intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh Chuyên Văn

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:55

39
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm là giúp các em có kĩ năng đọc hiểu để nắm vững những kiến thức liên quan đến những văn bản mới lạ, định hướng các bước đọc hiểu văn bản và cung cấp một số văn bản ngoài chương trình để các em luyện tập. Nhờ đó, học sinh sẽ hoàn toàn tự tin, chủ động, sáng tạo trong quá trình lĩnh hội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh Chuyên Văn

  1. PHẦN THỨ NHẤT ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm 1.1.1.  Xã hội càng phát triển, nhu cầu mở  rộng hội nhập và giao lưu thế  giới  ngày càng nhiều, điều đó đòi hỏi con người có những nhìn nhận, đánh giá, phân tích về  các vấn đề xã hội sâu sắc, đầy đủ và toàn diện hơn. Trong bối cảnh toàn cầu bùng nổ  thông tin như hiện nay, việc đọc sách và nhu cầu tiếp cận với thế giới cần phải có sự  chọn lựa. Trình độ  văn hóa của mỗi cá nhân, mỗi quốc gia được đánh giá bằng năng  lực nắm bắt, tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin từ các loại văn bản khác nhau. Người  có kiến thức không chỉ là người được đào tạo một cách bài bản mà còn là người biết  nắm bắt thông tin, biết đọc hiểu và chắt lọc, sử  dụng thông tin một cách hiệu quả  nhất. Ở đâu có nhiều người biết nắm bắt thông tin, biết xử lý thông tin, thì ở đó sẽ có   tri thức, sẽ là một quốc gia phát triển. 1.1.2. Trong những năm gần đây đổi mới phương pháp dạy học luôn là vấn đề  được quan tâm hàng đầu của ngành giáo dục. Điểm mấu chốt của đ ổi mới phương  pháp dạy học là việc người học ­ đối tượng của hoạt động dạy, chủ  thể  của hoạt   động học ­ được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo,  để khám phá những điều mình chưa rõ, chứ không phải là tiếp thu một cách thụ động  những tri thức đã được giáo viên sắp đặt, từ  đó nắm chắc kiến thức, kĩ năng, không  rập khuôn theo những khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.  Không chỉ đổi mới phương pháp dạy học mà còn đổi mới hình thức, phương pháp thi,  kiểm tra và đánh giá kết quả  học tập... Điều này đã được thể  hiện trong nhiều văn  bản nói về  những quan điểm và đường lối chỉ  đạo của nhà nước về  đổi mới GD.   Trong báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ  XI nêu rõ:   Đổi mới chương   trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện   đại..; Nghị quyết Hội nghị Trung  ương 8 khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo  dục và đào tạo viết: tiếp tục đổi mới mạnh mẽ  phương pháp dạy và học... Đổi mới   căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo,   bảo đảm trung thực, khách quan... từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và   cộng đồng giáo dục giáo dục thế  giới tin cậy và công nhận...; Chiến lược phát triển  giáo   dục   giai   đoạn   2011­   2020   ban   hành   kèm   theo   Quyết   định   711/QĐ­TTg   ngày  13/6/2012 của Thủ  tướng chính phủ  cũng chỉ  rõ: Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy   1
  2. học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác,   chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học... 1.1.3. Ngữ văn luôn luôn đóng vai trò là một trong những bộ môn chính yếu trong   trường THPT. Hơn thế  nữa, với đặc thù riêng về  sự  chính xác tương đối, sự  phụ  thuộc vào cảm xúc của người dạy và người học mà vấn đề dạy và học Ngữ văn luôn   được quan tâm đặc biệt. Mục tiêu chung của môn Ngữ  văn  ở  THPT là trên cơ  sở  đã   đạt được của chương trình Ngữ  văn THCS, bồi dưỡng thêm một bước năng lực Ngữ   văn cho học sinh, bao gồm năng lực đọc hiểu các văn bản thông dụng (văn, thơ,   truyện), năng lực viết một số văn bản thông dụng... đồng thời cung cấp một hệ thống   tri thức về văn học dân tộc và văn học thế giới (Bộ Giáo dục & Đào tạo, Ban liên lạc  các trường Đại học sư phạm toàn quốc, Kỷ yếu Hội thảo khoa học đổi mới nội dung   và phương pháp dạy học ở các trường Đại học sư phạm, Hà Nội 2004). Học sinh luôn  tiếp xúc trước hết với văn bản và chính vì thế  mà định hướng phương pháp đọc hiểu  là vô cùng cần thiết. 1.1.4. Đáp ứng yêu cầu đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá   kết quả giáo dục, từ những năm gần đây, trong các kì thi THPT quốc gia, thi học sinh   giỏi các cấp, đề  thi môn Ngữ  văn đã thay đổi. Đổi mới cả  nội dung thi và cách thức   hỏi nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển năng lực và khả năng vận dụng văn chương vào  thực tế cuộc sống...  1.1.5. Thực tế  cho thấy, học sinh Chuyên Văn không chỉ  lĩnh hội văn bản trong   chương trình SGK hiện hành mà tự  bản thân mỗi học sinh phải biết cách lĩnh hội tri   thức các văn bản ngoài chương trình, có vậy mới đáp ứng được đòi hỏi của xã hội và   thích  ứng với các kì thi nhất là kì thi học sinh giỏi cấp quốc gia. Nhưng khả năng tự  đọc hiểu văn bản của các em còn rất hạn chế, nhất là với những văn bản mới chưa   được học. Vì vậy cần có sự hướng dẫn của giáo viên để học sinh có những kĩ năng cơ  bản khi đọc hiểu các văn bản ngoài chương trình với từng thể loại, dạng bài cụ thể.   Bộ  SGK lớp 10 Nâng cao có hai bài học  Đọc hiểu văn bản văn học  và  Đọc   hiểu văn bản trung đại  nhưng thiết nghĩ như  thế  vẫn chưa đủ  để  có thể  giúp học  sinh khái quát kiến thức và áp dụng cho mọi loại văn bản. Xuất phát từ những lý do căn bản trên đây, chúng tôi quyết định chọn vấn đề  Rèn   kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm ngoài chương trình cho học sinh Chuyên Văn làm vấn  đề nghiên cứu.   2
