intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 qua dạy học phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”(Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, Ngữ văn 10)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:69

41
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu đề tài này nhằm đề xuất được các biện pháp rèn luyện và phát triển kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 thông qua dạy học phần Nói và nghe : Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bộ sách Kết nối với tri thức, Ngữ văn tập 1,2). Đồng thời tạo ra một không khí dạy học dân chủ, thoải mái, góp phần làm nên sức hấp dẫn của tiết dạy, thực hiện đúng mục tiêu của Chương trình GDPT Ngữ văn 2018.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 qua dạy học phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”(Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, Ngữ văn 10)

  1. SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT YÊN THÀNH 2 ======***===== SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TRANH BIỆN CHO HỌC SINH LỚP 10 QUA DẠY HỌC PHẦN NÓI VÀ NGHE: THẢO LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ XÃ HỘI CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU ( BỘ SÁCH KẾT NỐI TRI THỨC VỚI CUỘC SỐNG, NGỮ VĂN 10) LĨNH VỰC: NGỮ VĂN Tên tác giả: 1. HOÀNG THỊ THU HUYỀN 2. CUNG THỊ THU Tổ bộ môn: Ngữ văn Năm thực hiện: 2022 -2023 SĐT liên hệ : 0343675101 0966512070 Yên Thành, tháng 4 năm 2023 1
  2. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TRANH BIỆN CHO HỌC SINH LỚP 10 QUA DẠY HỌC PHẦN NÓI VÀ NGHE: THẢO LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ XÃ HỘI CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU ( BỘ SÁCH KẾT NỐI TRI THỨC VỚI CUỘC SỐNG, NGỮ VĂN 10) LĨNH VỰC: NGỮ VĂN
  3. MỤC LỤC Trang Phần I. Đặt vấn đề………………………………………………………… 1 Phần II. Nội dung nghiên cứu…………………………………………… 6 Chương 1. Cơ sở khoa học của đề tài…………………………………….. 6 1. Cơ sở lý luận……………………………………………………………… 6 1.1. Khái niệm kỹ năng……………………………………………………….. 6 1.2. Khái lược về tranh biện…………………………………………………... 6 1.3.Dạy học hoạt động Nói và nghe trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018 11 1.4.Văn nghị luận xã hội và dạy học nói và nghe văn nghị luận xã hội trong 12 chương trình GDPT Ngữ văn 2018………………………………………….. 2. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………………. 13 2.1.Tranh biện trong dạy học ở những nước có nền giáo dục tiên tiến………. 13 2.2.Nhu cầu học tập, bộc lộ của học sinh và Sự phát triển của phong trào 13 tranh biện trong giới trẻ hiện nay…………………………………………….. 2.3.Vì sao cần phải phát triển kỹ tranh biện trong dạy học………………….. 14 2.4.Kỹ năng tranh biện trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018............. 16 Chương 2. Thực trạng dạy học kỹ năng tranh biện của GV Và HS 18 trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018 ở trường THPT................... 1. Đánh giá thực trạng thông qua số liệu điều tra, khảo sát………………….. 18 2. Phân tích nguyên nhân của thực trạng……………………………………... 18 3. Những thuận lợi khi rèn luyện KNTB cho HS trong Chương trình GDPT 23 2018 tại trường THPT Yên Thành 2 Chương 3. Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học 25 sinh lớp 10 THPT qua dạy học phần Nói và nghe thảo luận về vấn đề xã hội có kiến khác nhau……………………………………………………… 1. Một số nguyên tắc đề xuất biện pháp……………………………………… 25
  4. 2. Một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao kỹ năng tranh biện cho học 27 sinh THPT qua dạy học phần Nói và nghe thảo luận về vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau………………………………………………………………… 2.1. Chiến lược xây dựng câu hỏi……………………………………………. 27 2.1.1. Xây dựng các chủ đề tranh biện phù hợp……………………………… 27 2.1.2. Tạo cơ hội cho học sinh tranh luận thông qua hình thức trao đổi, thảo 29 luận nhóm với hệ thống bài tập có chủ định…………………………………. 2.1.3. Tổ chức thuyết trình và tranh biện ……………………………………. 30 2.2. Hướng dẫn HS cách xây dựng một lập luận............................................. 32 2.2.1. Để có một lập luận tốt trong tranh biện, cần chú ý ba tiêu chí khi xây 33 dựng lập luận: tính liên quan, tính đúng đắn, tính quan trọng.......................... 2.2.2. Để có một lập luận tốt trong tranh biện cần thiết lập một cấu trúc lập 34 luận chặt chẽ giữa Luận điểm, lý lẽ, dẫn chứng để đi đến một kết luận vững chắc trước đối phương………………………………………………………... 2.3. Rèn luyện một số kỹ năng đi kèm để nâng cao hiệu quả tranh biện ……. 37 2.3.1.Rèn luyện kỹ năng làm chủ nội dung tranh biện……………… 37 2.3.2.Rèn luyện kỹ năng lắng nghe và kiểm soát cảm xúc khi tranh biện…. 39 2.3.3.Rèn luyện kỹ năng sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ và 39 phương tiện phi ngôn ngữ khi tranh biện………………………………… 2.3.4. Rèn luyện kỹ năng sử dụng hiệu quả các thủ thuật phản biện……… 40 3. Khảo sát tính cấp thiết và khả thi của các biện pháp đề xuất……………. 49 4. Khả năng và ứng dụng của đề tài………………………………………... 53 Phần III. Kết luận……………………………………………………… 55 Phụ lục Tài liệu tham khảo
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TT Từ viết tắt Từ đầy đủ 1 KNTB Kỹ năng tranh biện 2 GV Giáo viên 3 HS Học sinh 4 SGK Sách giáo khoa 5 GDPT Giáo dục phổ thông 6 THPT Trung học phổ thông
