánh giá số liệu khảo sát            Do nhiều học sinh sau khi tốt nghiệp THCS nhiều năm không đăng kí  nguyện vọng học tiếp lên THPT nên có những năm trường chỉ  xét tuyển đầu  vào. Điều đó dẫn tới chất lượng đầu vào của học sinh không cao, không những   thế việc được vào học THPT một cách dễ  dàng cũng khiến tinh thần và sự  nỗ  lực cố gắng của học sinh THCS bị giảm sút do thiếu đi tính cạnh tranh. 6
  7.         Trong thời gian gần đây, với sự  nỗ  lực của Ban lãnh đạo nhà trường, sự  phấn đấu tìm tòi các giải pháp mới của đội ngũ giáo viên nên chất lượng giáo   dục toàn diện của trường đã được cải thiện đáng kể, từ  đó uy tín của trường  cũng được nâng lên và kéo theo đó là lượng học sinh có nguyện vọng đăng kí   vào trường cũng tăng lên đáng kể. Để có được điều đó có phần đóng góp thành  tích của đội tuyển HSG trường trong đó có thành tích của học sinh giỏi môn   Ngữ Văn II. Kết quả nghiên cứu Để giải quyết những khó khăn, góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng  HSG Ngữ Văn tại các trường THPT có chất lượng đầu vào thấp tôi đã tiến hành   những công việc sau ở trường THPT Tương Dương 1: 1. Phát hiện và chọn học sinh tham gia đội tuyển HSG ­ Bước 1: Liên hệ, gặp gỡ  phụ  huynh và học sinh đặc biệt là  ở  các lớp   mũi nhọn đầu cấp để  thông báo về  việc thành lập đội tuyển HSG, lợi ích khi   các  em   được  tham   gia  bồi   dưỡng  cũng  như   chính  sách   của  nhà  trường,   địa   phương đối với HSG. Bước này được xem như việc đặt viên gạch đầu tiên để  xây công trình, là bước làm công tác tư tưởng đối với phụ huynh học sinh và học   sinh về việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi. Ở bước này nếu có thể được  giáo viên nên mời những khách mời cùng tham gia như: lãnh đạo địa phương,   những người học giỏi thành đạt...để họ cùng nói chuyện, trao đổi, chia sẻ trong   các buổi như: gặp gỡ và đón học sinh mới, Lễ khai giảng, họp phụ huynh hoặc   sinh hoạt lớp...Qua những buổi gặp gỡ, nói chuyện này người giáo viên có thể  nắm bắt được hoàn cảnh sống,  tâm tư, tình cảm, suy nghĩ và kể  cả  mong ước   của Cha mẹ học sinh và học sinh. Tại Trường THPT Tương Dương1, đa số gia  đình học sinh có hoàn cảnh kinh tế  khó khăn, bố  mẹ  thường có học vấn thấp   hoặc nếu có học hết chương trình phổ  thông thì thường cũng chỉ  là học lực  ở  mức trung bình và yếu nên trong cuộc sống họ  cũng thường làm những công   việc bình thường, chủ yếu là lao động phổ  thông, lao động chân tay đơn thuần  hoặc là công nhân bình thường thậm chí có một số phụ huynh đi lao động chui ở  Trung Quốc, Lào... nên thu nhập khá bấp bênh, thiếu ổn định, nhất là trong giai  đoạn dịch bệnh phức tạp. Qua đó người giáo viên tư vấn cho phụ huynh và  định  hướng cho học sinh   thấy rằng con đường phát triển bền vững là đầu tư  vào  bản thân, đầu tư vào tri thức, nâng cao giá trị bản thân. Việc phấn đấu rèn luyện  để trở thành học sinh khá, giỏi không chỉ là về kiến thức mà qua đó các em còn  được rèn luyện, phát triển về khả năng tư duy, cách nhìn nhận, đánh giá vấn đề  và giải quyết vấn đề  từ  đó hình thành cho các em những năng lực phẩm chất  cần thiết để xây dựng cuộc sống tốt đẹp sau này. ­ Bước 2:  Thường xuyên gần gũi tiếp xúc, trò chuyện bằng nhiều kênh  khác nhau để khuyến khích các em đăng kí tham gia đội tuyển dựa trên đam mê  7