  3. Chúng tôi hi vọng đây là một tài liệu cần thiết, bổ ích dành cho giáo viên Ngữ văn  và học sinh THPT, nhất là học sinh học các lớp chuyên văn nhằm nâng cao chất lượng  dạy học, nâng cao hiệu quả ôn luyện thi. 1.2. Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm Xuất phát từ thực trạng đã nêu, trên cơ sở kế thừa, phát huy thành tựu nghiên cứu   của  những người   đi  trước,  chọn  đề   tài  Rèn  kỹ   năng  đọc,  hiểu  tác  phẩm  ngoài   chương trình cho học sinh Chuyên Văn  chúng tôi hướng tới mục đích cơ  bản sau:  giúp các em có kĩ năng đọc hiểu để  nắm vững những kiến thức liên quan đến những  văn bản mới lạ, định hướng các bước đọc hiểu văn bản và cung cấp một số văn bản  ngoài chương trình để các em luyện tập. Nhờ đó, học sinh sẽ hoàn toàn tự tin, chủ động,  sáng tạo trong  quá trình lĩnh hội.  3
  4. PHẦN THỨ HAI NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề 2.1.1 Khái niệm đọc hiểu văn bản  Đọc hiểu văn bản là tiến trình thẩm thấu cảm nhận những nét nghĩa mà văn bản   gợi ra cho người đọc. Qúa trình đó yêu cầu người đọc phải phát huy tối đa trí tưởng  tượng và trở thành bạn đọc sáng tạo để hiểu và tìm ra chân lí. Đọc tác phẩm văn chương là một quá trình phát hiện và khám phá nội dung ý  nghĩa xã hội, con người, thời đại trong cấu trúc hình tượng thẩm mĩ của tác phẩm đan   xen giữa hoạt động nhận thức, đánh giá và thưởng thức giá trị  đích thực tồn tại trong   hình thức nghệ thuật độc đáo của tác phẩm.  Tác giả Nguyễn Thanh Hùng quan niệm: Đọc không phải chỉ là tái tạo âm thanh   từ chữ viết mà còn là quá trình thức tỉnh cảm xúc, quá trình tri giác và nhuần thấm tín   hiệu để  giải mã ngôn ngữ, mã nghệ  thuật, mã văn hóa đồng thời với việc huy động   vốn sống, kinh nghiệm cá nhân người đọc để  lựa chọn giá trị  tư  tưởng thẩm mĩ và ý   nghĩa vốn có của tác phẩm. Đọc là chúng ta đón đầu những gì mình đang đọc qua từng   từ, từng câu, từng đoạn rồi quay lại về với những gì đọc qua để kiểm chứng và đi tìm  hợp sức của tác giả  để  tác phẩm được tái tạo trong tính cụ  thể  và giàu tưởng tượng.   Độc giả là người đồng sáng tạo với nhà văn, có khác chăng là nhà văn đi từ  tư  tưởng  4
  5. đến ngôn ngữ, còn người đọc lại đi từ ngôn ngữ đến tư  tưởng, để  rồi có những sáng   tạo, phát hiện và cảm nhận mà chính người viết cũng không thể ngờ tới. Quan niệm về  đọc hiểu của PISA: Đọc hiểu là sự  hiểu biết, sử  dụng và phản   hồi lại trước một văn bản viết, nhằm đạt được mục đích, phát triển tri thức và tiềm   năng cũng như việc tham gia hoạt động của một ai đó trong xã hội Nếu như đọc là sự  tiếp xúc văn bản về  mặt ngôn từ, câu chữ  trực tiếp thì hiểu   được coi là sự  tiếp xúc văn bản về  mặt bên trong, tức là những nội dung tiềm  ẩn.   Hiểu tức là nắm vững và vận dụng được. Hiểu tức là biết kĩ và làm tốt. Hiểu một đối  tượng không chỉ dừng ở quan sát, nắm bắt cái bề ngoài. Bản chất của hoạt động đọc hiểu văn bản là quá trình lao động sáng tạo mang  tính thẩm mĩ nhằm phát hiện ra những giá trị  của tác phẩm trên cơ  sở  phân tích đặc   trưng của văn bản.  Năng lực đọc hiểu, một năng lực bao gồm các năng lực cảm nhận, lí giải, thưởng  thức, ghi nhớ và đọc nhanh mà năng lực lí giải là quan trọng nhất. Đọc­ hiểu là hoạt  động duy nhất để học sinh tiếp xúc trực tiếp với các giá trị văn học, tránh sự áp đặt từ  bên ngoài kể  cả  từ  thầy cô, ngăn chặn được sự  suy giảm năng lực đọc của học sinh  trong điều kiện các phương tiện nghe nhìn ngày càng phổ biến... Điều này rất phù hợp   với quy luật tiếp nhận văn học và quy luật phát triển tư  duy cũng như  sự  hình thành  nhân cách. 2.1.2. Khái niệm năng lực đọc hiểu Năng lực đọc hiểu văn bản là tổng hợp những khả  năng hiểu, cảm thụ  và lĩnh  hội cũng như  chiếm lĩnh, trở  thành người viết thứ  hai, bạn đọc sáng tạo, khả  năng  phân ích chi tiết và khái quát thành chủ đề cũng như phát triển nghĩa mới của văn bản. Có thể  quan niệm năng lực đọc hiểu văn bản là toàn bộ  quá trình tiếp xúc trực   tiếp với văn bản; là quá trình phản hồi, sử dụng văn bản. Đọc hiểu không chỉ thông hiểu đúng nội dung thông tin của văn bản mà còn phải   hiểu cả vai trò, tác dụng của các yếu tố hình thức của văn bản trong việc biểu đạt nội   dung, nhất là với văn bản văn học. Theo nghiên cứu của tác giả  Nguyễn Thị  Hồng Vân, năng lực đọc hiểu sẽ  bao  gồm 4 thành tố/ kĩ năng thành phần là: ­ Xác định các thông tin từ văn bản về tác giả, hoàn cảnh sáng tác, cốt truyện, ý  tưởng, thông điệp... 5
  6. ­ Phân tích, kết nối các thông tin để xác định giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật   của văn bản, từ văn bản. ­ Phản hồi và đánh giá văn bản: phản hồi, đánh giá thông tin thể  hiện trong văn   bản và qua văn bản từ kinh nghiệm cá nhân. ­ Vận dụng thông tin từ  văn bản vào thực tiễn; sử  dụng các thông tin trong văn   bản để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong học tập và trong đời sống. 2.1.3. Mục đích, vai trò của đọc hiểu văn bản Đọc hiểu văn bản là một thuật ngữ  mới xuất hiện trong bối cảnh của sự  gia   tăng khối lượng tri thức nhân loại theo cấp số nhân. Có hàng trăm nghìn kiểu văn bản  và sách cần đọc. Mỗi người cần tìm ra một phương pháp đọc riêng cho mình để hiểu  sâu về vấn đề quan tâm, biết cách chọn thông tin phục vụ cho nhu cầu bản thân. Chính  vì điều này mà môn Ngữ  văn  trong nhà trường có một  vai trò quan trọng trong việc  hình thành thói quen đọc hiểu...Với học sinh chuyên văn phải tự  trang bị  cho mình  nhiều tác phẩm ngoài chương trình để  có vốn giàu có phục vụ  tốt cho quá trình lĩnh  hội kiến thức và thi cử. Vì vậy cần phải có một phương pháp đọc hiểu tốt để gặp bất   kì một văn bản mới nào mình cũng biết cách lĩnh hội. Dạy học đọc hiểu, kiểm tra đọc hiểu là nhằm hình thành năng lực tự  đọc hiểu  của học sinh. Khi hình thành năng lực đọc hiểu của học sinh cũng chính là hình thành   năng lực cảm thụ thẩm mỹ, khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng và tư duy. Năng lực đọc  ­ hiểu của học sinh còn được hiểu là