  6. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Các mối quan hệ trong xã hội dù ở bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống: từ đạo đức, văn hóa, giáo dục… đến chính trị, khoa học, kinh tế, luật pháp…luôn luôn làm nảy sinh, xuất hiện những tình huống phức tạp, chứa đựng những mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết. Đối thoại, tranh luận phản biện là cách giải quyết các mâu thuẫn dựa trên sức mạnh của trí tuệ - ngôn từ, là phương thức ôn hòa để hóa giải mâu thuẫn, cân bằng các mối quan hệ, san bằng cách biệt, giúp tiếp cận và làm sáng tỏ chân lý, tạo động lực để xã hội phát triển và là phương tiện giao tiếp không thể thiếu trong thế giới tiến bộ. Là hình thức giao tiếp ngôn ngữ đặc thù, kỹ năng tranh biện luôn gắn bó tự nhiên, giao thoa và song hành cùng kỹ năng lập luận và kỹ năng tư duy phản biện để hình thành nhóm kỹ năng tư duy - ngôn ngữ. Đây là nhóm kỹ năng vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật, trong đó có thể coi kỹ năng tư duy phản biện là khối óc và kỹ năng lập luận, tranh biện là dòng máu, là hơi thở để duy trì “sức sống” cho đối thoại, tranh luận. Mặt khác, rèn luyện KNTB là cơ sở để hình thành và phá triển các kỹ năng sáng tạo, kỹ năng giao tiếp và kỹ năng hợp tác, mà theo Diễn đàn kinh tế Thế giới (WEF – 2015) đây là những kỹ năng hình thành nên nhóm kỹ năng hội nhập, là hành trang của công dân trong thế kỷ XXI. Vì vậy, việc rèn luyện và nâng cao kỹ năng lập luận và tranh biện là một trong những phương pháp hiệu quả để nâng cao năng lực và giá trị bản thân, đó không chỉ là thước đo để đánh giá phẩm chất và thái độ sống của mỗi người mà còn là “nguồn lực” để phát triển trong một thế giới đầy biến động và bất định. Chính vì thế, trong mục tiêu chương trình GDPT 2018, việc phát triển KNTB là hướng đi phù hợp đáp ứng được nhu cầu đổi mới của giáo dục và phù hợp với xu thế của các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. 1.2.Thực tế trong học tập và trong cuộc sống hiện nay luôn chú trọng đến hoạt động tranh biện. Trên các diễn đàn, chương trình truyền hình đã xuất hiện những chương trình hình thành và rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh các cấp như Trường Teen trên kênh VTV7, Thanh niên nói, Học thuật đồng đội(World Scholars cup) hay những cuộc thi tranh biện bằng tiếng Anh. Khi HS tham gia các cuộc thi trên đã phát triển tốt kỹ năng tranh biện cũng như phát triển tư duy logic và tư duy phản biện. Đồng thời rèn luyện được sự tự tin trong giao tiếp, sự sáng tạo trong lập luận, kỹ năng làm việc nhóm và cả kỹ năng lãnh đạo. Không những thế, để làm tốt hoạt động tranh biện thì HS phải tự kiến tạo tri thức, xây dựng được chính kiến của bản thân, có khả năng đánh giá và phản biện đưa ra các lí lẽ sắc sảo, cách lập luận chặt chẽ để phản bác lại quan điểm của người khác, bảo vệ quan điểm của mình. Chính vì thế mà phát triển những sân chơi như thế đã thu hút đông 6
  7. đảo học sinh tham gia và hưởng ứng tích cực. Trong môi trường GD của nhà trường, việc phát triển kỹ năng tranh luận cho HS mới chỉ dừng lại dưới hình thức giáo dục như trải nghiệm sáng tạo, hoạt động ngoài giờ lên lớp để tạo môi trường thuận lợi cho các em rèn luyện kỹ năng này. Thực tế cho thấy, phát triển kỹ năng tranh biện ở học sinh THPT còn tồn tại dưới dạng tiềm năng, chưa được khai thác nhiều đặc biệt trong quá trình tổ chức dạy học ở trên lớp. 1.3. Ngữ văn là môn học mang tính công cụ và tính thẩm mĩ - nhân văn: giúp học sinh có phương tiện giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và hoạt động giáo dục khác trong nhà trường; đồng thời cũng là công cụ quan trọng để giáo dục học sinh những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc; phát triển ở học sinh những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha...Thông qua các văn bản ngôn từ và những hình tượng nghệ thuật sinh động trong các tác phẩm văn học, bằng hoạt động đọc, viết, nói và nghe, môn Ngữ văn trong chương trình GDPT 2018 có vai trò to lớn trong việc giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp cũng như các năng lực cốt lõi để sống và làm việc hiệu quả, để học suốt đời. Chương trình lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe) làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu của chương trình theo định hướng năng lực và bảo đảm tính chỉnh thể, sự nhất quán liên tục trong tất cả các cấp học, lớp học. Các kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về tiếng Việt và văn học được hình thành qua hoạt động dạy học tiếp nhận và tạo lập văn bản; phục vụ trực tiếp cho yêu cầu rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe. Sách giáo khoa Ngữ văn 10 thuộc bộ sách“Kết nối tri thức với cuộc sống” đã đáp ứng theo đúng yêu cầu của Chương trình GDPT môn Ngữ văn 2018, chú trọng mục tiêu phát triển năng lực và phẩm chất cho người học. Đặc biệt, bộ sách đã thiết kế hoạt động Nói và nghe tương tác nhằm rèn luyện kỹ năng tranh biện cho HS về các vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau thông qua hai bài học:“Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”(Bộ sách“Kết nối tri thức với cuộc sống”- Ngữ văn, tập 1); Kỹ năng này tiếp tục được lặp lại và đòi hỏi vận dụng cao hơn trong chương trình học kỳ 2 trong “Bài 6. Nguyễn Trãi – Dành còn để trợ dân này, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”(Bộ sách“Kết nối tri thức với cuộc sống” - Ngữ văn, tập 2). Năm học 2022 - 2023 là năm đầu tiên thực hiện Chương trình GDPT môn Ngữ văn 2018. Thực tế cho thấy, trong quá trình giảng dạy, một bộ phận không nhỏ giáo viên còn lúng túng trong khâu tổ chức tranh biện cho HS, chủ yếu cung cấp kiến thức, chưa tạo cơ hội để học sinh bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình. Mặt khác, ở các tiết học đó, một số giáo viên lựa chọn các chủ đề quá cũ, không phù hợp với nhịp sống đang diễn ra sôi động hiện nay nên thực sự không thu hút được sự quan tâm từ phía học sinh; đồng thời, 7
