intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực vào trong dạy học môn Giáo dục kinh tế pháp luật 10 ở trường THPT DTNT Tỉnh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:68

26
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm giúp học sinh có được tình cảm, nhận thức, niềm tin và bản lĩnh phù hợp với chuẩn mực đạo đức và quy định của pháp luật dựa trên những kiến thức cơ bản, cốt lõi, thiết thực đối với đời sống và định hướng nghề nghiệp sau THPT về kinh tế và pháp luật.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực vào trong dạy học môn Giáo dục kinh tế pháp luật 10 ở trường THPT DTNT Tỉnh

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM KHOA HỌC GIÁO DỤC ĐỀ TÀI: SỬ DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO TRONG DẠY HỌC MÔN GDKT PHÁP LUẬT 10 Ở TRƯỜNG THPT DTNT TỈNH THUỘC LĨNH VỰC: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MÔN GIÁO DỤC KINH TẾ PHÁP LUẬT
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH NGHỆ AN TRƯỜNG THPT DTNT TỈNH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM KHOA HỌC GIÁO DỤC ĐỀ TÀI: SỬ DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO TRONG DẠY HỌC MÔN GDKT PHÁP LUẬT 10 Ở TRƯỜNG THPT DTNT TỈNH THUỘC LĨNH VỰC: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MÔN GIÁO DỤC KINH TẾ PHÁP LUẬT Người thực hiện: ĐINH THỊ MỪNG Email: dinhmung80@gmail.com NĂM HỌC 2022 - 2023
  3. MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT…………………………………………………….3 PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………..........4 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:………………………………………………………….4 2. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI………………………………………...4 2.1 Mục tiêu………………………………………………………………………...4 2.2. Nhiệm vụ……………………………………………………………………....4 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU…………………………………………………...5 4. GIỚI HẠN, PHẠM VI NGHIÊN CỨU…………………………………………5 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU……………………………………………….5 II. PHẦN NỘI DUNG……………………………………………………………...6 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:……………………………………………………………….6 1.1. Phương pháp dạy học, phương pháp dạy học tích cực……………….............6 1.1.1. Khái niệm phương pháp dạy học…………………………………………….6 1.1.2 . Khái niệm phương pháp dạy học tích cực…………………………………..6 1.2. Đặc điểm của phương pháp dạy học tích cực………………………………….7 1.2.1. Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh………....7 1.2.2. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học……………………….7 1.2.3. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác…………………..8 1.2.4. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò………………………….9 1.3. Ý nghĩa của phương pháp dạy học tích cực…………………………………...9 2. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………………..........8 2.1. Chương trình GDKT và PL lớp 10……………………………………............8 2.2. Thực trạng dạy học và sử dụng phương pháp dạy học tích cực Môn GDCD.11 2.2.1. Thực trạng chung…………………………………………………………...11 2.2.2. Thực trạng ở trường THPT DTNT Tỉnh Nghệ An…………………………14 3. GIẢI PHÁP SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO DẠY HỌC MÔN GDKT PHÁP LUẬT 10………………………………......................16 3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp……………………………………………16 3.2. Nội dung thực hiện giải pháp sử dụng các phương pháp dạy học tích cực………………………………………………………..……………………….16 1
  4. 3.3. Nội dung sử dụng phương pháp dạy học tích cực trong chương trình GDKT-PL lớp 10…………………………………………………………….........17 3.3.1. Phương pháp đóng vai ………………………………………………..........18 3.3.2. Phương pháp dự án…………………………………………………………20 3.3.3. Phương pháp hoạt động nhóm…………………………………………….. 22 3.3.4. Phương pháp tình huống (nghiên cứu trường hợp điển hình).......................26 3.3.5. Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề……………………………………...30 3.3.6. Phương pháp trò chơi……………………………………………………....32 3.4. Tổ chức sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực qua một số tiết dạy...38 3.4.1. Mục đích sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực thông qua một số tiết dạy………………………………………………………………………….....39 3.4.2. Thiết kế giáo án một số tiết trong chương trình GDKTPL lớp 10…………38 3.4.3. Điều kiện thực hiện…………………………………………………………39 3.4.4. Mối liên hệ giữa các biện pháp……………………………………………..39 3.4.5. Nội dung thực nghiệm……………………………………………………...39 4. Khảo sát tính cấp thiết và tính khả thi của đề tài……………………………….40 4.1. Khảo sát sự cần thiết và tính khả thi của các giải pháp………………………40 4.1.1. Mục tiêu khảo sát…………………………………………………………...40 4.1.2. Đối tượng khảo sát………………………………………………………….40 4.1.3. Nội dung khảo sát…………………………………………………………..40 4.2. Phương pháp khảo sát và xử lý kết quả khảo sát……………………………..40 4.2.1. Điều tra bằng bảng hỏi.:……………………………………………………40 4.2.2 Về tình cảm và thái độ của học sinh………………………………………..43 III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT…………………………………………………..48 1. KẾT LUẬN:………………………………………………………………...….48 2. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT……………………………………………………….48 2.1. Đối với Sở GD & ĐT, Bộ GD & ĐT……………………………………….. 49 2.2. Đối với Nhà trường và tổ chuyên môn……………………………………… 49 2.3. Đối với giáo viên…………………………………………………………. …49 2
  5. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT - THPT: Trung học phổ thông - THCS: Trung học cơ sở - DTNT: Dân tộc nội trú - HS: Học sinh - GDCD: Giáo dục công dân - GDKTPL: Giáo dục kinh tế pháp luật - GD & ĐT: Giáo dục và Đào tạo - PTDTNT: Phổ thông dân tộc nội trú - GV: Giáo viên - BGH: Ban giám hiệu - SKKN: Sáng kiến kinh nghiệm. 3
  6. I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Viễn cảnh sôi động, tươi đẹp nhưng cũng nhiều thách thức, đòi hỏi ngành Giáo dục - Đào tạo phải có những đổi mới căn bản, mạnh mẽ, đồng bộ về mọi mặt. Cùng với sự phát triển như vũ bão của công nghệ 4.0 là mô hình giáo dục 4.0, mô hình giảng dạy thông minh, có định hướng, ứng dụng công nghệ thông tin kết hợp với năng lực tự học, chú trọng thực hành và luôn khuyến khích đổi mới sáng tạo đang dần được đưa vào các trường học thay thế hoàn toàn các phương pháp dạy học truyền thống. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến đổi mới phương pháp dạy học và phương tiện dạy học. Năm học 2022 – 2023 Bộ giáo dục đào tạo đã có quyết định đột phá là đưa bộ môn GDKT pháp luật vào giảng dạy thay cho môn giáo dục công dân 10. Đây chính là bước đột phá đỏi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đổi mới đồng bộ hình thức tổ chức, phương pháp dạy học cùng đổi mới kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Trong đó, phương pháp dạy học tích cực là một trong những phương thức của mô hình dạy và học 4.0 đang được vận dụng rộng rãi vào các môn học và được đánh giá đạt hiệu quả cao. Để nâng cao chất lượng môn GDKT pháp luật trong giai đoạn hiện nay và góp phần thực hiện thành công Nghị quyết 29-NQ/TW năm 2013 “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Vì vậy việc đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn nhằm thay đổi tư duy, thái độ của người học, thúc đẩy thành công sự nghiệp đổi mới giáo dục của Đảng và nhà nước, hội nhập kinh tế, giáo dục quốc tế là yêu cầu thiết yếu trong giai đoạn hiện nay. Trong giảng dạy bản thân tôi đã sử dụng các phương pháp, tôi nhận thấy phương pháp dạy học tích cực là một phương pháp có thể tích hợp với nhiều phương pháp dạy học và kĩ thuật dạy học tích cực, thuận lợi cho việc tự lực, sáng tạo nhằm nâng cao hiệu quả nhận thức của người học, nâng cao vai trò, vị trí bộ môn GDKT pháp luật cả tiết lên lớp cũng như tiết học ngoại khóa. Đó cũng là lí do tôi muốn chia sẽ tới quý thầy cô, bạn bè đồng nghiệp đề tài “Sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực vào trong dạy học môn GDKT pháp luật 10 ở trường THPT DTNT TỈNH”. 2. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI. 2.1 Mục tiêu. - Góp phần làm cho giờ dạy đạt hiệu quả như mong muốn và xứng tầm với giá trị môn GDKT pháp luật 10 - Tạo hứng thú, yêu thích môn học; giảm bớt tính khô khan, trừu tượng bộ môn. - Tăng cường sự hợp tác, giao tiếp, chia sẻ kinh nghiệm. - Tạo cơ hội vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống, thể hiện ý thức, trách nhiệm cá nhân đối với cộng đồng. 4