  8. và sở thích nhằm tạo nguồn chọn lọc. Ở bước này người giáo viên trở thành nhà  tư vấn đồng hành, quan sát, động viên và giúp các em học sinh dân tộc thiểu số  miền núi bộc lộ  những phẩm chất, năng khiếu tiềm tàng và khuyến khích tạo  điều kiện để các em có cơ hội phát huy tốt nhất những khả năng ấy. ­ Bước 3: Song song với quá trình dạy học các lớp đầu cấp là hoạt động  thăm dò, khảo sát học sinh có năng khiếu môn Ngữ văn bằng cách tham khảo ý   kiến của Gv THCS và các bạn cùng học. Đây là bước khá quan trọng của việc  phát hiện nhân tố cho bồi dưỡng HSG. Trong quá trình dạy học chú ý dạy cách sử  dụng từ  ngữ  và tạo lập câu  văn, vì đối tượng học sinh  ở đây chủ  yếu là con em đồng bào dân tộc thiểu số  vùng sâu vùng xa và là đối tượng còn lại khi các trường như  THPTDTNT Tỉnh  và một số  trường miền xuôi khác đã tuyển những học sinh khá nhất, kết hợp  với các bài tập, các bài kiểm tra trên lớp. Ví dụ: Sau khi phân tích về  cấu tạo   của từ và câu giáo viên có thể yêu cầu học sinh sử dụng từ ngữ để tạo lập một  câu, một ý nào đó. Như: em hãy tạo lập một câu nói về mùa xuân? Học sinh có   thể tạo lập sản phẩm theo năng lực của mình. Gồm:         1. Mùa xuân là mùa đẹp nhất                  2. Mùa xuân ấm áp và đầy niềm vui                  3. Mùa xuân như là bài thơ hay của cuộc đời                  ..... Qua những bài tập nhỏ  như  vậy có thể  khuyến khích học sinh miền núi  tích cự  hoạt động trong giờ  học, giúp tăng thêm năng lực sử  dụng ngôn ngữ  tiếng phổ thông cho các em đồng thời có thể phát hiện ra những em có tố  chất   để bồi dưỡng trở thành học sinh giỏi ­ Bước 4: Tổ chức ôn luyện sơ bộ và tiến hành làm bài kiểm tra sát hạch   để chọn ra những  “ Hạt giống” tốt nhất để tiến hành bồi dưỡng. Một điều cần   lưu ý ở đây. Đó là, tính tự ái ở học sinh miền núi rất cao. Nên sau khi đã chọn ra   được những học sinh để  tham gia đội tuyển học sinh giỏi thì người giáo viên  cần làm tốt công tác tư tưởng đối với số  đông học sinh không được chọn. Cần  cho các em thấy rằng mặc dù không vào đội tuyển nhưng các em đó vẫn có năng  lực vượt trội hơn những học sinh bình thường khác. Nếu không bỏ cuộc và biết   tiếp tục phấn đấu các em sẽ dễ dàng thành công ở một cơ hội khác. Và khi các  em cảm thấy không bị  bỏ  rơi và tiếp tục phấn đấu thì chính những em này sẽ  góp phần không nhỏ nâng cao chất lượng đại trà cho nhà trường. ­ Bước 5: Các em trong đội tuyển được bồi dưỡng và tham gia kì thi HSG   trường để chọn ra những em xuất sắc nhất tham gia đội tuyển HSG Tỉnh và bồi  dưỡng theo kế hoạch. 2. Lập kế hoạch bồi dưỡng 8
  9. Chuyên môn nhà trường sẽ chỉ đạo Tổ, Nhóm chuyên môn nghiên cứu lập   kế hoạch bồi dưỡng và cử giáo viên cốt cán có kinh nghiệm phụ trách chính và   các thành viên còn lại đều có trách nhiệm tham gia hỗ trợ TT                   Nội dung bài dạy Trọng tâm Buổi 1 Nội dung và hình thức tác phẩm văn học Áp dụng kiến thức lí luận  Quá trình văn học và phong cách văn học văn học vào bài làm Giá trị văn học và tiếp nhận văn học 2 Luyện đề nghị luận xã hội Tư tưởng đạo lý 3 Luyện đề  nghị luận xã hội + Sửa bài Tư tưởng đạo lý 4 Kỹ năng làm bài nghị luận văn học Kỹ năng làm bài (Tây Tiến –  Quang Dũng) 5 Luyện đề nghị luận văn học Kỹ năng làm bài Việt Bắc ( Tố Hữu) 6 Luyện đề nghị luận văn học + Sửa bài Kỹ năng làm bài Đất Nước ( Nguyễn Khoa  Điềm) 7 Luyện đề nghị luận văn học + Sửa bài Kỹ năng làm bài Sóng ( Xuân Quỳnh) 8 Luyện đề nghị luận văn học + Sửa bài Tổng hợp, so sánh, đối  chiếu đoạn thơ, bài thơ Hình tượng người lính 9   Luyện đề nghị luận văn học + Sửa bài Tổng hợp, so sánh, đối  chiếu đoạn thơ, bài thơ Tình  yêu quê hương, đất nước 10 Kiểm tra trên lớp Nghị luận xã hội Nghị luận văn học 11 Luyện đề nghị luận xã hội Hiện tượng đời sống 12 Luyện đề nghị luận xã hội + Sửa bài Hiện tượng đời sống 13 Luyện đề nghị luận văn học + Sửa bài Kỹ năng làm bài Người lái đò sông Đà ( Nguyễn Tuân) 9