  8. khi học sinh phát biểu hoặc trình bày vấn đề thì còn mang tính chất một chiều; thiếu sự tranh biện…Chính vì vậy, các giờ học này khá khô khan, nhàm chán; chưa phát huy được sự tích cực, chủ động từ phía người học. Mặt khác, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như việc đi dự giờ của đồng nghiệp trong và ngoài trường, chúng tôi nhận thấy rằng việc sáng tạo trong đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh; dạy học phát triển năng lực cho người học đặc biệt là phát triển kỹ năng tranh biện rất cần thiết, được xem như mục tiêu cốt lõi của chương trình giáo dục phổ thông mới. Xuất phát từ các lý do trên, Chúng tôi đã nghiên cứu, áp dụng và từ đó đúc rút kinh nghiệm để viết nên bản sáng kiến với đề tài:“Rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 qua dạy học phần Nói và nghe:Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”(Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, Ngữ văn 10). Trong quá trình giảng dạy các tiết dạy học phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau - Bộ sách Kết nối với tri thức, Ngữ văn 10 trong chương trình học kỳ 1 và 2, Chúng tôi đã vận dụng một số biện pháp dạy học tích cực nhằm phát triển kỹ năng tranh biện cho học sinh như dạy học bằng cách đưa ra chiến lược xây dựng câu hỏi gồm xây dựng các chủ đề tranh biện có tính thời sự; hướng dẫn HS cách xây dựng một lập luận vững chắc; các biện pháp rèn luyện kỹ năng làm chủ nội dung tranh luận, kỹ năng lắng nghe và kiểm soát cảm xúc khi tranh luận… để các em có cơ hội bày tỏ suy nghĩ, quan điểm của mình. Chúng tôi nhận thấy các tiết học sôi động hơn, học sinh thích thú, say mê; học sinh thực sự chủ động, tích cực và sáng tạo; không khí học tập dường như sôi nổi hẳn lên. Học sinh vận dụng linh hoạt kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn trong đời sống, rèn luyện kỹ năng sống; đặc biệt học sinh làm chủ suy nghĩ và biết cách bảo vệ ý kiến của mình trước những thông tin đa chiều; qua đó phát triển một cách toàn diện về thể chất, trí tuệ và rèn luyện trở thành một con người năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước những yêu cầu của thời đại mới. Đồng thời, khi thực hiện các tiết dạy này, giáo viên sáng tạo hơn trong việc chuẩn bị nội dung và thiết kế dạy học. Như vậy, việc thực hiện đề tài này đã thay đổi cách dạy và học của giáo viên và học sinh, mang lại hiệu quả cao trong dạy học. 2. Mục đích - Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này nhằm đề xuất được các biện pháp rèn luyện và phát triển kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 thông qua dạy học phần Nói và nghe : Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bộ sách Kết nối với tri thức, Ngữ văn tập 1,2). Đồng thời tạo ra một không khí dạy học dân chủ, thoải mái, góp phần làm nên sức hấp dẫn của tiết dạy, thực hiện đúng mục tiêu của Chương trình GDPT Ngữ văn 2018. Nhiệm vụ cụ thể mà chúng tôi tiến hành như sau: 8
  9. - Nghiên cứu nhiệm vụ năm học 2022 – 2023 thông qua các văn bản chỉ đạo thực hiện Chương trình GDPT Ngữ văn 2018 của Sở giáo dục đào tạo Nghệ An. - Nghiên cứu cơ sở lí luận về tư duy hùng biện, phản biện, tranh biện và các biện pháp phát triển năng lực đó trong dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông. - Nghiên cứu cơ sở lí luận về bài tập thực tiễn, các kỹ năng lập luận, phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ… và vai trò của nó trong việc phát triển kỹ năng tranh biện cho học sinh. - Nghiên cứu bài học: phần Nói và nghe : Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bộ sách Kết nối với tri thức, Ngữ văn tập 1,2) - Đề xuất các biện pháp rèn luyện và phát triển kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 thông qua dạy học : phần Nói và nghe : Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bộ sách Kết nối với tri thức, Ngữ văn tập 1,2). 3. Phạm vi nghiên cứu và Đối tượng nghiên cứu Đề tài bàn đến là giải pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho HS lớp 10 cấp THPT. Nhưng trong khả năng của người viết, Chúng tôi chỉ xin đề xuất một số cách rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 qua dạy học bài Nói và nghe : Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Sách giáo khoa Ngữ văn 10 - bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống (Bùi Mạnh Hùng và cộng sự, 2022). Đây là 1 trong 3 bộ sách được Bộ GD - ĐT phê duyệt; trở thành một tài liệu lựa chọn giảng dạy hữu ích trong nước. Việc lựa chọn bộ SGK này làm phạm vi nghiên cứu cho đề tài là một việc làm thiết thực cho hành trang giáo dục sắp tới. Đối tượng học sinh mà chúng tôi thực nghiệm và đối chứng kết quả là học sinh lớp 10 trường THPT Yên Thành 2, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An trong năm học 2022 - 2023 tại ba lớp chúng tôi trực tiếp giảng dạy 10A2, 10A5, 10A6. Chúng tôi cũng sử dụng Kế hoạch dạy học của tổ Ngữ văn THPT Yên Thành 2 năm học 2022 - 2023 để thực hiện sáng kiến này. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: - Phương pháp điều tra, khảo sát và xử lý số liệu. - Phương pháp phân tích - tổng hợp - Phương pháp thực nghiệm sư phạm.. - Phương pháp so sánh… Ở đề tài này chúng tôi tiến hành theo các bước như sau: Bước 1: Tiến hành khảo sát năng lực tranh biện và hứng thú học tập môn Ngữ văn của học sinh trường THPT Yên Thành 2 Bước 2: Soạn bài và dạy thể nghiệm theo hướng phát triển kỹ năng tranh biện ở một số lớp mà chúng tôi trực tiếp giảng dạy. 9