  7. - Góp phần giúp học sinh có được tình cảm, nhận thức, niềm tin và bản lĩnh phù hợp với chuẩn mực đạo đức và quy định của pháp luật dựa trên những kiến thức cơ bản, cốt lõi, thiết thực đối với đời sống và định hướng nghề nghiệp sau THPT về kinh tế và pháp luật. - Giúp học sinh có được năng lực thực hiện các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm công dân chủ yếu từ góc độ kinh tế, pháp luật; có kỹ năng sống và bản lĩnh để học tập, làm việc và sẵn sàng thực hiện trách nhiệm công dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam và hội nhập quốc tế. 2.2. Nhiệm vụ. - Khái quát những vấn đề mang tính lí luận của đề tài. - Tìm hiểu một số phương pháp dạy học tích cực. - Thiết kế giáo án sử dụng phương pháp dạy học tích cực vào bài học cụ thể. - Kiểm tra, đánh giá, thống kê hiệu quả đạt được. - Nghiên cứu, tìm hiểu và sáng tạo cho phương pháp này thêm phong phú, đa dạng về trình bày nhằm gây được sự chú ý, thích thú của học sinh đồng thời kích thích khả năng nắm bắt, liên hệ vấn đề của học sinh 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU. - Học sinh lớp 10 trường THPT DTNT TỈNH - Tiết bài 4 và bài 10 môn GDKT pháp luật 10. - Phương tiện thông tin đại chúng. 4. GIỚI HẠN, PHẠM VI NGHIÊN CỨU. - Là học sinh lớp 10 và tiết học sách GDKT pháp luật lớp 10. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. - Nghiên cứu yêu cầu nội dung bài học. - Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của phương pháp dạy học tích cực. - Nghiên cứu tình hình thực tiễn địa phương liên quan đến nội dung bài học. - Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào một tiết học cụ thể. - Tổng hợp một số kết quả đã đạt được. 5
  8. II. PHẦN NỘI DUNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN: 1.1. Phương pháp dạy học, phương pháp dạy học tích cực. 1.1.1. Khái niệm phương pháp dạy học. Thuật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp methodos có nghĩa là chung nhất, là cách thức đạt tới mục đích đặt ra. Khái niệm phương pháp được sử dụng phổ biến trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội và trong nghiên cứu khoa học. Sau đó, khái niệm phương pháp đã đi từ lĩnh vực kinh tế, xã hội vào lĩnh vực giáo dục, đào tạo không chỉ với ý nghĩa là các dự án phát triển giáo dục mà còn sử dụng như một hình thức hay phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học là cách làm việc giữa người dạy và người học, qua đó người học có thể nắm bắt được các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và hình thành năng lực cũng như thế giới quan. Phương pháp dạy học chính là cách thức hoạt động giữa thầy và trò để nhằm đạt được mục tiêu dạy học xác định đồng thời phù hợp với nội dung và các điều kiện dạy học cụ thể. 1.1.2 . Khái niệm phương pháp dạy học tích cực. Phương pháp dạy học tích cực (Tiếng Anh: Active learning) là một thuật ngữ rút gọn, một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia, chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo ở người học. Phương pháp dạy học tích cực hướng đến việc hoạt động hóa, tích cực hóa nhận thức của người học cụ thể là tập trung vào việc phát huy tính tích cực của người học chứ không phải tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy người thầy đóng vai trò là người hướng dẫn, rèn luyện cho học sinh phương pháp tự học độc lập với suy nghĩ thông qua việc thảo luận, thực hành, thâm nhập thực tế theo mục tiêu bài học, người thầy là người tổng hợp hoạt động ý kiến của người học để xây dựng nội dung bài học, không như các phương pháp dạy học truyền thống. Để áp dụng phương pháp này, giáo viên phải nỗ lực nhiều trong quá trình dạy học so với dạy theo phương pháp thụ động. Khi áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực giờ dạy của giáo viên trở nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa. Người học là trung tâm nhưng vai trò uy tín của người giáo viên được đề cao hơn, nhờ đó phương pháp dạy học tích cực, khả năng chuyên môn của người giáo viên sẽ phải tăng lên bởi kiến thức của từng nội dung bài học phải được cập nhật liên tục để đáp ứng những tình huống, câu hỏi của người học trong thời đại công nghệ phát triển. Mối quan hệ giữa thầy và trò sẽ trở nên gần gũi tốt đẹp khi cả hai cùng làm việc với nhau, cùng giải quyết các tình huống liên quan đến nội dung và cuộc sống của người học. 6