  10. 14 Luyện đề nghị luận văn học + Sửa bài Kỹ năng làm bài Ai đã đặt tên cho dòng sông ( Hoàng Phủ Ngọc Tường) 15 Luyện đề nghị luận văn học + Sửa bài Kỹ năng làm bài Vợ chồng A Phủ ( Tô Hoài) 16 Luyện đề nghị luận văn học + Sửa bài Kỹ năng làm bài Vợ nhặt 17 Luyện đề nghị luận văn học + Sửa bài Kỹ năng làm bài Rừng xà nu 18 Luyện đề nghị luận văn học + Sửa bài Kỹ năng làm bài Chiếc thuyền ngoài xa 19 Kiểm tra trên lớp Nghị luận xã hội Nghị luận văn học 20 Luyện đề nghị luận xã hội + Sửa bài Hiện tượng đời sống 21 Luyện đề nghị luận văn học + Sửa bài Kỹ năng làm bài tổng hợp,  so sánh, đối chiếu hai hay  nhiều tác phẩm văn xuôi 22 Luyện đề nghị luận văn học + Sửa bài Kỹ năng làm bài Thành công về nghệ thuật 23 Luyện đề nghị luận văn học + Sửa bài Kỹ năng làm bài Nhận xét, đánh giá về tác  phẩm 24 Tổng ôn tập Kỹ năng thi cử 25 Tổng ôn tập Giải đáp thắc mắc, dặn dò 3. Rèn luyện một số kỹ năng cho học sinh thi HSG môn Ngữ văn           3.1. Kỹ năng làm bài Nghị luận văn học, Nghị luận xã hội Kỹ  năng làm bài Nghị  luận văn học, bài Nghị  luận xã hội là kỹ  năng cơ  bản nhất của mỗi học sinh, đối với học sinh  giỏi, tất cả  những kỹ năng khác  muốn phát huy thì cần phải có kỹ  năng đầu tiên này. Một số  giáo viên khi bắt   tay vào bồi dưỡng thường nghĩ rằng, đây là những học sinh đã giỏi nên bỏ  qua  10
  11. bước cơ  bản cho các em tiếp xúc với những kỹ  năng nâng cao hơn vì vậy  thường gây ra thực tế “khủng hoảng” cho cả giáo viên lẫn học sinh.  Đã có nhiều công trình đề  tài nghiên cứu về  kỹ  năng làm bài Nghị  luận  văn học, bài Nghị luận xã hội cho học sinh vì vậy trong khuôn khổ đề tài này tôi   không đi đề cập sâu vào từng bước thực hiện mà chỉ đề cập một số vấn đề  cơ  bản đã hướng dẫn học sinh ôn luyện hiệu quả. a. Nghị  luận xã hội:  Là một phần không thể  thiếu trong việc kiểm tra  đánh giá năng lực HSG môn Văn. Nếu như  NLVH giúp học sinh cảm thụ  thế  giới nghệ thuật, bồi đắp tình cảm, tâm hồn con người thì NLXH giúp các em rèn   luyện khả  năng đưa ra ý kiến, suy nghĩ của mình về  các vấn đề  xã hội từ  đó   hình thành ý thức công dân và nhân cách con người. Vì vậy, trước hết giáo viên   giúp học sinh xác định chính xác mục đích, vai trò của kiểu bài này. Sau đó  hướng dẫn các em phân biệt các dạng bài như:     ­ Nghị luận về một tư tưởng đạo lý. Mở bài: Giới thiệu khái quát tư tưởng đạo lý Thân bài: Đảm bảo các ý:  ­ Giải thích: Tùy theo yêu cầu đề bài có thể có những cách giải thích khác  nhau:  + Giải thích khái niệm, trên cơ sở đó giải thích ý nghĩa, nội dung vấn đề.  + Giải thích nghĩa đen của từ ngữ, rồi suy luận ra nghĩa bóng, trên cơ sở  đó giải thích ý nghĩa, nội dung vấn đề.   + Giải thích mệnh đề, hình ảnh trong câu nói, trên cơ sở đó xác định nội  dung, ý nghĩa của vấn đề mà câu nói đề cập. ­Phân tích và chứng minh  những mặt đúng của tư  tưởng, đạo lí cần bàn  luận: Bản chất của thao tác này là giảng giải nghĩa lí của vấn đề  được đặt ra  để làm sáng tỏ tới cùng bản chất của vấn đề. Phần này thực chất là trảlời câu   hỏi:  Tại sao? (Vì sao?)  Vấn đề được biểu hiện như thế nào?  Có thể lấy những dẫn chứng nào làm sáng tỏ? ­ Bình luận, đánh giá (bàn bạc, mở rộng, đề xuất ý kiến…): + Đánh giá vấn đề: Nêu ý nghĩa của vấn đề, mức độ  đúng /sai, đóng   góp /hạn chế của vấn đề. + Phê phán, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề đang  bàn luận 11
  12. + Mở  rộng vấn đề, liên hệ  bản thân: Từ  sự  đánh giá trên, rút ra bài học   kinh nghiệm trong cuộc sống cũng như trong học tập, trongnhận thức cũng như  trong tư tưởng, tình cảm, … ( Thực chất trả lời câu hỏi: từ vấn đề bàn luận, hiểu ra điều gì? Nhận ra   vấn đề gì có ý nghĩa đối với tâm hồn, lối sống bản thân?…).  ­  Bài học hành động . Đề  xuất phương châm đúng đắn, phương hướng  hành động cụ thể Kết bài: Nêu ý nghĩa của tư tưởng đạo lý. ­ Nghị luận về một hiện tượng đời sống Mở bài: Dẫn dắt vào đề để giới thiệu chung về những vấn đề mà xã hội  ngày nay cần quan tâm.Giới thiệu vấn đề nghị luận đặt ra ở đề bài: hiện tượng   đời sống mà đề bài đề cập… ( Chuyển ý) Thân bài: Đảm bảo các ý:  ­ Trình bày thực trạng – Mô tả hiện tượng đời sống được nêu ở đề bài Có thể nêu thêm hiểu biết của bản thân về hiện tượng đời sống đó. Lưu ý: Khi miêu tả  thực trạng, cần đưa ra những thông tin cụ  thể, tránh   lối nói chung chung, mơ hồ mới tạo được sức thuyết phục.    + Tình hình, thực trạng trên thế giới    + Tình hình, thực trạng trong nước    + Tình hình, thực trạng ở địa phương ­ Phân tích những nguyên nhân – tác hại của hiện tượng đời sống đã nêu ở  trên.  Ảnh hưởng, tác động – Hậu quả, tác hại của hiện tượng đời sống đó: đối   với cộng đồng, xã hội, đối với cá nhân mỗi người.  Nguyên nhân: Khách quan và chủ quan ­ Bình luận về hiện tượng ( tốt/ xấu, đúng /sai…) + Khẳng định: ý nghĩa, bài học từ hiện tượng đời sống đã nghị luận. + Phê phán, bác bỏ  một số  quan niệm và nhận thức sai lầm có liên  quan  đến hiện tượng bàn luận Hiện tượng từ  góc nhìn của thời hiện đại, từ  hiện tượng nghĩ về  những  vấn đề có ý nghĩa thời đại  ­ Đề  xuất những giải pháp: Cần dựa vào nguyên nhân để  tìm ra những   giải pháp khắc phục.   + Đối với bản thân…   + Đối với địa phương, cơ quan chức năng 12
  13.   + Đối với xã hội, đất nước Kết bài: Khẳng định chung về hiện tượng đời sống đã bàn luận Ngoài kỹ năng cơ bản để làm bài, yêu cầu không thể thiếu để làm một bài  nghị luận xã hội hay đó là kỹ năng vận dụng kiến thức thực tế. Để bài làm của   các em mang tính xã hội tôi thường yêu cầu các em tìm hiểu những câu chuyện,   những tấm gương nổi tiếng hoặc những hiện tượng đang được cả  xã hội quan  tâm làm vốn hành trang để từ đó áp dụng vào bài làm khi cần thiết. Ví dụ:  ­ Bill Gates sinh ra trong một gia đình khá giả ở Hoa Kì. Từ nhỏ ông đã say   mê toán học, từng đậu vào ngành luật của trường đại học Harvard nhưng với  niềm say mê máy tính ông đã nghỉ  học và cùng với một người bạn mở  công ty   Microsoft. Vượt qua nhiều khó khăn ông đã trở thành người giàu nhất hành tinh  và hiện nay ông dành 95% tài sản của mình để làm từ thiện. ­> Thành công nhờ sự tự học và niềm đam mê công việc. ­ Thuở  thiếu thời Picaso là một hoạ  sĩ vô danh, nghèo túng  ở  Paris. Đến   lúc chỉ còn 15 đồng bạc, ông quyết định đánh canh bạc cuối cùng. Ông thuê sinh   viên dạo các cửa hàng tranh và hỏi ”  Ở  đây có bán tranh của Picaso không?”.   Chưa đầy một tháng tên tuổi của ông đã nổi tiếng khắp Paris, tranh của ông bán  đước và nổi tiếng từ đó. ­> Nếu không tự tạo cơ hội cho chính mình thì chẳng bao giờ ta có cơ hội  cả. ­ Hàng triệu năm dài con người sống trong phấp phỏng lo sợ bởi sấm sét  kinh hoàng. Franklin nhà bác học Mĩ đã dũng cảm thực hiện thí nghiệm làm cột  thu lôi. Công việc đó có thể  gây ra cái chết cho ông bất cứ  lúc nào. Sau nhiều   năm đương đầu với sấm sét, năm 1752 Franklin đã thành công. ­> Sức mạnh của lòng dũng cảm. ­ Walt Disney là con thứ tư trong một gia đình nông dân nghèo, cha nghiện  rượu, bài bạc. Sáu tuổi đã phải ra đồng làm việc. Mê vẽ nhưng vì không có tiền   nên ông dùng than để vẽ lên giấy vệ sinh. Sau này cái tên W. Disney đã trở nên   nổi tiếng thế  giới với những bộ phim hoạt hình đỉnh cao. W. D đã từng nói về  bốn điều làm nên cuộc đời mình: ­>Tin tưởng: Tin vào bản thân mình.    Ngoài ra học sinh có thể tìm hiểu thêm về những tấm gương tốt trong chương  trình cặp lá yêu thương trên VTV, những hành động đẹp vì cộng đồng trong  thiên tai bão lụt, dịch bệnh... Thí sinh sẽ không đạt kết quả cao nếu không có khả  năng vận dụng tốt.   Vận dụng tốt kiến thức có thể  khai thác được sự  thông minh, sáng tạo, bộc lộ  tố  chất của một học sinh giỏi thực sự. Vì thế, kỹ  năng vận dụng kiến thức cơ  13