  10. Bước 3: Khảo sát và lấy kết quả sau mỗi tiết dạy. Bước 4: Đối chiếu kết quả và kết luận. 5. Tính mới, đóng góp của sáng kiến - Góp phần làm sáng tỏ và sâu sắc thêm hệ thống lý luận về vấn đề rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT; xác định những phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động trong dạy học bài Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh. - Đánh giá khách quan những thành tựu và tồn tại của việc rèn luyện kỹ năng tranh biện trong dạy học Chương trình Ngữ văn 2018. Đó là cơ sở thực tiễn để đề xuất các biện pháp rèn luyện kỹ năng này cho học sinh, đáp ứng yêu cầu chương trình GDPT 2018. - Đề xuất những biện pháp cụ thể như chiến lược xây dựng hệ thống câu hỏi/ bài tập, hướng dẫn HS cách xây dựng một lập luận và rèn luyện một số kỹ năng đi kèm như kỹ năng làm chủ nội dung tranh biện, kỹ năng sử dụng phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ…để nâng cao hiệu quả tranh biện cho học sinh lớp 10 THPT. Đây là những biện pháp mới đã được thực hiện có hiệu quả tại đơn vị công tác, có khả năng áp dụng đối với các trường THPT. 10
  11. PHẦN II. NỘI DUNG Chương 1. Cơ sở khoa học của đề tài 1. Cơ sở lý luận 1. 1. Khái niệm kỹ năng Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong lĩnh vực nào đó vào thực tế. Kỹ năng thể hiện khả năng thực hiện có kết quả những hành động trên cơ sở những kiến thức có được đối với việc giải quyết những nhiệm vụ đặt ra phù hợp với mục tiêu và điều kiện cho phép. Để giải thích nguồn gốc hình thành kỹ năng có lẽ không có cơ sở lý thuyết nào tốt hơn hai lý thuyết về phản xạ có điều kiện (được hình thành trong thực tế cuộc sống của cá nhân) và phản xạ không điều kiện (là những phản xạ mà cá nhân sinh ra đã sẵn có). Trong đó, kỹ năng của cá nhân gần như thuộc về cái gọi là phản xạ có điều kiện, nghĩa là kỹ năng được hình thành từ khi cá nhân tham gia hoạt động thực tế của cuộc sống. Ví dụ: kĩ năng giao tiếp, kỹ năng quản trị chỉ được hình thành trong hoạt động công việc của cá nhân. Đa số kỹ năng mà chúng ta có đều xuất phát từ việc rèn luyện, bồi dưỡng. Như vậy, nền tảng thành công của con người trong cuộc sống là do 90% được đào tạo và tự đào tạo, chỉ có 2% là kỹ năng bẩm sinh. Có nhiều cách phân loại kỹ năng. Về cơ bản, kỹ năng có hai loại. Loại thứ nhất là kỹ năng cứng. Đây là kỹ năng có tính nền tảng có được do đào tạo từ nhà trường hoặc tự học. Loại thứ hai là kỹ năng mềm có được từ hoạt động thực tế. Kỹ năng mềm gồm nhiều loại kỹ năng phong phú như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng đàm phán, kỹ năng tranh biện…Để thành công, đòi hỏi con người phải trang bị cả kĩ năng cứng và kỹ năng mềm, phải vận dụng linh hoạt hai loại kỹ năng cơ bản này trong học tập và cuộc sống. Trong đó, việc vận dụng các kỹ năng mềm có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhất là trong xã hội hiện đại nay. 1.2. Khái lược về tranh biện Để có một cái nhìn khách quan và chính xác về vấn đề rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh trong dạy học Nói và nghe : Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống) thì trước hết chúng ta phải tìm hiểu những vấn đề lý luận liên quan đến tranh biện và phương pháp tranh biện. 1.2.1.Kỹ năng tranh biện 11
  12. Tranh biện có khi còn được gọi là tranh luận (tranh luận – phản biện) là một hình thức giao tiếp ngôn ngữ đặc thù, thường xuất hiện trong những tình huống giao tiếp có tính đối kháng cao, trong đó các bên tranh luận dùng lý lẽ, lập luận để phân tích, luận giải nhằm xác định đúng/sai, phải/trái… về một quan điểm, một tư tưởng, một vấn đề, một sự việc… nào đó. “Tranh biện” là một trong những hoạt động lâu đời nhất của nền văn minh. Tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức…, việc thực hành tranh biện được thể hiện rõ ràng không chỉ qua các hoạt động giáo dục mà còn qua các phương tiện truyền thông và đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội. Tranh biện là cuộc trình diễn tổng hợp các kỹ năng: tư duy phản biện, nói trước công chúng, tổ chức sắp xếp, làm việc nhóm, nghe, ghi chép… Vì thế, chúng ta có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về tranh biện. Theo “Từ điển Hán Việt Từ Nguyên” của Bửu Kế đã định nghĩa “Tranh” là “giành”; “biện” là “cãi lẽ”; “tranh biện” là “cãi lẽ để giành lẽ phải về phần mình”; “Tranh biện” đồng nghĩa với “tranh luận”. Hay nhóm tác giả Hoàng Phê, Hoàng Thị Tuyền Linh, Vũ Xuân Lương, Phạm Thị Thủy, Đào Thị Minh Thu, Đặng Thanh Hòa trong cuốn “Từ điển Tiếng Việt” cũng có quan niệm khác: “Tranh biện” là “tranh luận phải trái”; “Tranh luận” là “bàn cãi để tìm ra lẽ phải”; “tranh biện” đồng nghĩa với “tranh cãi”. Theo “Từ điển Oxford” định nghĩa “tranh biện là việc tham gia vào cuộc tranh luận