  9. Áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực người học sẽ thấy học và tìm hiểu các vấn đề mà họ đang muốn có được chứ không phải bị bắt buộc phải học. Người học được làm việc, được nói, chia sẻ những kiến thức kinh nghiệm của mình, song song với bổ sung kiến thức, kinh nghiệm từ người dạy, bạn bè và từ truyền thông. Cách học này làm tăng khả năng ghi nhớ, vận dụng vào thực tế gấp nhiều lần so với cách học truyền thống, từ đó người học được tự tin khám phá năng lực của mình, có trách nhiệm, biết sẻ chia và tự mình thấy được vị trí giá trị của bản thân. Với những phương pháp dạy học tích cực đã giúp người học tự khám phá kiến thức, tự học, tự làm, tự bổ sung cho nhau các kiến thức đã giúp họ biến những tri thức đó thành tri thức của chính mình, và chuyển nó thành hành động, thói quen hàng ngày của họ. Khi áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, quan hệ cô trò trong việc dạy và học cũng đổi khác, học sinh trở nên chủ động trong việc học, chủ động tìm kiếm kiến thức có thu nhận kiến thức không chỉ ở người dạy mà còn từ nhiều nguồn khác. Người thầy trở nên quan trọng hơn vì giữa biển mênh mông của tri thức, điều gì cần sàng lọc, sử dụng và ứng dụng chúng vào cuộc sống như thế nào? Tất cả những điều ấy đều cần đến sự hướng dẫn của người thầy, sự thay đổi quan hệ giữa người dạy và người học đã yêu cầu người học cần hiểu rõ mình là ai, điều gì cần, cần học gì, muốn học cái gì và mình muốn trở thành người như thế nào sau này. Với cách dạy học này đòi hỏi giáo viên phải có bản lĩnh, chuyên môn tốt và kiên trì xây dựng cho học sinh phương pháo học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp đến cao. Tuy nhiên khi đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy học với hoạt động học thì mới thành công. 1.2. Đặc điểm của phương pháp dạy học tích cực. 1.2.1. Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Trong phương pháp dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt động "dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kỹ năng mới, vừa nắm được phương pháp "làm ra" kiến thức, kỹ năng đó, không rập theo những khuôn mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng. 1.2.2. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học. 7
  10. Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học. Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kỹ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão - thì không thể nhồi nhét vào đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho học sinh phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải được chú trọng. Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp dạy học tích cực. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kỹ năng, thói quen, ý chí vận dụng các kỹ năng phương pháp tích cực thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong qúa trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển phương pháp dạy học tích cực ngay trong trường phổ thông, không chỉ giúp học sinh tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự phát huy năng lực sáng tạo của bản thân cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên. 1.2.3. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác. Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập, áp dụng phương pháp tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này càng lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh. Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kỹ năng, thái độ đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của người thầy giáo. Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Mô hình hợp tác 8
  11. trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội. Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia, liên quốc gia; năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà trường phải chuẩn bị cho học sinh. 1.2.4. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kỹ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh. Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kỹ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế. Với sự trợ giúp của các thiết bị kỹ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học. Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính, giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo viên đã phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên. 1.3. Ý nghĩa của phương pháp dạy học tích cực. Nói đến phương pháp dạy học tích cực chính là nói đến cách dạy học mà ở đó, giáo viên là người đưa ra những gợi mở cho một vấn đề và cùng học sinh bàn luận, tìm ra mấu chốt vấn đề cũng như những vấn đề liên quan. Phương pháp này 9