  14. bản cùng với những hiểu biết xã hội không thể bỏ qua trong qua trình ôn thi học   viên giỏi làm bài nghị luận xã hội. b. Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ:         Trước hết giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh nắm bắt các kiến thức lí luận  về thơ như: Nhà thơ và quá trình sáng tạo, Ngôn ngữ và hình ảnh thơ, tính nhạc  và họa trong thơ, tính trữ  tình, chủ  thể  trữ  tình...Sau đó phân tích mẫu cho học   sinh cảm nhận và học sinh rèn luyện các dạng đề.   Ví dụ: Bàn về ngôn ngữ trong thơ, Nguyễn Đình Thi viết:   “Điều kì diệu của thơ  là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó,   ngoài công dụng gọi tên sự  vật, bỗng tự  phá tung mở  rộng ra, gọi đến xung   quanh nó những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ, tỏa ra xung quanh nó một   vùng ánh sáng động đậy. Sức mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy.”  (Mấy ý nghĩ về thơ, Ngữ văn 12 Nâng cao, tập 1, tr. 52, NXBGD, 2008)  Qua bài thơ  Sóng (Xuân Quỳnh) và Đàn ghi ta của Lor­ca (Thanh Thảo),  anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.  1, Làm rõ nội dung nhận định:                                                                ­ Ngôn ngữ thơ (chữ và nghĩa trong thơ) vừa có nghĩa do bản thân câu chữ  mang lại (nghĩa của nó, nghĩa gọi tên) vừa có nghĩa do câu chữ gợi ra (cảm xúc,   hình ảnh, vùng ánh sáng lay động, sức gợi).  ­ Khẳng định: Sức mạnh nhất của thơ là sức gợi ấy.  => Bằng cách diễn đạt hình  ảnh rất cụ  thể  và sinh động, Nguyễn Đình  Thi đã nhấn mạnh và làm nổi bật một đặc trưng bản chất của thơ ca: ngôn ngữ  trong thơ, vấn đề  chữ  và nghĩa. Tác giả  vừa khẳng định vừa cắt nghĩa, lí giải   sức mạnh của thơ nằm ở sức gợi. 2, Bàn bạc mở rộng ­ Vì sao lại nói như vậy + Cũng như văn học nói chung, chất liệu của thơ là ngôn ngữ đã được trau  chuốt, gọt giũa, có khả năng phản ánh trong nó hiện thực cuộc sống và tư tưởng   của nhà văn, nghĩa là ngôn ngữ thơ phải mang nghĩa, phải gợi lên một nội dung  nhất định. + Thơ là thể loại trữ tình vì vậy ngôn ngữ  thơ  phải gợi cảm, tức có khả  năng chuyển tải thế  giới cảm xúc của nhà thơ  và khơi gợi cảm xúc  ở  người  đọc. + Thơ  thường hạn đinh về  dung lượng hơn so với văn xuôi vì vậy ngôn   ngữ  thơ  phải hàm súc song giàu sức gợi, khêu gợi sự  liên tưởng, sự  đồng điệu   tâm hồn nơi độc giả. 14
  15. + Thơ  đi sâu vào thế  giới cảm xúc, đời sống nội tâm vốn phong phú và  tinh tế, để  gợi cảm, gợi sự  liên tưởng, ngôn ngữ  thơ  thường giàu hình  ảnh và  nhạc điệu. + Nhà thơ  tài năng phải tạo cho mình bản lĩnh, tài nghệ  trong sử  dụng   ngôn ngữ sao cho vừa giản dị lại vừa điêu luyện tài hoa, có cá tính sáng tạo. ­ Đánh giá nhận định: nhận định đề  cập đến vấn đề  then chốt của ngôn  ngữ thơ, điều làm nên sức mạnh cho một tác phẩm thơ từ đó đặt ra vai trò, trách  nhiệm của nhà thơ phải không ngừng tích lũy vốn sống, nuôi dưỡng cảm xúc và  rèn luyện nâng cao trình độ  khả  năng sử  dụng chất liệu, làm thơ  phải biết lựa   chọn ngôn ngữ  hàm súc, giàu sức gợi, có sức hấp dẫn, lôi cuốn... Nhận định   cũng gián tiếp đặt ra yêu cầu đối với độc giả  trong tiếp nhận thơ. Khi đến với   bài thơ là đến với một công trình nghệ  thuật ngôn từ, không chỉ  đồng điệu với   thế giới cảm xúc của nhà thơ, không chỉ  hiểu nghĩa câu chữ mà phải dựng dậy  lớp nghĩa được gợi ra từ câu chữ. 3, Chứng minh   a. Bài thơ Sóng:                 ­ Về  chữ: ngôn ngữ  dung dị mà chọn lọc tinh tế, gợi cảm, hàm súc, giàu   tính ẩn dụ. ­ Về nghĩa: + Nghĩa câu chữ: con sóng thực và các đặc tính của nó (dữ  dội, dịu êm,  trên mặt nước, dưới lòng sâu…) + Nghĩa mà sóng gợi ra (hình ảnh, cảm xúc…): những cung bậc tâm trạng  người con gái trong tình yêu, những khát vọng hạnh phúc đời thường và khao   khát tự hoàn thiện bản thân. => Ngôn ngữ  thơ  Xuân Quỳnh dung dị  mà có sức gợi sâu xa từ  hình  ảnh  thực mà liên tưởng đến tâm trạng người con gái trong tình yêu, khát vọng bất tử  hóa, tự hoàn thiện bản thân để hướng tới những giá trị đích thực của cuộc sống.  