bằng việc nêu ra ý kiến trái ngược”. Còn hiểu theo tổ chức Vietnam Youth to Debate (Y2D) – tổ chức nghiên cứu và giáo dục về tranh biện cho thanh thiếu niên Việt Nam lại có định nghĩa khác. Hiểu theo nghĩa hẹp, “tranh biện là một trong những loại hình giao tiếp bằng lời”. Tuy nhiên, tranh biện cũng có những đặc điểm khác với những loại hình giao tiếp bằng lời khác. Những đặc điểm của tranh biện trong tương quan với các loại hình khác có thể được thầy Nguyễn Thiên Minh - cán bộ trung tâm Ứng dụng Việt ngữ học, ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn thể hiện thông qua bảng sau: bảng 1.1.1 Phương Ứng Loại hình Mục đích Đặc điểm Biến thể tiện chủ dụng chủ giao tiếp Ví dụ chính nổi bật (nếu có) yếu yếu trong Đối thoại Nói Trao đổi Mọi hình Tự do, Giao tiếp chuyện thông tin thức của không hạn lời nói định 12
  13. Thảo luận Cuộc Thống Giả thuyết Cần Giáo dục Thương họp nhất các ý Kết luận người Hội họp thuyết kiến dẫn dắt Cần chương trình định trước Tranh luận Các bài Tìm Lập luận Chính xác Giáo dục Phê Phán tranh ra cái gì Kết luận cao độ luật luận trên tạp chí khoa học Đúng Phân biệt Pháp rạch ròi Khoa học đúng sai Tranh biện Các bút Tìm ra ai Lập luận Có một giải Nghệ chiến đúng pháp “tối thuật trên báo ưu” hơn các Tư tưởng giải pháp Giáo dục khác Các vấn đề xã hội Hiểu theo nghĩa rộng, “Tranh biện được hiểu là quá trình tư duy và biểu đạt tư duy từ thu thập, phân tích xử lý thông tin đến xây dựng, hệ thống sắp xếp các lập luận để ra quyết định. Tranh biện có thể sử dụng ngôn ngữ (thông qua nói, viết) hoặc không sử dụng ngôn ngữ (tự tranh biện – trong bản thân từng cá nhân). Tranh biện giúp giải quyết vấn đề, bằng cách chỉ ra những xung đột/ mâu thuẫn giữa các luận điểm do người học sử dụng tư duy phản biện để phản đối trực tiếp trên luận điểm của đối phương” Từ đó, có thể định nghĩa: tranh luận (tranh biện) là hình thức giao tiếp ngôn ngữ mang tính đối kháng, nảy sinh khi có sự khác biệt hoặc đối lập gay gắt về quan điểm trước cùng một vấn đề, một sự viêc, một hiện tượng… trong đó hai bên tranh luận đều nỗ lực dùng lý lẽ, bằng chứng và lập luận để bác bỏ quan điểm của đối phương, đồng thời khẳng định chân lý, lẽ phải thuộc về mình. Tranh biện còn nhằm thuyết phục chính bản thân mình, hoặc người khác rằng lựa chọn nào là tốt hơn, đặt trong những bối cảnh và điều kiện cụ thể. Kết luận của tranh biện mang tính tương đối, không có đúng nhất mà mang tính tạm thời tại thời điểm kết thúc cuộc tranh biện. 13
  14. Trên cơ sở tham khảo ý kiến từ các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, theo chúng tôi: Tranh biện là quá trình giao lưu ngôn ngữ đòi hỏi những người tham gia phải chứng minh được quan điểm của mình là đúng đắn bằng hệ thống các lập luận logic. Đó là cách ngắn nhất và ôn hòa nhất giúp mọi người cùng đi đến một nhận thức chung. Tranh biện cũng khác với kiến nghị, thảo luận, tranh luận và phản biện. Trong đó, “Kiến nghị là đưa ra ý kiến về một vấn đề để mọi người bàn bạc và đưa ra hướng giải quyết”. Trong tranh biện, kiến nghị là vấn đề được đưa ra để làm chủ đề để tranh biện. Đó có thể là một nhận định, một đề xuất, hay một dự báo về một vấn đề nào đó. “Thảo luận là trao đổi ý kiến về một vấn đề, có phân tích lý lẽ”. Thảo luận sẽ là một khâu nằm trong tranh biện bởi nó là quá trình mọi người giao lưu, bàn bạc để nhất trí đường hướng, cùng nhau giải quyết vấn đề mà chúng ta đang cần phải tranh biện với nhau. Trong cuốn “Từ điển tiếng Việt thông dụng” của Như Ý, NXB Giáo dục định nghĩa “Tranh luận là bàn cãi có phân tích lí lẽ để tìm ra lẽ phải”. Như vậy, mục đích cuộc tranh luận ở đây là tìm xem ai đúng. Còn Phản biện là việc sử dụng một lý lẽ để chống lại một lý lẽ, chỉ ra điểm yếu, điểm sơ hở của lý lẽ đó dựa trên các luận điểm được đưa ra. Mục tiêu chính là thiết lập sự cân nhắc đối với các lựa chọn được đưa ra và tăng cường sự thuyết phục đối với quan điểm cá nhân bằng cách làm suy yếu quan điểm của đối phương. Như vậy, chúng ta thấy rằng “tranh biện” là một khái niệm khác hẳn với những khái niệm trên và không thể đồng nhất tất cả các khái niệm đó với nhau. Về bản chất, tranh biện là quá trình giao lưu ngôn ngữ đòi hỏi những người tham gia phải chứng minh được quan điểm của mình là đúng đắn. Đó là cách ngắn nhất và ôn hòa nhất giúp mọi người cùng đi đến một nhận thức chung. Tranh biện được coi là tinh hoa của năng lực sử dụng ngôn ngữ, là cách thức phát triển trí tuệ, là hòn đá mài sắc tư duy. Chính vì vậy, tranh biện là một kỹ năng thiết yếu của con người, nhất là trong thời đại ngày nay. 1.2.2. Phương pháp tranh biện Tranh biện là xương sống của giáo dục. Trong các môn khoa học tự nhiên, người nghiên cứu có thể chứng minh được sự thật khi dùng những dữ kiện hay thử nghiệm tự nhiên vào việc này. Tuy nhiên, đối với những môn xã hội chẳng hạn thì cách tiếp cận vấn đề hoàn toàn khác. Trong dạy học, tổ chức cho học sinh tranh 14