  12. lấy sự chủ động tìm tòi, sáng tạo, tư duy của học sinh làm nền tảng, giáo viên, gia sư chỉ là người dẫn dắt và gợi mở vấn đề. Cụ thể, lợi ích mà phương pháp dạy học tích cực mang lại cho học sinh là: - Phát triển kỹ năng hợp tác, làm việc nhóm, học sinh được rèn luyện kỹ năng này một cách thường xuyên. Chúng thấy được sức mạnh của làm việc tập thể và các khó khăn cần khắc phục. - Tăng mức độ tương tác của học sinh Nhiều hoạt động đồng nghĩa với tăng mức độ tương tác, lớp học sẽ sôi động và đầy hứng khởi. - Cải thiện tư duy phản biện Khi học sinh trở thành tâm điểm, thì việc tiếp thu kiến thức thụ động không còn nữa. - Khả năng ghi nhớ và tiếp thu kiến thức Học sinh, sinh viên nhớ khoảng 10% những gì họ đọc, 20% những gì họ nghe, nhưng 90% những gì họ làm. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Chương trình GDKT và PL lớp 10 Sách giáo khoa Giáo dục Kinh tế và Pháp luật 10 thuộc bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” được biên soạn theo Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018. Sách sẽ giúp các em có những tri thức phổ thông, cơ bản, thiết thực về kinh tế và pháp luật qua 9 chủ đề được chia làm hai phần, phần một: Giáo dục kinh tế, phần hai: Nội dung thể hiện các vấn đề về pháp luật và đươc thực hiện qua 70 tiết học. Môn Giáo dục kinh tế và Pháp luật” là môn học tự chọn theo nguyện vọng và định hướng nghề nghiệp của học sinh trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp. Nội dung của môn học xoay quanh hai mạch nội dung chính là giáo dục kinh tế và giáo dục pháp luật với các kiến thức cơ bản về kinh tế và pháp luật phù hợp với lứa tuổi học sinh THPT. Ngoài ra, chuyên đề của môn học giúp tăng cường cho học sinh kiến thức về kinh tế, pháp luật và vận dụng những kiến thức vào thực tiễn, đáp ứng sở thích, nhu cầu và định hướng nghề nghiệp của các em. Môn học này hướng đến tiêu điểm xoay quanh hai mạch nội dung chính là giáo dục kinh tế và giáo dục pháp luật với các kiến thức cơ bản về kinh tế và pháp luật phù hợp với lứa tuổi học sinh THPT góp phần thực hiện giáo dục định hướng nghề nghiệp cho học sinh THPT cũng như chuẩn bị những hành trang cần thiết để giúp học sinh trở thành công dân xã hội, khơi gợi các ý tưởng khởi nghiệp của bản thân trong cuộc sống xã hội… 10
  13. Sách giáo Giáo dục Kinh tế và Pháp luật 10 giáo dục các em tình cảm, niềm tin vào đường lối phát triển của đất nước; hiểu được các quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân; tích cực, tự giác học tập và tham gia lao động, sản xuất phù hợp với khả năng của bản thân tôn trọng quyền, nghĩa vụ của tổ chức và cá nhân theo quy định của pháp luật. Từ những tri thức đã khám phá, các em sẽ phân tích, đánh giá được thái độ, hành vi của bản thân và người khác, tự điều chỉnh và nhắc nhờ, giúp đỡ người khác điều chỉnh thái độ, hành vi theo các chuẩn mực đạo đức, kinh tế, pháp luật, có khả năng tham gia các hoạt động phù hợp với lứa tuổi để thực hiện quyền, nghĩa vụ công dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và trong các hoạt động kinh tế; có kĩ năng sống, bản lĩnh để tiếp tục học tập, làm việc và thực hiện các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm công dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế. 2.2. Thực trạng dạy học và sử dụng phương pháp dạy học tích cực môn GDCD. 2.2.1. Thực trạng chung. Môn GDCD trong chương trình giáo dục phổ thông đóng vai trò to lớn trong việc giáo dục đạo đức, học sinh về ý thức và hành vi, góp phần trang bị cho học sinh kỹ năng sống, rèn luyện ý thức sống của người công dân, góp phần hình thành và phát triển ở các em những phẩm chất và năng lực cần thiết của công dân trong một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là việc làm vừa mang tính cấp bách, có tính lâu dài và cũng không hề đơn giản trước những làn sóng văn hóa của thời kỳ hội nhập và phát triển kinh tế thị trường. Đặc biệt là khi chúng ta đang quyết tâm triển khai thực hiện có hiệu quả việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học, chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển con người toàn diện thì hơn bao giờ hết, bộ môn GDCD, GDKT & PL giữ vị trí vô cùng quan trọng, là môn học cần thiết, không chỉ trang bị cho người học những tri thức đạo đức, kinh tế, pháp luật mà điều quan trọng là rèn luyện cho học sinh thói