sự tích hợp những kiến thức và kỹ năng của các  phân môn cũng như toàn bộ kỹ năng và kinh nghiệm sống của học sinh. Đây là một đòi   hỏi bức thiết đối với học sinh chuyên văn. Nội dung thông tin trong các văn bản đọc hết sức phong phú, có liên quan đến   nhiều   lĩnh  vực   của  cuộc   sống  và   nhiều   môn  học  khác,   do   vậy,  giúp  học   sinh   có   phương pháp đọc, khả năng tự tìm kiếm thông tin đa dạng của cuộc sống để  đáp ứng  năng lực, sở thích của cá nhân. 2.1.4. Cấu trúc năng lực đọc hiểu văn bản Đối với văn bản văn học nói chung, năng lực đọc hiểu gồm các yêu cầu, cấp độ  sau: ­ Nhận biết văn bản: nhận ra, nhận diện, nhớ  lại những kiến thức đã biết, đã  học, đã có sẵn trong văn bản. Nhĩa là nhận biết được nội dung và hình thức bề nổi của  văn bản. Yêu cầu học sinh nhận biết được các chi tiết lộ  rõ trên văn bản như: đề  tài,   chủ đề, nhan đề, bố cục, thể loại và các hình thức đặc trưng, bối cảnh ra đời, ý chính   6
  7. của mỗi phần, đoạn, văn bản, các chi tiết thuộc nội dung của văn bản, xoay quanh  những câu hỏi như: Văn bản viết về  cái gì? Chuyện gì đã xảy ra, với ai, khi nào,  ở  đâu?. từ đó nhận biết, giải thích, phân tích, đánh giá đề tài của văn bản...  ­ Thông hiểu: hiểu và lí giải được đặc điểm, bản chất, nguyên nhân của vấn đề;  phải giải thích, phân tích, cắt nghĩa được vai trò, chức năng, ý nghĩa của các yếu tố,   chi tiết và mối quan hệ giữa chúng trong văn bản... Nghĩa là học sinh phải hiểu được   nội dung bề sâu và vai trò của các hình thức trong việc thể hiện nội dung  ấy. Với văn  bản văn học, nội dung và hình thức bề nổi nêu trên chỉ  là phương tiện để  chuyển tải  thông điệp, ý tưởng bên trong, những nội dung bề sâu mà tác giả không thể  hiện trực  tiếp, muốn hiểu văn bản, người đọc cần biết phân tích, kết nối thông tin theo yêu cầu   và nguyên tắc của việc tiếp nhận văn bản văn học. Cụ  thể  là từ  những yếu tố  hình   thức nghệ thuật, phân tích, kết nối để thấy rõ nội dung được tác giả gửi gắm trong đó  cũng như  ý nghĩa khách quan của văn bản. Đối với văn bản văn học, các yếu tố  hình   thức thường được chú ý xem xét như: + Nghệ thuật sử dụng ngôn từ, đặc biệt là ngôn ngữ văn học: phân tích, đánh giá  sự  phù hợp, nét đặc sắc trong cách dùng từ  ngữ, viết câu, vận dụng các biện pháp tu  từ, tổ chức diễn ngôn, các yếu tố  thuộc ngôn ngữ  nói và ngôn ngữ  viết, ngôn ngữ  kể  chuyện,   ngôn   ngữ   đối   thoại,   ngôn   ngữ   tự   nhiên   và   các   phương   tiện   giao   tiếp   đa  phương thức. + Đặc trưng thể loại: nhận biết, miêu tả, phân tích, so sánh, đánh giá các yếu tố  văn học như bối cảnh, tứ thơ, cốt truyện, nhân vật, xung đột, màn kịch... trong các văn  bản thuộc các thể  loại cơ  bản như: thơ, truyện, kịch, kí....Phân tích, đánh giá sự  phù   hợp của thể loại được lựa chọn đối với mục đíchvà đối tượng tiếp nhận của văn bản. ­ Vận dụng: Vận dụng tri thức, sự hiểu biết vào giải quyết những giá trị mà bản   thân văn bản đó có hoặc giải quyết những tình huống tương tự  (vận dụng thấp). Từ  đó, vận dụng các tri thức, kĩ năng đã có vào việc giải quyết tình huống mới, phức tạp.   Đồng thời phản biện, đánh giá vấn đề  theo những mục đích nhất định. Có thể  bày tỏ  quan điểm riêng về các bất đồng tranh luận hoặc đưa ra được các cách tiếp cận mới, ý   tưởng mới, sản phẩm mới ­ đọc hiểu theo kiểu đồng sáng tạo hay đặt trong sự  đối  sánh...( vận dụng cao). 2.1.5. Khung năng lực đọc hiểu văn bản văn học: 7
  8. Có nhiều tiêu chí để  chúng ta đánh giá năng lực của học sinh, trong quá trình tổ  chức các hoạt động đọc hiểu văn bản và hướng dẫn học sinh tự đọc hiểu, giáo viên có   thể sử dụng khung năng lực đọc hiểu văn bản nói chung như sau: Thành tố và  Những yêu cầu cụ thể mức độ Nhận biết ­ Nhận biết được bố cục của văn bản. ­ Nhận biết được thể loại, thể tài của văn bản. Nhận biết được các yếu tố  ngôn ngữ  của văn bản (ngữ  âm, từ  loại,   biện pháp tu từ, kiểu câu, đoạn, các phép liên kết...) ­ Nhận biết được đề tài của văn bản ­ Nhận biết được thông tin phản ánh, miêu tả  trong văn bản (sự  vật,  hiện tượng, con người, sự kiện, diễn biến các sự kiện...) Phân tích ­ Xác định được cấu trúc của văn bản ­ Xác định được những hình tượng nghệ thuật chính trong văn bản ­ Xác định được những yếu tố nghệ thuật then chốt, quan trọng cần lý  giải trong văn bản ­ Xác định được phương hướng chia tách văn bản, từ  đó đi sâu tìm   kiếm, khám phá ý nghĩa của văn bản Lý giải ­ Kết nối các thông tin trong văn bản (ngôn ngữ, hành động của nhân  vật, lời bình của tác giả...) để giải thích các chi tiết nghệ thuậ trong văn   bản. ­ Kết nối các thông tin ngoài văn bản (bối cảnh thời đại, tác giả, hoàn   cảnh sáng tác, tri  thức về  thể  loại, kiến thức văn hóa, xã hội, kinh  nghiệm cá nhân...) để cắt nghĩa các chi tiết nghệ thuật trong văn bản Đánh giá ­ Nhận xét về nội dung và nghệ thuật của văn bản. ­ Bình luận về thông điệp nghệ thuật của người viết. ­ Phản biện những nội dung đặt ra trong văn bản. Vận dụng ­ Rút ra bài học cho bản thân. ­ Sử  dụng các thông tin trong văn bản vào giải quyết các tình huống   trong cuộc sống. ­ Khái quát hóa quá trình đọc hiểu thành các qui tắc, cách thức, phương  pháp đọc hiểu. ­ Đọc hiểu được các văn bản tương tự. Sáng tạo ­ Bổ sung những giá trị mới cho văn bản. 8