  15. biện vừa là một hình thức tổ chức dạy học vừa là phương pháp dạy học cần áp dụng phổ biến hiện nay nhằm giúp các em tự chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng… Vậy “phương pháp tranh biện” trong dạy học được hiểu như thế nào? Phương pháp tranh biện là cách giáo viên đưa ra, gợi mở cho học sinh suy nghĩ, đánh giá về một vấn đề nhất định theo những hướng khác nhau, trái ngược nhau. Sau đó dựa trên những tìm hiểu của các em, giáo viên tổ chức cho các em trao đổi, bàn bạc, phản biện về vấn đề. Học sinh sẽ đưa ra và bảo vệ quan điểm của mình, đồng thời thuyết phục đối phương theo ý kiến đó bằng những lập luận, lí lẽ, bằng chứng xác thực nhằm làm rõ những khía cạnh khác nhau của vấn đề và làm giàu sự hiểu biết của cá nhân theo yêu cầu, mục tiêu và nhiệm vụ dạy học. Trong quá trình dạy học, giáo viên có thể lựa chọn sử dụng tranh biện trong việc kiểm tra bài cũ, tổ chức dạy học và nghiên cứu kiến thức mới; củng cố và kiểm tra, đánh giá. Hiểu một cách đơn giản về phương pháp này là giáo viên đề xướng, tổ chức còn học sinh chủ động trao đổi, bàn luận, tranh biện, linh hoạt, sáng tạo tiếp thu tri thức một cách vững chắc và hiệu quả. 1.2.3. Mô hình cấu trúc của lập luận trong tranh luận Một cuộc tranh luận diễn ra giữa hai bên đối lập về quan điểm: bên khẳng định và bên phủ định về một kiến nghị cụ thể, thuộc một chủ đề nhất định. Mỗi bên trình bày hệ thống các lập luận trái chiều, được tổ chức sắp xếp một cách hợp lý (có chiến thuật), trong đó mỗi lập luận đưa ra thường bao gồm: - Luận đề là vấn đề gây ra những quan điểm đối lập dẫn đến tranh luận. Với mỗi chủ đề tranh luận cụ thể, luận đề của lập luận thường bao gồm một số luận điểm. - Bảo vệ cho các luận điểm là các luận cứ liên quan, bao gồm lý lẽ và bằng chứng. Trong quá trình tranh luận, các bên phải làm tốt công việc sau: + Trình bày lập luận và quan điểm của mình một cách rõ ràng, thuyết phục; + Phản biện lập luận và hệ thống luận điểm của đối phương. + Đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi. Như vậy, lập luận được đưa ra khi tranh luận – để khẳng định hay phủ định luận đề đang tranh luận. Sức mạnh của lập luận phụ thuộc vào sức mạnh của các luận điểm. Sức mạnh của các luận điểm lại được quyết định bởi các luận cứ, bao gồm: sự vững vàng của các lý lẽ cũng như tính chính xác, đầy đủ, hiển nhiên, rõ ràng và có thể công thức hóa thành phần của một lập luận dưới dạng: A = C + R + E Trong đó: A: là lập luận; C: là lời khẳng định cho luận điểm được đưa ra (cũng là tiêu đề cho luận điểm); R: là lý lẽ và E: là bằng chứng. Có thể coi lý lẽ (R) và bằng chứng (E) là nguyên vật liệu để xây dựng nên 15
  16. “bức tường” khẳng định (C). Nguyên vật liệu có chất lượng tốt sẽ đảm bảo sự vững chắc, kiên cố của “bức tường”, khiến đối phương khó có thể phá vỡ. Sự đối lập về quan điểm trong tranh luận tất yếu làm nẩy sinh mâu thuẫn, xung đột. Đây vừa là trọng tâm cần giải quyết, vừa là “vẻ đẹp” của một cuộc tranh luận. Một cuộc tranh luận tồi hay thất bại là một cuộc tranh luận hoặc không tạo ra hoặc tạo ra những xung đột mờ nhạt. 1.3. Dạy học hoạt động Nói và nghe trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018 Nói và nghe là 2 trong 4 kĩ năng giao tiếp cần rèn luyện cho HS. Các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều khẳng định tầm quan trọng của kĩ năng nghe - nói. Họ cho rằng: Những đứa trẻ có thể diễn giải suy nghĩ và ý kiến của mình bằng lời nói sẽ có thể thành công hơn trong học tập. Ngoài ra, một số tác giả nước ngoài cũng khẳng định: Nghe không chỉ để hiểu mà còn để học ngôn ngữ, sự phát triển của ngôn ngữ nói là một trong những thành quả tự nhiên và ấn tượng nhất của mỗi đứa trẻ. Điểm khác biệt lớn nhất của Chương trình GDPT 2018 so với Chương trình GDPT 2006 là sự chuyển hướng hoàn toàn từ chương trình coi trọng truyền đạt kiến thức sang chương trình chú trọng phát triển phẩm chất và năng lực, lấy các kĩ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết làm trục chính. Trong đó, Chương trình GDPT 2018 đã quy định rõ thời lượng dành cho hoạt động nói và nghe là 10% số tiết của năm học. Lộ trình dạy học kĩ năng nói và nghe trong chương trình có sự nhất quán, liên tục cả ba cấp học. Ở cấp THPT, Chương trình định hướng người dạy tiếp tục phát triển các năng lực đã hình thành ở cấp trung học cơ sở với các yêu cầu cần đạt cao hơn: Nói và nghe linh hoạt; có khả năng nghe và đánh giá được nội dung cũng như hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có chủ kiến, cá tính, có thái độ tranh luận phù hợp…Chương trình GDPT 2018 quy định cụ thể về các kĩ năng cần đạt trong học tập nói và nghe ở cấp phổ thông như sau: Kĩ năng nói yêu cầu về âm lượng, tốc độ, sự liên tục, cách diễn đạt, trình bày, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ, phương tiện hỗ trợ khi nói...Kĩ năng nghe yêu cầu về cách nghe, cách ghi chép, hỏi đáp, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ khi nghe, nghe qua các phương tiện kĩ thuật,… Kĩ năng nói và nghe tương tác gồm các yêu cầu về thái độ, sự tôn trọng nguyên tắc hội thoại và các quy định trong thảo luận, phỏng vấn,… Theo định hướng của Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018, kĩ năng nói được phát triển kết hợp với nghe và hoạt động nói - nghe tương tác. Chương trình hướng đến mục tiêu ở cấp THPT là HS biết tranh luận về các vấn đề tồn tại các quan điểm trái ngược nhau; có thái độ cầu thị và văn hóa tranh luận phù hợp; có khả năng nghe thuyết trình và đánh giá được nội dung và hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có hứng thú thể hiện chủ kiến, cá tính trong tranh luận; trình bày vấn đề khoa học một cách tự tin, thuyết phục. Nói và nghe linh hoạt; nắm bắt được phương pháp, quy trình tiến hành một cuộc tranh luận (Bộ GD-ĐT, 2018). 16