quen, kỹ năng và thực hiện hành vi quan hệ giao tiếp, ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức chung của xã hội. Tuy nhiên theo kết quả đánh giá sơ bộ về tình hình giảng dạy bộ môn giáo dục công dân nói chung và việc thực hiện giảng dạy bộ môn GDKTPL nói riêng, giáo dục đạo đức cho học sinh tại các trường THPT trên địa bàn tỉnh, bên cạnh những kết quả đạt được như các trường đã có nhiều bước đột phá, đổi mới để nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn GDCD và giáo dục đạo đức học sinh, từng bước hoàn thiện cách dạy và cách học của bộ môn GDCD. Thông qua môn học đã trang bị cho học sinh những kiến thức phổ thông, cơ bản về các giá trị đạo đức, pháp luật, lối sống, đồng thời hình thành và phát triển ở học sinh những tình cảm, niềm tin, những hành vi và thói quen phù hợp với những giá trị và chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc. Trong thực tế thực trạng giảng dạy bộ môn GDKTPL nói riêng và giáo dục đạo đức cho học sinh tại các trường 11
  14. học trong hệ thống giáo dục quốc dân trên địa bàn tỉnh cũng còn tồn tại những bất cập nhất định. Bởi chương trình Giáo dục phổ thông 2018 ở cấp THPT được đánh giá nhiều đổi mới theo hướng thực tiễn, trong nhưng tháng đầu thực hiện, cả thầy và trò đều lúng túng vì sự thay đổi hoàn toàn cách dạy và học. Chương trình giáo dục môn Giáo dục kinh tế và Pháp luật so với chương trình môn Giáo dục công dân đã kế thừa những ưu điểm của chương trình hiện hành nhưng có những điểm mới đó là môn Giáo dục kinh tế và Pháp luật đã lược bỏ những kiến thức hàn lâm triết học, đạo đức học, chủ nghĩa xã hội khoa học, đường lối của Đảng, kinh tế chính trị bằng những kiến thức thiết thực của kinh tế và pháp luật như mô hình sản xuất kinh doanh, pháp luật lao động,… Trong khi chương trình hiện hành, môn GDCD tập trung vào những nội dung Công dân với thế giới quan, đạo đức, kinh tế, chính trị- xã hội, pháp luật. Bên cạnh đó mục tiêu dạy học của chương trình cũ hướng đến kiến thức, kĩ năng, thái độ thì chuyển sang chương trình mới là phẩm chất, năng lực của học sinh. Ngoài hướng đến 5 phẩm chất và 3 năng lực chung thì môn Giáo dục kinh tế và Pháp luật còn hướng đến năng lực đặc thù của môn học (năng lực điều chỉnh hành vi, năng lực phát triển bản thân, năng lực tìm hiểu và tham gia hoạt động kinh tế – xã hội…). Như vậy, có thể khẳng định rằng so với chương trình môn GDCD hiện hành, Chương trình môn GDKTPL có nhiều điểm nổi bật về quan điểm, mục tiêu và nội dung của chương trình đáp ứng dạy học phát triển phẩm chất và năng lực của HS. Nổi bật nhất là phát triển năng lực có liên quan về kinh tế và pháp luật để học sinh phát triển bản thân mình. Không chỉ có học trò lúng túng mà cả các thầy cô đều lúng túng bởi vì thầy cô phải thay đổi cách dạy để tiếp cận cái mới. Ở chương trình cũ, thầy cô vào kiến thức mới ngay mà không cần dẫn dắt gì cả sau đó mới cho bài tập, vận dụng... Còn bây giờ thì ngược lại, để có kiến thức mới, thầy cô phải bắt đầu từ thực tế, dẫn đến tình huống để giúp học sinh lĩnh hội kiến thức mới. Cho nên cả thầy, lẫn trò, nhất là thầy còn lúng túng trong thay đổi cách dạy. Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nước ta hiện nay là cuộc đổi mới toàn diện, đổi mới từ mục tiêu, nội dung, phương pháp đến phương tiện giáo dục, kiểm tra đánh giá chất lượng giáo dục... Trong đó đổi mới phương pháp là nhiệm vụ hàng đầu và bắt đầu từ người thầy. Phương pháp dạy học tích cực làm cho học sinh được hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng là được suy nghĩ nhiều hơn trong giờ học, tiến tới rèn luyện cho học sinh thói quen tự học, tự nghiên cứu, tự chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng. Trong thực tế vận dụng các hoạt động theo tổ, nhóm hoặc cá nhân trên lớp học và tự nghiên cứu đặt kế hoạch là việc làm còn tương đối mới. Do vậy trong quá trình thực hiện sẽ gặp không ít khó khăn và thuận lợi như sau: 12