Chính sức gợi này đã tạo nên sức sống cho bài thơ. b. Đàn ghi ta của Lor­ca: ­ Về chữ: lối thơ tự do, ngôn từ  thơ  giàu màu sắc tượng trưng siêu thực,   giàu nhạc tính, mô hình mở giải phóng cảm xúc và tưởng tượng...  ­ Về nghĩa:  + Hình tượng Lor­ca và những giai điệu, cung bậc của tiếng đàn ghi ta. + Nỗi đau xót trước cái chết đầy bi phẫn của Lor­ca, niềm trân trọng,   đồng cảm của Thanh Thảo trước nhân cách cao thượng và vẻ đẹp tâm hồn Lor­ ca…  15
  16. => Ngôn ngữ thơ có nhiều đổi mới, giàu tượng trưng thiên về gợi, không  coi trọng tả  thực, mỗi từ  ngữ, hình  ảnh, câu thơ  đều có độ  mở  cho phép tiếp  nhận dân chủ, sáng tạo. Sức gợi của ngôn ngữ  thơ  tạo ra mạch ngầm đa nghĩa  cho tác phẩm. 4, Đánh giá chung ­ Về  ý nghĩa của vấn đề: ý kiến của Nguyễn Đình Thi về  một trong   những đặc trưng bản chất của thơ không chỉ có tác dụng nhất thời mà ngày nay  vẫn còn nguyên giá trị bởi ý nghĩa thời sự, tính chất khoa học đúng đắn. + Đối với người sáng tác: định hướng cho sự sáng tạo, làm thơ phải biết   lựa chọn ngôn ngữ hàm súc, giàu sức gợi, có sức hấp dẫn, lôi cuốn... + Đối với người thưởng thức: định hướng tiếp nhận, đọc thơ  không chỉ  hiểu nghĩa câu chữ mà phải dựng dậy lớp nghĩa được gợi ra từ câu chữ. ­ Về bài thơ Sóng và Đàn ghi ta của Lor­ca. c. Nghị luận một tác phẩm văn xuôi: Đề thi thường gặp là nghị luận về  một nhân vật văn học, tình huống truyện, thành công về  nghệ  thuật, tư  tưởng  nhân đạo…hoặc cũng có thể  là một chi tiết đặc sắc trong tác phẩm. Đối với  mỗi dạng đề,  giáo viên cần hướng dẫn lại cho học sinh nắm được cách làm bài  để tránh tình trạng kể lại tác phẩm, viết lan man không xác định đúng trọng tâm.  Ví dụ  1: Khi phân tích tình huống truyện của một tác phẩm, các em cần   phải đảm bảo những kiến thức cơ bản sau: ­ Tình huống truyện là gì? ­ Tình huống truyện trong tác phẩm được thể hiện như thế nào? ­ Ý nghĩa của tình huống truyện? Ví dụ 2. Phân tích giá trị nhân đạo, các em cần phải đảm bảo những kiến   thức cơ bản sau: ­ Giá trị nhân đạo là gì? ­ Giá trị nhân đạo biểu hiện thông qua tác phẩm? + Thông cảm, đồng cảm sâu sắc với những nổi khổ  đau, bất hạnh của   con người + Trân trọng khát vọng được muốn được sống, được tự do của con người + Tố cáo những thế lực đen tối chà đạp, vùi dập con người + Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người  ­ Đánh giá chung về tư tưởng nhân đạo Mặc dù đây chỉ  là những kiến thức cơ  bản nhưng đối với các học sinh  miền núi như  Tương Dương, giáo viên cần hướng dẫn học sinh  nắm chắc vì  16
  17. chỉ  khi có   nền tảng kiến thức cơ  bản các em mới có thể  vận dụng để  giải  quyết những vấn đề cao hơn.  3.2.  Kỹ năng viết đoạn văn,  bài văn hay, độc đáo Một đoạn văn,  bài văn hay là một đoạn, một  bài văn vừa đúng vừa trúng,  mà trước hết học sinh cần viết được đúng. Nghĩa là, học sinh phải nắm được  một số yêu cầu cơ bản khi tạo lập văn bản như sau:            1, Xác định đúng yêu cầu của đề bài            2, Xây dựng được hệ thống luận điểm, luận cứ tốt             3, Lựa chọn các thao tác lập luận chính xác, phù hợp             4, Không mắc lỗi dùng từ, lỗi diễn đạt    Thêm nữa, bài văn hay phải là bài văn trúng. Nghĩa là bài văn phải thể  hiện được sự  độc đáo, hấp dẫn, sáng tạo. Để  đạt được điều đó học sinh cần  lưu ý những điểm sau:   + Sử dụng kiến thức lí luận văn học vào bài viết   + Phát hiện được những vấn đề ngược lại với đề bài.   