  17. Ngoài ra, việc dạy nói - nghe không chỉ hướng tới mục tiêu rèn luyện kĩ năng nói và nghe mà còn là cơ hội để rèn giũa phẩm chất, thái độ, tình cảm, lối sống có văn hóa cho HS. Như vậy, nói - nghe là những kĩ năng rất quan trọng trong giao tiếp hàng ngày, giúp ích cho các HS trong quá trình hình thành các mối quan hệ và khẳng định bản thân trong xã hội. Đặc biệt, thông qua việc tổ chức dạy học hoạt động Nói – Nghe tương tác sẽ rèn luyện kỹ năng tranh biện cho HS. Chính vì thế, trong chương trình Ngữ văn 2018, Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” ở tập1 đã dành thời lượng 1 tiết trong bài 3 “Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận” cho Hoạt động dạy học Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” để rèn luyện kỹ năng tranh biện cho HS. Kỹ năng này, tiếp tục được rèn luyện và vận dụng ở mức độ cao hơn trong học kỳ 2 ở bài 6 “Nguyễn Trãi – Dành còn để trả nợ này. Phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”. 1.4. Văn nghị luận xã hội và dạy học nói và nghe văn nghị luận xã hội trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018. Văn bản nghị luận là loại văn bản nhằm phát biểu tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan điểm của người viết (người nói) để thuyết phục người đọc (người nghe) về một vấn đề nào đó. Đặc điểm cơ bản của văn nghị luận là bao gồm luận đề, luận điểm, luận cứ và lập luận. Luận đề là vấn đề tổng quát, bao trùm cần được làm sáng tỏ, cần đem ra bình luận, đánh giá. Luận đề được triển khai, phân tách thành nhiều luận điểm. Luận điểm là tư tưởng, quan điểm, ý kiến của người nói, người viết về vấn đề nào đó được đặt ra. Luận cứ là những lí lẽ, dẫn chứng làm sáng tỏ cho quan điểm. Lập luận là cách sắp xếp, tổ chức phối hợp các luận cứ để chứng minh cho luận điểm. Văn nghị luận xã hội trong nhà trường hiện nay thường chia thành hai loại: nghị luận về tư tưởng, đạo lí và về một hiện tượng đời sống. Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018 nêu rõ yêu cầu cần đạt dạy học hoạt động nói và nghe văn nghị luận xã hội ở lớp 10 như sau: - Nói: Biết thuyết trình về một vấn đề xã hội có sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ với các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ. - Nghe: Nghe và nắm bắt được nội dung thuyết trình, quan điểm của người nói, biết nhận xét về nội dung và hình thức thuyết trình. - Nói, nghe tương tác: Biết tranh luận về một vấn đề có những ý kiến khác nhau; đưa ra được những căn cứ thuyết phục để bảo vệ hay bác bỏ một ý kiến nào đó; tôn trọng người đối thoại . Như vậy, Tranh biện là hoạt động vận dụng tư duy, quan điểm về các kiến thức, lĩnh vực xung quanh vấn đề bàn luận, sắp xếp các quan điểm, ý kiến, dẫn chứng theo hệ thống lập luận nhất định để ra đưa quan điểm phản biện. Phát triển 17
  18. kỹ năng tranh biện trong dạy học nói và nghe văn nghị luận xã hội sẽ giúp HS phát huy tối đa năng lực ngôn ngữ, năng lực giao tiếp, HS có thể thể hiện quan điểm cá nhân của mình và phản biện quan điểm của người khác khi thảo luận về các vấn đề xã hội có ý nghĩa thực tiễn. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1.Tranh biện trong dạy học ở những nước có nền giáo dục tiên tiến Nhìn ra thế giới, chúng ta dễ dàng nhận thấy hầu hết các quốc gia có nền giáo dục phát triển mạnh, cụ thể là các nước phương Tây, đều coi trọng kỹ năng tranh biện. Ở Mỹ, người ta đề cao tính dân chủ trong giáo dục, tạo điều kiện cho người học phát huy khả năng tranh biện của học sinh THPT. Phó giáo sư lịch sử Johann N. Neem thuộc Đại học Western Washington (Mỹ), trong một bài viết đăng trên tạp chí The Chronicle of Higher Education, đã thúc giục nhà chức trách và những nhà giáo dục Mỹ cần thực hiện tốt hơn việc giáo dục lịch sử dân tộc và phải dạy với tinh thần tranh biện. Nước Anh coi dạy học kỹ năng tranh biện như xương sống của nền giáo dục, trong kiểm tra đánh giá học sinh phải hoàn thành hai nội dung chính: “Sự đáng tin của dẫn chứng” và “Phát triển tranh luận”. Còn ở các quốc gia Châu Á, cụ thể là Nhật Bản, một đất nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới hiện nay. Văn hóa tranh luận được nhiều gia đình Nhật Bản áp dụng trong cách nuôi dạy con cái. Việc dạy cho trẻ những kỹ năng tranh luận cần thiết sẽ giúp trẻ hình thành nên tư duy phản biện từ sớm, từ đó biết phân tích và xử lý đối với các vấn đề trong cuộc sống. Như vậy, các nước tiên tiến đã coi trọng kỹ năng tranh biện trong dạy học, đây là cơ sở đáng tin cậy để giáo dục Việt Nam mạnh dạn đưa tranh biện vào trong dạy học ở các bậc Đại học và bậc THPT. 2.2. Nhu cầu học tập, bộc lộ của học sinh và Sự phát triển của phong trào tranh biện trong giới trẻ hiện nay. Đối tượng học tập của trường THPT là những thanh thiếu niên độ tuổi từ 15 – 18, đang ở độ tuổi phát triển, có những thay đổi hết sức lớn lao về tâm sinh lý, có sự trưởng thành vượt bậc về phẩm chất và năng lực. Đây là thời kì mà có em có khả năng tư duy lí luận và tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo về những điều đã học ở nhà trường, ngoài xã hội và cả những điều chưa được học. Tính độc lập tư duy là một phẩm chất rất quý báu mà người thầy cần phải giữ gìn và phát triển. Nếu như người giáo viên không đổi mới phương pháp thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu học tập của các em. Phải làm thế nào để phát huy được năng lực nhận thức sáng tạo của học sinh, thôi thúc các em phải tìm tòi, suy nghĩ để tìm ra những lập luận, bằng chứng xác đáng để thuyết phục người khác và chứng minh ý kiến của mình. 18