  15. - Đã có các chỉ thị, nghị quyết về đổi mới nội dung chương trình, phương pháp và Sách giáo khoa đã và đang được tiến hành đồng bộ, thực hiện chương trình phân ban trên cả nước đòi hỏi mỗi giáo viên cải tiến, vận dụng các phương pháp dạy học (phương pháp dạy học tích cực, phương pháp dạy học truyền thống) một cách hài hòa nhằm đạt hiệu quả cao nhất để giúp học sinh nắm vững tri thức là yêu cầu cấp bách trong tình hình hiện nay. - Nhà nước cùng các bộ, ban ngành luôn quan tâm và đầu tư nguồn kinh phí lớn cho việc trang bị các phương tiện, thiết bị dạy và học giúp học sinh tăng cường thực hành, vận dụng kỹ năng... Hàng năm giáo viên lại được tập huấn bồi dưỡng thường xuyên nâng cao kiến thức chuyên môn và vận dụng phương pháp mới trong dạy và học. Từ đó thôi thúc người dạy phải linh hoạt hơn, thích ứng hơn trong việc giảng dạy. Học sinh được chia sẻ các băn khoăn mà nếu chỉ riêng mình thì khó giải quyết được vấn đề do giáo viên đặt ra. Từ đó hình thành ở học sinh khả năng giao tiếp đặc biệt là dùng ngôn ngữ diễn đạt, khả năng hợp tác và khả năng thích ứng cùng khả năng độc lập suy nghĩ, làm cho học sinh cảm thấy tự tin và không còn ỷ lại hoàn toàn vào thầy cô. - Phát huy được tính tích cực của học sinh, sự thi đua giữa các cá nhân và trong các tổ nhóm sẽ tạo cho học sinh phát huy hết khả năng tư duy và kỹ năng ứng xử của mình bởi có khi giáo viên sẽ chấm điểm, động viên cho cá nhân hoặc nhóm nào có kết quả hay nhất, chính xác nhất, nhanh nhất. - Bên cạnh đó do điều kiện cơ sở vật chất hiện nay chưa đáp ứng được hết các yêu cầu để có thể thực hiện được một số phương pháp dạy học tích cực như đồ dùng dạy học, thiết bị đèn chiếu, băng hình ... còn thiếu với số lượng được cấp còn hạn chế , sĩ số học sinh trong lớp nhiều (40 đến 45 học sinh trong một lớp học). - Nhiều giáo viên và nhất là học sinh còn chưa thích ứng với một số phương pháp mới nên còn ngại trong việc thể hiện và phát biểu thảo luận. Đối với giáo viên, để tổ chức tốt giờ học cần phải có sự chuẩn bị đầu tư và thiết kế bài soạn với một hướng mở. Bởi vì đối tượng học sinh có khả năng nhận thức khác nhau và cách biểu đạt khác nhau, khí chất và tính cách của mỗi người là khác không giống nhau... Chính vì điều đó mà rất nhiều tình huống có thể nảy sinh trong quá trình thực hiện các phương pháp tích cực. Do vậy giáo viên cần phải có những dự đoán về phương án mà học sinh có thể trả lời để hướng giờ học, bài học vào chủ đề chính của bài, tránh không bị sa đà không kiểm soát được bài dạy. - Tâm lý học sinh nói chung chỉ chú trọng đến các môn học mà các em sẽ phải thi tốt nghiệp và thi đại học nên sự đầu tư, chuẩn bị cho bài học ở nhà trước khi đến lớp của học sinh còn sơ sài, không được chú trọng và đầu tư thích hợp cho môn học này. - Để có một giờ dạy, bài dạy nhằm phát huy khả năng tìm tòi, sáng tạo của học sinh và cuốn hút học sinh vào các hoạt động do giáo viên thiết kế, đòi hỏi người 13
  16. giáo viên phải có sự đầu tư cho bài dạy. Do đó thời gian tìm tòi, nghiên cứu để đưa ra các tình huống và sử dụng phương pháp nào cho phù hợp cũng là một khó khăn mà giáo viên có thể ngại vì tốn nhiều thời gian. - Một số phương pháp khi thực hiện yêu cầu học sinh cần phải có thời gian và kinh phí nhất định, cho nên đối với những nơi và những gia đình học sinh có hoàn cảnh còn khó khăn cũng bị hạn chế khi vận dụng những phương pháp này. 2.2.2. Thực trạng ở trường THPT DTNT Tỉnh Nghệ An. - Vài nét về trường THPT DTNT tỉnh Nghệ An Cùng với sự đổi mới của đất nước, Tỉnh Nghệ An nói chung các huyện miền núi nói riêng đã có nhiều đổi mới trong mọi lĩnh vực như: Tư duy - kinh tế - văn hóa - giáo dục... Đặc biệt để giúp người dân các huyện miền núi thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu, không còn cách nào khác ngoài việc đầu tư vào giáo dục, nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng đào tạo nhân tài, đào tạo con em đồng bào dân tôc của các huyện trên địa bàn của tỉnh trở thành cán bộ ưu tú. Để thực hiện điều đó vào ngày 15/10/1984 được sự cho phép của các cấp lãnh đạo, trên địa bàn Thành Phố Vinh, nằm cạnh quốc lộ 1A một ngôi trường dành cho học sinh các dân tộc miền núi ra đời, ngôi trường mang tên “Trường thanh thiếu niên dân tộc vùng cao Nghệ Tĩnh”, từ ngày 09/9/1991 được đổi tên thành Trường THPT DTNT Tỉnh. Mục tiêu của trường là Đào tạo nguồn cán bộ và nguồn nhân lực cho các huyện miền núi trong tương lai. Trường THPT DTNT Tỉnh là một trường học đặc biệt bởi đây các thầy cô phải thực hiện đồng thời hai chức năng: nuôi và dạy. Thầy cô giáo không chỉ làm nhiệm vụ truyền thụ kiến thức cho học sinh mà còn là người cha, người mẹ hướng dẫn, chăm sóc, giúp đỡ các em từ chuyện ăn, ở, sinh hoạt nội trú lẫn nề nếp học