  9. ­ Viết tiếp văn bản ­ Chuyển thể loại hình văn bản (đóng vai, kịch bản, biểu diễn...) Như  vậy, dạy học theo định hướng phát triển năng lực nói chung và năng lực  đọc hiểu môn Ngữ văn nói riêng cho học sinh THPT là những phương pháp và nguyên   tắc dạy học tích cực nhằm phát huy tính tích cực chủ  động sáng tạo, cũng như  khả  năng thích  ứng với hoàn cảnh và giải quyết tình huống mới cho học sinh. Hướng đi  này cần tiếp tục được bổ  sung, hoàn thiện và triển khai sâu rộng hơn để  góp phần  phát triển lý luận dạy học nói chung và môn Ngữ  văn nói riêng, đồng thời tạo ra tiền   đề lý thuyết cho việc đề xuất các biện pháp đổi mới nâng cao chất lượng dạy học tác  phẩm văn chương trong và ngoài nhà trường. 2.2. Cơ sở thực tiễn 2.2.1. Thực trạng học những tác phẩm ngoài chương trình của học sinh   chuyên văn.   Ngữ  văn là môn học không thể  thiếu trong trường học phổ thông, vì mục tiêu  quan trọng nhất của nó: bên cạnh việc trau dồi cho các em cách cảm, cách nghĩ về  cuộc sống một cách sâu sắc và nhân văn hơn, là rèn luyện cho học sinh khả  năng sử  dụng ngôn ngữ, một phương tiện tư duy và giao tiếp chủ yếu, phổ biến nhất trong xã  hội. Trong bản chất, những mục tiêu này chỉ có thể đạt được kết quả thực sự khi con   người được trải nghiệm trong các tình hưống sư phạm mang tính thực tiễn, khiến các   kiến thức, kĩ năng, cảm xúc không phải được trao lại như một món quá có sẵn mà trở  thành quá trình chủ động nắm bắt, thẩm thấu vào trong nhận thức của các em.   Hành trình sáng tạo của người nghệ sĩ là một hành trình khám phá thế  giới và  chính bản thân mình qua sự  trải nghiệm cá nhân. Người đọc văn là người đi lại, đi  tiếp, thậm chí đôi khi đi ngược hành trình trải nghiệm của tác giả  ­ nhưng dù theo  hướng nào, sự sâu sắc trong vốn sống cũng khiến anh ta có thể chia sẻ, khám phá sâu  hơn vào thế giới nghệ thuật của nhà văn: quá trình tiếp nhận văn bản của anh ta chắc   chắn sẽ  không dừng lại  ở  câu chữ  hay một vài hình  ảnh, mà một vùng ký  ức với  những xúc cảm sâu xa, phổ vào câu chữ cái thế giới sinh động, ám ảnh, trong đó ngôn  từ  nhoè đi nhường chỗ  cho  ấn tượng và kỉ  niệm. Như  thế, văn của tác giả  đã sống  trong người đọc bằng một điệu sống khác, đọc văn không chỉ để hiểu biết mà còn để  sẻ chia. Một khía cạnh ngược lại, với những người ít trải nghiệm, sự  thâm nhập vào  thế  giới hình tượng văn học có thể  là cơ  hội để  họ  kinh qua những cảnh đời, những  xúc cảm chưa một lần biết tới, cũng là cách để  những trang văn lấp đầy khoảng  9
  10. khuyết thiếu, làm phong phú hơn kinh nghiệm của mỗi cá nhân. Suy cho cùng, sự trải  nghiệm với người đọc văn mang tính chất hai chiều: sống sâu sắc để đọc được những  ẩn ý của văn chương và đọc những ẩn ý của văn chương để hiểu về những lẽ sâu sắc  của cuộc đời. Người học văn là một dạng người đọc đặc biệt: người đọc được định hướng,  và trong những phạm vi nhất định, còn là người đọc được lập trình theo một khung  chương trình cơ  bản cấp quốc gia. So với những người đọc khác, người đọc văn  ở  cấp độ  này ít kinh nghiệm sống hơn, nhưng lại có những cảm xúc tươi mới, cái nhìn  năng động, sáng tạo mà đôi khi những người đi trước không còn giữ  được. Giáo viên  dạy văn cần phải chú ý đặc điểm này để  có thể  định hướng người học ở một chừng  mực vừa đủ: không cảm thụ thay các em (vì điều này sẽ  khiến các em vô cảm trước  tác phẩm), nhưng cũng không hoàn toàn phó mặc để cho các em đánh giá tác phẩm một  cách tuỳ tiện. Tất nhiên, đối với chúng ta, biết thế  nào là “vừa đủ” thật không phải dễ. Hệ  quả  là, trong những năm gần đây, thực trạng dạy học văn  ở  nước ta đang ở  mức độ  báo động: nhiều học sinh quay lưng lại với môn Văn. Thiết nghĩ để học sinh yêu thích   môn Văn và các tác phẩm văn học, người dạy cần trở  lại với vấn đề  bản chất của  việc đọc văn: đọc văn là trải nghiệm ­ để  có thể  tạo một môi trường tích cực cho  người học thực sự được hoà mình vào tác phẩm. Có thể có những giới hạn về không  gian và thời gian giữa tác giả, tác phẩm và người đọc, song nhìn trong bản chất, những   vấn đề  sâu xa nhân bản vốn không có ranh giới phân chia. Cảm xúc trước hoa hồng  của một nghìn năm trước và một nghìn năm sau cơ  bản vẫn là sự  rung cảm trước cái  đẹp, quan trọng là người ta có cơ hội để gặp gỡ và ngắm thưởng hoa. Chỉ khi nào học   sinh tự  thấy mình yêu ghét, nói lên những cảm xúc bằng ngôn ngữ  của mình chứ  không phải bằng lời của người khác, khi ấy việc học Ngữ văn mới thực sự có ý nghĩa. Chương trình giáo dục phổ thông hiện nay đã dạy học đọc hiểu và cho học sinh   tiếp cận theo định hướng năng lực. Đặc biệt học sinh chuyên văn đã quen thuộc với  việc dạy đọc hiểu  ở  các văn bản. Song thực chất mới chỉ  dừng lại  ở  việc dạy học   sinh đọc hiểu và tiếp cận văn bản một cách đơn thuần, đơn lẻ, học bài nào biết bài đó  mà chưa tập trung chú ý hướng vào rèn kĩ năng đọc hiểu theo đặc trưng thể loại, theo   chủ đề. Việc dạy học đọc hiểu với bộ môn Ngữ văn chưa thực sự đồng bộ. Chúng tôi  chưa có điều kiện khảo sát nhận thức về đọc hiểu bằng phiếu điều tra ở  các trường   THPT Chuyên trong khu vực và trên cả  nước. Chúng tôi chỉ  mới điều tra bằng phỏng   10
  11. vấn học sinh trong tỉnh nhà với 03 lớp Chuyên Văn thuộc ba khối lớp 10, 11, 12 của   Trường THPT Chuyên và một số học sinh trong Đội tuyển học sinh giỏi cấp tỉnh của  một số trường THPT lân cận, chúng tôi thu được kết quả như sau: ­ Với câu hỏi 1:  Em đã được học môn Ngữ  văn theo cách đọc hiểu từ  khi nào?   