Để có được đoạn văn, bài văn hay, độc đáo thì bản thân người viết phải   có ý tưởng sáng tạo, sự  bùng nổ. Một trong những cách đó là phản biện lại   những vấn đề được đặt ra trong đề bài. Tất nhiên để làm được điều này không   phải dễ mà đòi hỏi học sinh phải có vốn hiểu biết sâu, rộng, vốn từ ngữ và kỹ  năng lập luận để  làm sao lí giải vấn đề  hợp tình hợp lí và thuyết phục được   người đọc. + Diễn đạt hay.  Một bài văn hay là bài văn có những câu văn hay. Trong bài làm của HSG  không phải câu nào cũng phải hay, phải xuất sắc, đặc biệt là với đối tượng học   sinh như  ở THPT Tương Dương1. Nhưng  trong một bài của các em đôi khi chỉ  cần một vài câu diễn đạt xuất sắc thì coi như  đã đạt rồi. Để  diễn đạt hay tôi  hướng dẫn các em một số kỹ năng sau:             1, Kỹ năng lựa chọn từ ngữ chính xác, linh hoạt             2, Kỹ năng viết câu linh hoạt             3, Kỹ năng tạo lập câu văn, đoạn văn  giàu hình ảnh             4, Kỹ năng sử dụng phương pháp so sánh             5, Kỹ năng lập luận như một cuộc đối thoại             6. Kỹ năng dùng dẫn chứng và trình bày dẫn chứng             7. Kỹ năng tạo giọng văn biểu cảm 17
  18.  Những kỹ năng trên  là những kỹ năng không thể có trong một sớm, một   chiều được mà đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì đồng hành chỉ  bảo, kiểm  tra, chỉnh sửa, góp ý, động viên học sinh rèn luyện kiên trì . Với quyết tâm và   cách làm đúng thì nhất định  học sinh sẽ   viết được những bài văn khiến giáo  viên hướng dẫn hài lòng.  3.3. Kỹ năng nhận diện đề thi Đối với học sinh gỏi kỹ năng này là không thể  thiếu vì thực tế  cho thấy   có nhiều em có kiến thức, có kỹ năng viết tốt nhưng do chủ quan, vội vàng, hấp   tấp nên đã bị  lạc đề, nhầm đề. Vì vậy việc rèn luyện kỹ  năng này đặc biệt là   đối với các em ở THPT Tương Dương1 là rất cần thiết, nó sẽ  giúp các em xác   định đúng vấn đề, đúng con đường đi của mình, giống như  người có kim chỉ  nam, khi đó việc về tới đích là tất yếu. Thông thường đề  thi HSG sẽ  gồm hai phần: NLXH và NLVH, học sinh   cần rèn luyện để nhận biết đề NLXH là thuộc dạng nào ( Nghị luận về một tư  tưởng đạo lí hay Nghị  luận về  một hiện tượng đời sống), đề  NLVH là thuộc  dạng đề nào để từ đó có hướng làm bài đúng và hợp lí.  Ví dụ: Cũng ra đề về tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân nhưng người ra đề  có thể ra các đề khác nhau như:    Đề  1: Đặc sắc của tình huống truyện trong truyện ngắn   Vợ  nhặt  của  Kim Lân Đề  2: Diễn biến tâm trạng nhân vật Bà cụ  Tứ  khi Tràng đưa người vợ  nhặt về. Đề 3: Giá trị hiện thực và nhân đạo qua truyện ngắn Vợ nhặt của Kim lân Khi tiếp cận đề học sinh cần đọc kỹ đề và gạch chân những từ ngữ,  những ý quan trọng và xem đó là những từ khóa để xác định trọng tâm yêu cầu  của đề, để từ đó vận dụng các thao tác lập luận: Giải thích, phân tích, chứng  minh, bình luận...để làm sáng tỏ vấn đề mà đề yêu cầu. 3.4. Kỹ năng phân bố thời gian hợp lý Trong thực tế dạy học tại trường THPT Tương Dương1 không hiếm gặp  những trường hợp học sinh có học lực khá, tốt nhưng điểm bài thi không cao do   các em bị  cuốn theo cảm xúc mà không phân bố  thời gian làm bài hợp lí, dành  quá nhiều thời gian cho một câu trong khi không đủ  thời gian làm bài cho phần  khác. Vì vậy tôi luôn nhắc nhở và rèn luyện các em về ý thức và kỹ  năng phân  bố thời gian làm bài thi. Đối với mỗi đề thi cần xác định số phần và số  câu hỏi   cũng như  số  điểm của mỗi câu. Trong mỗi câu lại cần chú ý số  luận điểm để  phân bố thời gian phù hợp. Trong quá trình làm bài cần điều chỉnh linh hoạt quỹ  thời gian. Nếu biết sử dụng thời hợp lí các  em sẽ  có tâm lí làm bài thoải mái  hơn và chắc chắn bài thi sẽ hoàn thiện hơn và chắc chắn tổng điểm thi sẽ  cao   hơn 18