  19. Bên cạnh nhu cầu học tập nâng cao kiến thức, các em cũng có nhu cầu bộc lộ bản thân, nhất là trong giai đoạn mà quyền cá nhân con người, tính dân chủ được đề cao như hiện nay. Học sinh THPT có khát vọng, có chính kiến riêng, có quan điểm và phán đoán của mình với những vấn đề chung, chưa hoàn toàn tin tưởng vào uy quyền của cha mẹ, thầy cô, sách vở, thường “tìm ra những cái sai sót” trong lập luận của thầy cô giáo hoặc tài liệu, có xu hướng tranh chấp và phản đối với hình thức rất quyết liệt. Các em mong muốn được thể hiện mình trước thầy cô, bạn bè, muốn khẳng định chính kiến của bản thân, muốn chứng minh sự tiến bộ, trưởng thành của mình. Ngoài ra, ở độ tuổi 15 – 18 các em học sinh thường rất hiếu động, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá. Trong quá trình đó, học sinh cần có người định hướng cho mình cách làm, hướng đi để tránh rơi vào tình trạng ngộ nhận, chủ quan hoặc sai lầm. Như vậy, nhu cầu học tập và bộc lộ bản thân của học sinh cũng là một cơ sở để phát huy tiềm năng học tập, rèn luyện kỹ năng tranh biện cho các em. Chính vì nhu cầu trên, Trong năm năm trở lại đây, tranh biện đang ngày càng thu hút sự quan tâm của giới trẻ Việt. Phong trào tranh biện bắt đầu du nhập vào Việt Nam và nhanh chóng được các bạn trẻ ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đón nhận. Nhìn chung, phong trào tranh biện đang ngày càng được phát triển, lan rộng ở Việt Nam thông qua các chương trình tranh biện như “Tôi lên tiếng”, “Trường Teen” phát sóng trên kênh VTV7. Nhiều câu lạc bộ tranh biện được thành lập ở các trường THPT trong tỉnh Nghệ An như: câu lạc bộ tranh biện PDC của trường THPT chuyên Phan Bội Châu, Thunder Debate Club của trường THPT chuyên Đại học Vinh hay H.D.C. Huỳnh Debate Club của trường THPT Huỳnh Thúc Kháng. Tại các trường THPT ở huyện Yên Thành, phong trào này chủ yếu diễn ra dưới hình thức cuộc thi trong hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp có sự phối hợp giữa Ban chuyên môn với Đoàn trường. Quan trọng là các hoạt động này đều do các em học sinh tự điều hành từ cách thành lập câu lạc bộ cho đến tổ chức các cuộc tranh biện với nhau. Do đó, dù tranh biện là hoạt động mang lại rất nhiều mặt tích cực cho học sinh song chất lượng và cả tính lâu dài của hoạt động này vẫn còn tùy thuộc rất nhiều vào các thành viên cốt cán của các câu lạc bộ. Đã đến lúc phong trào tranh biện cần được quan tâm nhiều hơn để hướng phát triển theo chiều chất lượng và bền vững hơn. Từ đó giúp các em có thêm nhiều cơ hội rèn luyện tư duy đa chiều, tư duy phản biện không chỉ trong học tập mà còn trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. 2.3. Vì sao cần phải phát triển kỹ tranh biện trong dạy học 2.3.1. Phát triển kỹ năng tranh biện là phát triển tư duy và năng lực phản biện Lý do tư duy phản biện đứng đầu trong các lợi ích mà tranh biện đem lại – khả năng đưa ra những lập luận hợp lý và suy nghĩ thấu đáo bên cạnh việc đặt ra 19
  20. những câu hỏi về tính xác thực của những kết luận. Tư duy phản biện còn giúp bạn tìm ra chìa khóa cho những khúc mắc trong cuộc sống mà vẫn giữ được thái độ, chuẩn mực cá nhân mình. Thậm chí nó còn giúp bạn trở nên khiêm tốn hơn! Hãy ghi nhớ rằng bạn không phải lúc nào cũng đúng! 2.3.2. Phát triển kỹ năng tranh biện là song hành với việc nâng cao khả năng diễn đạt suy nghĩ của bạn Bạn có từng cảm nhận rằng bạn không thể diễn đạt suy nghĩ của mình ra bằng lời. Tranh biện có thể giúp bạn giải quyết vấn đề không chỉ diễn đạt đầy đủ suy nghĩ mà củng cố lập luận để thuyết phục người nghe trong nhiều chủ đề khác nhau: từ những phương trình toán học phức tạp đến cốt truyện của cuốn sách yêu thích của bạn. Tranh biện giúp bạn xác định đối tượng nghe để chọn ngôn từ giải thích phù hợp. 2.3.3. Giữ đúng chuẩn mực Trong bất kỳ cuộc tranh biện nào cho dù bạn cho bạn có không đồng ý với quan điểm đó thì thái độ cũng vô cùng quan trọng: hãy giữ bình tĩnh và duy trì giao tiếp bằng ánh mắt đã được chứng minh là kỹ thuật tranh biện vô cùng hiệu quả. Một người tranh luận tốt sẽ ghi nhớ tất cả những điều này ngoài các yếu tố cốt lõi họ có được thông qua giáo dục (đọc và tìm nguồn tư liệu, soạn thảo bài phát biểu, nói một cách tự tin và biết lắng nghe) hữu ích cả trong và ngoài lớp học. 2.3.4. Trở thành người hiểu biết rộng hơn Tranh biện khơi dậy cho bạn cảm giác mong muốn tìm tòi và khai thác lỗ hổng trong những lập luận của người khác để tạo lợi thế phản biện lại quan điểm đối lập. Xây dựng cho bản thân kiến thức sâu về nhiều vấn đề để trả lời những câu hỏi và những nhận xét từ người khác là những yếu tố cần thiết để tranh biện thành công. Việc hiểu biết sâu rộng sẽ giúp bạn luôn vững vàng trước mọi thử thách trong cuộc sống nhất là trong những hoàn cảnh cần đưa ra quyết định nhanh chóng, dứt khoát. 2.3.5. Giải quyết xung đột Tranh biện giúp bạn luôn tập trung vào vấn đề mà bạn đang tranh biện, thông qua những buổi tranh biện bạn sẽ học được cách chấp nhận sai lầm của bản thân, điều này cũng vô cùng quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của bạn. Việc học cách thua và thuyết phục được người nghe một cách lịch sự sẽ giúp xóa bỏ những xung đột không đáng có trong cuộc sống. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2