Cảm nhận của em về  cách học đó? Phần lớn các em trả  lời được học từ  Tiểu học,  một bộ phận nhỏ trả lời được học từ THCS. Hầu hết các em đều khẳng định: học văn  theo phương pháp mới này rất hay và bổ ích, giúp em tiếp thu tác phẩm dễ dàng, khắc   sâu kiến thức, liên hệ được với thực tiễn cuộc sống. ­ Trong câu hỏi 2: Khi đọc hiểu một văn bản trên lớp, em thường chú ý đến những   vấn đề gì xung quanh văn bản? Học sinh đều trả lời: các em thường chú ý tới tác giả,  hoàn cảnh ra đời, đề tài, thể loại, giá trị nội dung, nghệ thuật, đóng góp của tác giả. ­ Ở câu hỏi 3: Từ việc đọc hiểu một văn bản trong chương trình, em có thể  đọc   hiểu những văn bản tương tự ngoài SGK không? Nhiều học sinh trả lời: các em khó có  thể  đọc hiểu được những văn bản tương tự   ngoài SGK bởi các em không biết đi từ  thao tác nào. Một số ít em có thể tự đọc hiểu được vì dựa vào cấu trúc, thể loại giống  những văn bản đã được học để  đọc hiểu vì chỉ  cần nắm vững những kiến thức, kĩ  năng cơ bản về thể loại đó là có thể đọc hiểu được. Điều đó cho thấy, nếu người dạy  biết chú ý vào kĩ năng đọc hiểu từng thể loại và năng lực của học sinh sẽ có thể khơi  dậy ở các em khả năng đọc hiểu văn bản ngoài chương trình SGK. * Về phía học sinh: ­ Học sinh tiếp thu kiến thức một cách rời rạc, hoặc chỉ có mối liên hệ tuyến tính  một chiều học thụ động. ­ Trình độ  nhận thức sau quá trình học tập thường chỉ  dừng lại  ở  trình độ  nhận  biết, hiểu và  vận dụng giải quyết các bài tập mà chưa vận dụng vào thực tiễn đời   sống. Vì vậy khi gặp văn bản ngoài chương trình thì nhiều em lúng túng, khả năng vận  dụng để đọc hiểu chưa có hoặc có nhưng chưa cao. ­ Kết thúc một giai đoạn văn học, một khuynh hướng, thời đại…học sinh chỉ  có  kiến thức từng phần riêng biệt hoặc có hệ thống kiến thức liên hệ tuyến tính theo trật   tự các bài học mà không có một tổng thể kiến thức mới theo chủ đề. ­ Một số đơn vị kiến thức còn xa rời thực tiễn mà người học đang sống do sự chậm   cập nhật của nội dung SGK. Nhiều học sinh lười đọc nên kiến thức thường hạn hẹp   trong chương trình, nội dung học. Hơn nữa, nhiều học sinh chưa chủ  động, tích cực   trong việc gắn kiến thức bài học với thực tiễn như: giao tiếp, hợp tác… 11
  12. * Về phía giáo viên: ­ Chương trình Ngữ văn trong SGK chưa sắp xếp các văn bản theo chủ đề, vẫn học  theo đơn vị bài học riêng lẻ. Hơn nữa nhiều văn bản chỉ  là đoạn trích không phải văn  bản hoàn chỉnh vì vậy giáo viên rất khó khăn trong việc hình thành kĩ năng đọc hiểu   cho học sinh với từng dạng văn bản cụ thể. ­ Một số  giáo viên chưa dám đột phá trong việc dạy học, đã có sử  dụng phương   pháp hiện đại và phương tiện hỗ trợ dạy học song hiệu quả chưa cao. ­ Một số giáo viên chưa chú ý đến việc phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh vì  thế vẫn còn nặng về nội dung kiến thức . ­ Do áp lực về  thời gian, giới hạn chương trình nhiều giáo viên trong các giờ  học  thường ưu tiên tập trung khai thác chiều sâu văn bản. Theo đó, trong quá trình lên lớp   vấn đề tích hợp ít được quan tâm, chưa tạo cho học sinh thói quen xâu chuỗi; liên hệ  với kiến thức có liên quan nên chưa phát huy hết tính chủ động tích cực sáng tạo trong   giờ  dạy văn cho học sinh, chưa tổ  chức được những giờ  học thật sự  sáng tạo, gây  hứng thú đối với học sinh. ­ Giáo viên chưa được đào tạo chuyên sâu về  đổi mới phương pháp dạy học tích  cực, hiện đại; có tập huấn chuyên môn nhưng không thường xuyên, đôi khi còn qua  loa. 2.2.2. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 2.2.2.1. Định hướng lựa chọn những tác phẩm ngoài chương trình phù hợp với lớp   chuyên văn Lựa chọn văn bản là vấn đề đầu tiên và cũng là vấn đề cốt lõi để nâng cao kĩ năng  đọc hiểu cho học sinh chuyên văn. Đối với các em học sinh chuyên văn các tác phẩm   trong chương trình đều được giáo viên hướng dẫn khai thác sâu, kĩ nhưng các em vẫn   còn  bị  động và lúng túng khi đọc hiểu những tác phẩm không có trong chương trình.   Nói cách khác các em có thể viết rất sâu và rất hay về những tác phẩm được học song   lại hoàn toàn lúng túng trước những tác phẩm lạ. Thực tế này báo động rằng, học sinh  nói chung, ngay cả học sinh chuyên văn nói riêng vẫn còn yếu về kĩ năng đọc hiểu, các   em vẫn chưa thể  trở  thành những độc giả  độc lập. Vì thế  việc rèn cho học sinh kĩ  năng đọc hiểu những tác phẩm mở  rộng ngoài chương trình là điều cần thiết. Bước   đầu tiên đó là định hướng lựa chọn văn bản để  các em đọc. Vậy nên lựa chọn những   văn bản như thế nào để giúp học sinh tự đọc hiểu ngoài giờ? Sau đây chúng tôi đưa ra   một số cách định hướng: 12
  13. a.  Lựa chọn các văn bản ngoài chương trình có cùng đề tài với các tác phẩm trong   chương trình được học.  * Bước 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh trong lớp liệt kê các tác phẩm theo đề  tài có trong chương trình. Xét theo chương trình hiện hành, các tác phẩm được học   chủ yếu thuộc các đề tài chính như:  ­ Đề tài người phụ nữ: Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Độc   Tiểu Thanh kí, Thơ Hồ Xuân Hương ­ Đề tài người nông dân: Chí Phèo, Vợ nhặt, Vợ chồng A Phủ… ­ Đề tài cách mạng: Thơ Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Quang Dũng… ­ Đề tài chiến tranh: Những đứa con trong gia đình, Rừng xà nu, Hòn đất… ­ Đề  tài đời tư, thế  sự:  Chiếc thuyền ngoài xa, Hồn Trương Ba, da hàng   thịt… * Bước 2: Giáo viên giới thiệu một số tác phẩm có cùng đề  tài để học sinh tìm  hiểu. Như đề tài người phụ nữ giới thiệu thêm các tác phẩm khác của: Nguyễn Du,   Bạch Cư  Dị, của văn học đương đại; Đề  tài người nông dân, giáo viên giới thiệu   thêm các tác phẩm của Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, tác phẩm  Lỗ Tấn…; Đề tài thế sự hậu chiến giáo viên có thể giới thiệu tác phẩm  Tiếng lục   lạc của nhà văn Nguyễn Quang Lập… b. Lựa chọn những tác phẩm khác của những tác giả  nổi tiếng trong chương  trình. * Bước 1: Giáo viên cho học sinh lập danh sách những tác giả lớn, có những tác   phẩm  quan trọng được học trong chương trình như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,  Nguyễn Dữ, Hồ  Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Thạch Lam, Nguyễn Tuân,   Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Puskin, Sekhop,   Seechxpia, V. Huy – gô… * Bước 2: Giáo viên giới thiệu các tác phẩm khác cùng thuộc các tác giả này để  học sinh đọc mở rộng. Lưu ý nên để các em tự lựa chọn đọc tác giả nào mà các em   thấy cần bổ sung kiến thức nhiều hơn.  c. Lựa chọn những tác phẩm của các nhà văn nổi tiếng trên thế giới * Bước 1: Giáo viên cho học sinh tìm hiểu và lập danh sách các nhà văn nổi  tiếng trên thế giới.  13