  19. Trong bất cứ  lĩnh vực, hoàn cảnh nào, sự  chủ  động về  thời gian đều có  nhiều lợi thế. Chỉ  cần một số  mẹo nhỏ  trên các em sẽ  khắc phục được việc   “cháy” hay “lụt” bài làm không đáng xảy ra.  3.5. Hướng dẫn học  sinh làm bài, sửa bài, rút ra bài học kinh  nghiệm Học tập mà không rèn luyện thì chẳng khác gì học bơi nhưng không bao  giờ  xuống nước. HSG môn Văn ngoài vốn kiến thức nhờ  tích lũy, học hỏi thì   cần phải thường xuyên rèn luyện kỹ  năng viết, kỹ  năng lập luận. Chỉ  có thông  qua quá trình trau dồi đó thì cách viết của các em mới trở nên sắc sảo, chặt chẽ  và thuyết phục được. Thực tế giảng dạy ta vẫn thường bắt gặp những học sinh   khi trên lớp phát biểu xây dựng bài rất tốt nhưng khi làm bài lại dễ làm giáo viên  chấm bài thất vọng. Vì vậy trong quá trình bồi dưỡng HSG cần thường xuyên  cho các em rèn luyện cách lập luận, cách viết thông qua các bài viết trên lớp   hoặc bài tập về  nhà để  các em rèn luyện cách viết, trau dồi vốn từ, cách diễn   đạt... Song song với rèn luyện cách viết bài là giúp học sinh sửa bài, theo tôi  khâu này là rất quan trọng, nếu giáo viên vì lười mà chỉ làm qua loa thì học sinh   mình khó mà tiến bộ  được. Trong khi sửa bài cho học sinh tôi cố  gắng tránh   nhận xét chung chung mà đi sâu vào việc chỉ  ra và phân tích nhữ  từ  ngữ  dùng   hay, đắt giá những câu văn, cách diễn đạt độc đáo, sắc sảo của học sinh cũng  như chỉ ra các lỗi không được lặp lại, những lỗi cần tránh. Ngoài việc giáo viên   sửa bài cho học sinh tôi còn mạnh dạn cho học sinh “ đóng vai giáo viên” để  chấm bài của các bạn học sinh để  các em có thêm kinh nghiệm, sau đó cho các  em trao đổi, tranh luận để cùng nhau rút ra bài học kinh nghiệm. Quá trình này được thực hiện thường xuyên sẽ  giúp các em nhanh chóng  tiến bộ, giáo viên cũng sẽ đạt được kết quả mà mình mong muốn. Những phần kinh nghiệm trình bày  ở  trên, là những thao tác được tôi áp  dụng trong quá trình dạy bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn và đã đạt được kết  quả cao. 4. Kết quả đạt được 4.1. Đối với học sinh: Học sinh được quan tâm ngay từ  những ngày mới   bước chân vào trường, các em được gần gũi động viên, khuyến khích và có cơ  hội bộc lộ hết phẩm chất, năng lực của mình. Có nhiều em khi học ở THCS chỉ  là học sinh bình thường hoặc có những em chỉ  đạt những giải thấp nhưng khi   được áp dụng một số kinh nghiệm trên các em đã đạt được những thành tích cao   hơn. Ví du; em Lô Thị Thúy ở xã Tam Thái ở THCS chỉ là học sinh bình thường,  khi học ở THPT Tương Dương một đạt giải Ba học sinh giỏi Tỉnh; em Nguyễn   Hoài Thương đạt giải khuyến khích cấp huyện môn văn THCS, khi học tại   THPT Tương Dương1 em đạt giải Ba Học sinh giỏi Tỉnh... 4.2. Đối với giáo viên bồi dưỡng: Các kinh nghiệm trên có thể  giúp các  giáo viên, đặc biệt là những giáo viên mới có bước đi dài hơi và đầy đủ hơn để  19
  20. giải quyết bài toán khó, đặc thù của việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi ở  những trường có chất lượng đầu vào thấp như ở THPT Tương Dương1.  Với cá nhân tôi, Trong quá trình giảng dạy bản thân từng 4 lần được giao   nhiệm vụ bồi dưỡng HSG và cả bốn lần học sinh đều đạt giải. Năm   học   2003   ­   2004,   Bồi   dưỡng   HSG   tại   Trung   tâm   GDTX   Tương   Dương và đây là lần thứ 2 Trung tâm có HSG Tỉnh kể từ ngày thành lập.    Tại trường THPT Tương Dương 1 bản thân ba lần được giao bồi dưỡng HSG. Lần 1: Năm học 2012 – 2013: HS đạt HSG Tỉnh Lần 2: Năm học 2016 – 2017: HS đạt HSG Tỉnh Lần 3: Năm học 2020 – 2021: HS đạt HSG Tỉnh Một số hình ảnh về thành tích của thầy và trò: Tác giả được Bí thư Huyện ủy và Chủ tịch UBND huyện tặng hoa và  giấy khen trong lễ tuyên dương giáo viên có HSG cấp Tỉnh Em Nguyễn Kiều Trang HSG Tỉnh được Bí thư và Chủ tịch huyện tặng  hoa và giấy khen 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2