  14. * Bước 2: Giáo viên giới thiệu các tác phẩm cần đọc của các tác giả  nổi tiếng   đó. Cũng như trên, nên để các em tự lựa chọn các tác phẩm của tác giả mà các em   yêu thích, không nên áp đặt gây mất hứng thú cho quá trình đọc của học sinh. d. Lựa chọn những tác phẩm đã đạt giải thưởng lớn trong nước cũng như  thế  giới. * Bước 1: Giáo viên cho học sinh về nhà tìm hiểu và lập danh sách các tác phẩm   lớn gây được tiếng vang trong nước và thế giới. * Bước 2: Giáo viên giao nhiệm vụ  cho học sinh lựa chọn các tác phẩm mình   yêu thích để đọc và tìm hiểu.  Quá trình lựa chọn nguồn đọc như  vậy sẽ  đảm bảo được tính  ứng dụng thiết  thực nhất cho các em học sinh nhất là học sinh chuyên văn. Những văn bản này sẽ  trở thành công cụ trợ giúp đắc lực cho các em trong quá trình học và nâng cao chất   lượng bài viết cho học sinh. Thực tế kiến thức của học sinh chuyên văn lâu nay vẫn  còn đơn điệu, nghèo nàn thì việc định hướng cho học sinh tìm hiểu văn bản theo  những gợi ý như trên sẽ khắc phục được hạn chế đó. Ngoài ra cũng có thể khuyến   khích cho học sinh đọc tự do theo ý thích nếu các em đã hoàn thành cho mình những   nội dung mà giáo viên đã định hướng.  2.2.2.2. Định hướng một số  kĩ năng đọc hiểu tác phẩm ngoài chương trình cho   học sinh chuyên văn. Muốn đọc hiểu một tác phẩm văn học nói chung đều nên thông qua một quá  trình gồm ba giai đoạn: Trước khi đọc, trong khi đọc và sau khi đọc. Ở mỗi giai đoạn  này cần làm sao để học sinh phát huy được tối đa năng lực của mình để hiểu và tìm ra  được thông điệp của văn bản, từ  đó rút ra được những tri thức mới, làm giàu thêm ý  nghĩa của văn bản, trở thành bạn đọc sáng tạo. Vì thế  trong chương định hướng đọc  hiểu văn bản văn học ngoài chương trình cho học sinh chuyên văn, chúng tôi sẽ  đi   hướng dẫn cụ thể các hoạt động mà người đọc cần thực hiện trong từng giai đoạn để  có thể chiếm lĩnh được văn bản một cách sâu nhất.   a.  Rèn kĩ năng tr   ước khi đọc hiểu một tác phẩm  * Xác định mục tiêu đọc Cái đích cuối cùng và cốt lõi để đọc một văn bản là hiểu nó. Kết quả của việc   hiểu đến đâu lại phụ  thuộc vào định hướng tiếp cận, vào mục tiêu cụ  thể  của học   sinh khi đến với tác phẩm. Vậy trước hết, học sinh cần giải quyết  được câu hỏi   14
  15. “Mình đọc để làm gì?” sẽ giúp học sinh căn cứ  trên mục tiêu mà điều chỉnh quá trình  đọc cho phù hợp.  Nói cách khác, học sinh xác định lý do, mục đích đọc là bước khởi   đầu quan trọng. Tại sao phải làm như vậy? Điều này sẽ giúp các em có thể tương tác   thành  công   với  tác  phẩm.  Thông  thường,  khi  các  em  tìm   đến  các   tác  phẩm  ngoài  chương trình thì có nhiều mục đích đọc khác nhau. Đọc để  giải trí, đọc để  tìm kiếm   thông tin cho một nội dung nghiên cứu, đọc để thưởng thức, đọc để tranh luận, chia sẻ  với bạn bè… Riêng đối với học sinh chuyên văn thì đọc chủ  yếu để  mở  rộng kiến   thức, để học, để nâng cao chất lượng bài viết. Vì thế  việc xác định mục tiêu đọc lại   càng cần thiết. Trước hết sẽ tiết kiệm thời gian, học sinh sẽ xác định chỗ nào cần đọc   kĩ, chỗ nào cần đọc lướt chứ không phải cứ đọc tuần tự theo trật tự tuyến tính. Không   những vậy xác định mục đích đọc sẽ giúp cho hoạt động cắt nghĩa tác phẩm hiệu quả  hơn. Ví dụ  khi các em xác định mục tiêu đọc là để  học, để  cắt nghĩa được tác phẩm   thì mục tiêu này đòi hỏi người đọc  ở  quá trình hai:  Đó là quá trình đọc, sẽ  phải đọc   sâu hơn, phải kết nối được các yếu tố, suy luận từ vấn đề  này qua vấn đề  khác. Từ  đó quá trình đọc sẽ diễn ra chậm hơn, để học sinh cảm nhận được tiếng lòng của tác   giả, lắng nghe được nhạc tính, âm điệu mà tác phẩm đem đến cho đọc giả.  Như vậy điều quan trọng trước tiên là học sinh cần xác định mục tiêu đọc để có  cách đọc sao cho phù hợp nhất với mình và có được sản phẩm đọc đạt yêu cầu trong  quá trình học tập. Khi học sinh ý thức được vai trò của mục tiêu và hoàn thành các   mục tiêu trong bài đọc cụ  thể  dần dần sẽ giúp học sinh hình thành kĩ năng đọc đúng   mục tiêu cho quá trình đọc sau này. Tức là bắt đầu vào trang sách là các em biết được  mục tiêu mình cần cái gì, đọc để làm gì. Tất nhiên, trong thực tế đọc, mục tiêu đọc có   thể  thay đổi so với dự  kiến khi học sinh tương tác với tác phẩm và người đọc hoàn   toàn có được kết quả đọc vượt xa với mong muốn ban đầu. Điều này phụ  thuộc vào  tiềm năng tạo nghĩa của văn bản và độc giả.   *  Huy động tích cực những tri thức, trải nghiệm đọc hiểu Bất cứ một độc giả  nào không riêng gì các em học sinh khi muốn hiểu một tác  phẩm văn học cũng rất cần biết huy động một cách tích cực các kiến thức nền, hay là  các trải nghiệm đọc hiểu của mỗi cá nhân đã có từ  trước đó. Tri thức nền hay những  trải nghiệm đọc hiểu này tùy thuộc vào từng cá nhân, song chúng tôi có thể  quy về  mấy vấn đề chính như: Tìm hiểu về đặc trưng thể loại trước khi đọc, về bối cảnh xã   hội, văn hóa khi sáng tác, những thông tin về tiểu sử, những câu chuyện về con người,  15
  16. những giai thoại văn chương của tác giả, hoặc là những đánh giá, nhận xét của những  độc giả khác khi đọc tác phẩm ấy. Như vậy khi cầm một quyển sách trên tay, độc giả  có kinh nghiệm sẽ không ngấu nghiến đọc ngay. Họ  có thể  nhìn vào tiêu đề  ­  Ngọn   đèn mờ (Nguyễn Thanh Hùng) của văn bản. Họ nhìn vào tên tác giả gắn với tác phẩm   – xa lạ hay thân thuộc, đã quen chưa hay thực sự mới gặp lần đầu. Họ  nhìn lướt qua  xem dung lượng dài ngắn thế  nào, ít hay nhiều đối thoại. Họ  quan tâm xem mục lục  có bao nhiêu phần. Họ  lật qua một số  trang, nhìn vào các đoạn nhỏ…Những yếu tố  này sẽ  giúp họ  gợi lại những hiểu biết có liên quan, tạo tâm thế  sẵn sàng cho việc  đọc, làm dễ dàng hóa quá trình đọc hiểu, khiến độc giả tương tác sâu sắc với văn bản  trong quá trình đọc, tạo ra những kết nối, những suy luận sâu sắc, từ đó đạt được mục   đích lớn nhất đặt ra của việc đọc – đó là hiểu được văn bản. Nhưng đáng tiếc là   những độc giả  thiếu kinh nghiệm, thiếu kĩ năng như  một số  học sinh lười đọc lại   thường bỏ qua khâu này.  b.  Rèn kĩ năng trong khi đ   ọc hiểu một tác phẩm  Sự trải nghiệm đọc hiểu chỉ thực sự diễn ra khi bạn đọc bắt đầu tương tác với  văn bản. Tất nhiên những tri thức nền vẫn tiếp tục được huy động, song đây là giai  đoạn đọc thể hiện rõ nhất bản chất phức tạp, năng động, phát triển không ngừng của  hành động đọc và sự  sáng tạo của chủ  thể  đọc  ở  mọi phương diện. Các thao tác tư  duy, các khả năng nhận thức, siêu nhận thức, các cung bậc cảm xúc …đan xen, phức  hợp vào nhau để giúp người đọc phản hồi lại văn bản. Tuy vậy, chúng tôi có thể đưa  ra những hành động cơ bản mà học sinh cần được trải nghiệm trong quá trình đọc như  sau: *  Giải mã, nhận biết những thông tin và đặc điểm chính về văn bản. Giải mã ngôn từ là bước quan trọng đầu tiên giúp người đọc thâm nhập vào thế  giới thông tin của văn bản. Khả  năng đọc trôi chảy từng là tiêu điểm nghiên cứu để  phát triển năng lực đọc hiểu văn bản văn học, đặc biệt là đối tượng học sinh tiểu học.   Còn với học sinh THPT và đặc biệt học sinh chuyên văn, khả năng giải mã về cơ bản  đã hoàn thiện, đối với những mã ngôn ngữ không quen thuộc, có thể dựa vào văn cảnh   và chủ động tìm kiếm, vận dụng các nguồn thông tin hỗ  trợ, từ  đó hiểu ngôn từ  của   văn bản, nắm bắt được nghĩa các từ khó (Các từ Hán Việt, các từ mang nghĩa đặc biệt   trong văn cảnh, các điển tích, điển cố…); Xác định cấu trúc tổng thể của văn bản như  16
  17. thể loại, bố cục, đề tài…; Xác định các chi tiết hình ảnh, từ ngữ, đoạn văn quan trọng   tập trung thể  hiện chủ  đề  văn bản. Người đọc cũng không được bỏ  qua khâu giải   nghĩa những từ khó, chưa biết, nếu trường hợp từ khó đã có đánh dấu để giải thích ở  cuối sách thì đọc được dễ  dàng, trường hợp từ  khó đó không được cắt nghĩa ta cũng  cần có những sách, công cụ  giải mã như: Từ  điển, google, thuật ngữ  văn học…Một   độc giả thành thạo họ sẽ  không bỏ  qua khâu quan trọng này. Họ  cũng không đọc các  thông tin đó thuần túy là phát lên tín hiệu âm thanh từ câu chữ. Họ  biết gắn nội dung   chú thích, giải nghĩa đó vào các từ ngữ, điển tích, điển cố đang hiện lên trang văn bản  để  xem thực sự  kí hiệu chữ  viết và tín hiệu âm thanh đó là gì từ  đó người đọc sẽ  lý  giải được nghĩa văn bản, tránh trường hợp đọc xong văn bản mới quay ra tìm từ  khó  để giải nghĩa lúc ấy văn bản đi một nơi, chú thích, từ khó đi một nẻo sẽ không hỗ trợ  cho quá trình để đọc và hiểu được văn bản.  Tuy nhiên, ở mỗi thể loại có cách giải mã, nhận biết thông tin, đặc điểm chính  của văn bản không giống nhau. Ví dụ trong quá trình đọc thơ trữ tình ta cần chú ý đến  thể  thơ, chủ  thể  trữ  tình, cảm xúc, âm hưởng chủ  đạo; Đọc truyện cần nhận diện   được tình huống truyện, nhân vật chính, nắm các sự kiện tiêu biểu…Trong khi đó, với  văn bản thông tin, một trong số những yêu tố đáng quan tâm khi giải mã về đặc điểm  hình thức   trình bày như: cách thức tổ  chức văn bản thành từng chương, phần hay   những đoạn nhỏ  có liên kết với nhau theo quan hệ nhân – quả, so sánh, liệt kê, phân   loại…với những tiêu đề, tiểu mục mang tính chất khái quát giúp người đọc dễ  theo   dõi, cũng giống như  văn bản văn học, văn bản thông tin cũng có nhiều thể  loại, tri  thức nền về  các thể  loại cụ  thể  có định hướng quan trọng trong suốt quá trình đọc  hiểu. * Tập trung khi đọc Tập trung khi đọc là cách tốt nhất để người đọc có thể suy nghĩ cặn kẽ, tư duy   tích cực và ghi nhớ  nội dung văn bản. Để  tập trung được, người đọc cần nỗ  lực tạo  cảm hứng cho bản thân trước khi đọc. Đồng thời cần chọn một không gian yên tĩnh,  thoáng mát, có ánh sáng, đọc trong tư  thế  thoải mái nhưng không nên nằm vì theo   nghiên cứu nằm đọc sẽ rất hại mắt và ảnh hưởng đến khả năng ghi nhớ nội dung văn  bản trong quá trình đọc.  17
  18. Tuy nhiên tập trung cần đi kèm với có kĩ  thuật đọc. Kỹ  thuật phải được rèn  luyện thường xuyên để  đạt được hiệu quả  tốt nhất. trong khi đọc, có một số  điểm   bạn cần phải chú ý: + Đọc bằng mắt và óc chứ không đọc bằng miệng. + Tránh đọc nhảy trở lại quá nhiều. + Chuyển động mắt theo chiều thẳng đứng khi đọc. + Đọc với tốc độ biến đổi: Đoạn nào quan trọng thì đọc chậm, đọc kĩ; đoạn nào  không quan trọng thì đọc nhanh, đọc lướt. + Cố gắng hiểu ý nghĩa của cả đoạn văn, đừng để ý đến từ, đến câu. + Tập đọc nhanh, nắm và thâu tóm nhanh cái chủ yếu, cái cơ bản của vấn đề. Bạn cũng nên luyện tập để tăng dần tốc độ đọc. Tuy nhiên đọc nhanh không có   nghĩa là đọc ngấu nghiến, vội vàng mà đọc nhanh là tóm thật nhanh, đủ, đúng nội   dung. Bạn nên phán đoán trước khi đọc, nếu đã có mục đích đọc thì phần nào quan   trọng bạn đọc kỹ, phần nào không quan trọng bạn đọc lướt qua, tránh lối đọc tràn lan  tốn thời gian. Để  rèn tốc độ  đọc, bạn hãy lấy một quyển sách, chọn một trang đọc  thật nhanh sau đó ghi ra những nội dung mà bạn tóm được. Đọc lại lần nữa để  xem   mình đã ghi đủ, đúng nội dung chưa. Rèn luyện như thế thường xuyên chắc chắn bạn   sẽ nâng cao tốc độ đọc của mình, tiếp thu kiến thức nhanh hơn. * Tích cực tư duy khi đọc ­ Hình dung, tưởng tượng Đây được xem là công cụ  hữu hiệu mà độc giả  có kĩ năng sử  dụng trong quá  trình đọc hiểu một văn bản. Những kí hiệu nằm phẳng dẹt trên trang giấy nhờ có hình  dung và tưởng tượng mà trở  nên có hồn, sống động. Các nhà nghiên cứu đọc trên thế  giới đã chỉ ra rằng ngôn ngữ có ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dưng các hình ảnh trí  não. Tiến sĩ Phạm Thị Thu Hương đã cho rằng: Văn bản văn chương là một hệ thống   mở  với cấu trúc đa tầng, cấu trúc ngôn từ  là một hiện hữu vật chất mà độc giả  tiếp   xúc  ở  chặng đầu tiên. Phía sau hệ  thống câu chữ  kết dệt nên văn bản ngôn từ  ấy là   thế giới hình tượng được khắc họa sống động “thật hơn cả người thật” mà chìa khóa   để mở cánh cửa ấy không gì khác, phải bắt đầu từ hình dung, tưởng tượng . Đọc là quá  trình nhập thân, được sống cùng bầu khí quyển với nhân vật, chính hình dung tưởng  tượng sẽ làm cho nhân vật đầy đặn hơn, cho chúng dáng dấp, hình hài, bước ra từ tác   18
  19. phẩm và giao tiếp với độc giả. Vậy làm thế  nào để  hình dung và tưởng tượng trong   quá trình đọc hiểu văn bản? Đây là một vấn đề  không dễ  trả  lời. Học sinh khi đọc  một văn bản có thể tự tạo ra trong tâm trí mình một bức tranh, một hoàn cảnh mà ở đó   nhân vật, sự kiện văn bản đang diễn ra, rồi từ đó người đọc liên tục đặt ra những câu  hỏi để khuyến khích những hình ảnh trong tưởng tượng được tiếp diễn. Có như  vậy  quá trình đọc hiểu mới hiệu quả, nội dung văn bản được ghi nhớ  sâu sắc và có  ấn   tượng lâu dài. Ví dụ khi đọc cảnh chị Dậu phải bán con, bán chó để lấy tiền nộp sưu   tôi cứ  hình dung ra cảnh tượng đau lòng của hai mẹ  con khi chị  đưa cái Tý sang nhà   Nghị Quế. Đó là cảnh một người mẹ đang đứt từng khúc ruột, xót xa như chết đi sống   lại khi phải bán đứa con gái ngoan, hiểu chuyện, một bên là đứa trẻ đáng thương vừa   cúi xuống nhặt những hạt cơm chó, vừa ràn rụa nước mắt khi biết mình từ nay không  được trở  về nhà. Hai hình ảnh ấy cứ  khiến tôi ám ảnh khi đọc tác phẩm này. Tương  tự như vậy, khi đọc Vợ nhặt của Kim Lân, rất nhiều độc giả đã tưởng tượng ra cảnh  buổi sáng hôm sau tại nhà Tràng, trong không khí cái đói đe dọa tang thương thì những   con người khốn khổ   ấy vẫn cứ  hướng về  niềm tin, hi vọng. Bắt  đầu từ  hình  ảnh   trong óc Tràng hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phần phật trên con đê Sộp. Cái hình ảnh  ấy đã gieo vào tâm hồn của ba con người khốn khó  ấy khao khát sống mãnh liệt và   độc giả cũng có niềm tin hi vọng rằng gia đình họ sẽ thay đổi cuộc sống cùng với sự  đổi đời kì diệu của toàn dân tộc.  ­ Kết nối văn bản với thực tế đọc Kết nối là quá trình tương tác giữa độc giả  với văn bản. hay đó còn gọi là mối   quan hệ  hướng ngoại, mối quan hệ  giữa văn bản với độc giả. Một độc giả  tích cực   như  học sinh chuyên văn khi đọc cần biết kết nối văn bản mình đang đọc với những   văn bản khác đã đọc có liên quan hay có cùng chủ đề. Ví dụ khi đọc  Độc Tiểu Thanh   Kí ta cảm nhận rất rõ tiếng lòng đồng cảm sâu sắc của đại thi hào Nguyễn Du với   người con gái tài sắc nhưng bạc mệnh Tiểu Thanh thông qua  mảnh giấy tàn, nhà thơ  như  thể  nghe thấy tiếng khóc nức nở  của nàng, hiểu được sự  nghịch lý, trớ  trêu của  bao kẻ tài tử giai nhân trong xã hội phong kiến, qua đó lên tiếng đòi quyền sống quyết   liệt cho cái đẹp, cái tài trong cái xã hội mà tài năng và sắc đẹp bị  dập vùi, ghẻ  lạnh.   Từ tiếng khóc, sự tri âm của Nguyễn Du học sinh có thể kết nối với câu chuyện giữa   Bá Nha với Tử  Kỳ. Khi tiếng đàn của Bá Nha vang lên là Tử  Kỳ  có thể  nghe thấu  tiếng lòng của người bạn, khi thì như  đăng sơn, lúc lại như  lưu thủy. Để  rồi, với Bá   Nha chỉ có Tử Kỳ mới trở thành tri âm, đến khi Tử Kỳ mất, Bá Nha đập cây đàn không   19
  20. bao giờ  đánh đàn nữa bởi không bao giờ  có ai đó có thể  tri âm với tiếng đàn của ông   như người bạn đã qua đời. Cùng chủ đề đồng cảm, tri âm như thế học sinh hoàn toàn   có thể  kết nối với tiếng lòng đồng cảm được rung lên của Tố  Hữu với bậc tiền bối   Tiên Điền năm xưa: Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời ngàn thu Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày. Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu Một ví dụ khác, khi học sinh đọc tác phẩm Cô gà mái xổng chuồng của nhà văn  HWang Sun mi, các em sẽ  vô cùng ấn tượng bởi cô gà mái tự  đặt cho mình cái tên là   Mầm Lá có một ước mơ được đẻ và ấp những quả  trứng xinh xinh. Đó là khao khát,   là  ước mơ mãnh liệt của cô gà. Và cuối cùng, cô đã mạnh dạn tìm cách thoát ra khỏi   môi trường quen thuộc của mình để  phưu lưu, tìm kiếm  ước mơ, dẫu chặng đường  tìm kiếm mơ   ước thật gian nan và vô cùng khốc liệt nhưng cô quyết tâm không bao  giờ từ bỏ. Và cuối cùng cô đã đạt được ước mơ, cô đã ấp trứng dẫu đó không phải cái   trứng do cô tự  sinh ra, nhưng cô đã nuôi Đầu Xanh lớn lên bằng tình yêu thương âu   yếm hơn cả  của một người mẹ  dành cho con mình. Cuối cùng, dẫu phải chịu đựng   nỗi cô đơn, dẫu phải đối diện với thực tế  khó tránh khỏi cái chết nhưng Mầm Lá  chưa bao giờ thấy hối hận vì chuyến phưu lưu, chưa bao giờ  hối tiếc vì mình đã mơ  ước và quyết tâm thực hiện nó. Từ văn bản này học sinh có thể kết nối với tác phẩm  rất nổi tiếng khác là Nhà giả kim của nhà văn Paulo Cocelho. Câu chuyện kể về một  cậu bé chăn cừu, không chịu bằng lòng với hiện thực bình yên, thậm chí có khả năng  khá giả  đó là suốt ngày lùa đàn cừu đi chăn rồi nhâm nhi những ngụm rượu vang đỏ,  làm bạn với những cuốn sách và mơ về trời sao, cô gái con ông chủ của quán mà cậu  thường đưa cừu đến để  xén lông bán. Một ngày kia, giấc mơ  đi tìm kho báu cứ  thôi  thúc cậu và cuối cùng cậu đã bỏ lại tất cả để lên đường thực hiện khao khát đó. Cậu   đã trở  thành những kẻ  lang thang, thậm chí mất trắng, không còn khả  năng về  được  quê hương nhưng cậu vẫn quyết tâm, chấp nhận làm lại sau thất bại và cuối cùng cậu   đã đạt được ước mơ một cách ngoạn mục. Cả hai câu chuyện đều thôi thúc con người   ta đi tìm kiếm  ước mơ  và nỗ  lực để  đạt được nó, cho dù có thất bại, cho dù có gian  khổ đến mấy cũng không bao giờ bạn phải hối tiếc.  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2