tập hàng ngày. Nét đặc biệt của mái trường này còn ở sự đa dạng thành phần dân tộc của học sinh: Thái, Thổ, Thanh, Mông, Khơ Mú, Ơ Đu…đều có cả. Mỗi em, mỗi miền quê mà chỉ nghe thôi cũng thấy trắc trở, xa xôi: từ Mường Ải, Mường Típ, đến Mỹ Lý, Keng Đu, Khe Khặng, Thạch Ngàn, Môn Sơn, Bình Chuẩn, Mai Sơn… Từ những đặc thù của trường nội trú, việc dạy và học ở trường THPT DTNT Tỉnh khó khăn hơn rất nhiều so với các trường THPT khác. Nhưng các thế hệ thầy và trò ở đây đã cùng nhau phấn đấu để nhà trường thắm mãi những mùa hoa. Gần 40 năm xây dựng và trưởng thành, trường THPT DTNT Tỉnh đã dành được rất nhiều thành tích như: vinh dự được nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động Nhất, Nhì, Ba; đươc công nhận đạt chuẩn quốc gia; nhiều tập thể và cá nhân được Thủ tướng Chính phủ, Bộ GD&ĐT, UBND tỉnh tặng bằng khen, hiện nay trường là một trong năm trường trọng điểm của tỉnh. Trường THPT Dân tộc nội trú Tỉnh xứng đáng là con chim đầu đàn trong hệ thống các trường DTNT của tỉnh, nằm trong tốp đầu về chất lượng đào tạo của hệ thống các trường PT DTNT cả nước. - Thực trạng về giảng dạy môn GDCD 14
  17. Môn GDCD trong chương trình giáo dục phổ thông đóng vai trò to lớn trong việc giáo dục đạo đức, học sinh về ý thức và hành vi, góp phần trang bị cho học sinh kỹ năng sống, rèn luyện ý thức sống của người công dân, góp phần hình thành và phát triển ở các em những phẩm chất và năng lực cần thiết của công dân trong một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là việc làm vừa mang tính cấp bách, có tính lâu dài và cũng không hề đơn giản trước những làn sóng văn hóa của thời kỳ hội nhập và phát triển kinh tế thị trường. Đặc biệt là khi chúng ta đang quyết tâm triển khai thực hiện có hiệu quả việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học, chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển con người toàn diện thì hơn bao giờ hết, bộ môn GDCD giữ vị trí vô cùng quan trọng, là môn học cần thiết, không chỉ trang bị cho người học những tri thức đạo đức mà điều quan trọng là rèn luyện cho học sinh thói quen, kỹ năng và thực hiện hành vi quan hệ giao tiếp, ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức chung của xã hội. Tuy nhiên theo kết quả đánh giá sơ bộ về tình hình giảng dạy bộ môn giáo dục công dân, giáo dục đạo đức cho học sinh tại các trường THPT trên địa bàn tỉnh, bên cạnh những kết quả đạt được như các trường đã có nhiều bước đột phá, đổi mới để nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn GDCD và giáo dục đạo đức học sinh, từng bước hoàn thiện cách dạy và cách học của bộ môn GDCD. Thông qua môn học đã trang bị cho học sinh những kiến thức phổ thông, cơ bản về các giá trị đạo đức, pháp luật, lối sống, đồng thời hình thành và phát triển ở học sinh những tình cảm, niềm tin, những hành vi và thói quen phù hợp với những giá trị và chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc. Trong thực tế thực trạng giảng dạy bộ môn GDCD nói riêng và giáo dục đạo đức cho học sinh tại các trường học trong hệ thống giáo dục quốc dân trên địa bàn tỉnh cũng còn tồn tại những bất cập nhất định. Mặc dù trong nhứng năm qua môn GDCD đã được đưa vào là môn thi tốt nghiệp THPT và đã được sở giáo duc, ban giám hiệu nhà trường đã nhận thức, xác định được vị trí, tầm quan trọng của bộ môn GDCD trong giáo dục, rèn luyện đạo đức cho học sinh, song đến thời điểm hiện nay, trong tâm niệm của của đa số phụ huynh và học sinh có con học khối tự nhiên họ vẫn còn lối suy nghĩ bộ môn GDCD là bộ môn phụ trong nhà trường, là môn học không có trong các kỳ thi quan trọng như thi tốt nghiệp hay thi đại học nên học sinh thường học chỉ để có đủ điểm, bỏ qua vấn đề suy ngẫm, tìm hiểu thêm kiến thức đằng sau mỗi bài học, thậm chí là học qua loa, học cho xong. Năm nay thực hiện chương trình giáo dục mới trường được tuyển 07 lớp 10 nhiều hơn mọi năm một lớp nhưng do thực hiện học tự chon nên chỉ có 03 lớp học môn GDKT &PL, điều đó cho thấy số lượng học sinh được tiếp cận tìm hiểu về kinh tế, pháp luật sẽ ít hơn một nửa so với trước. Hiện nay chương trình Giáo dục phổ thông 2018 ở cấp THPT được đánh giá nhiều đổi mới theo hướng thực tiễn thông qua nhưng tháng đầu thực hiện, cả thầy và trò đều lúng túng vì sự thay đổi hoàn toàn cách dạy và học. Và đặc biệt chương 15
  18. trình giáo dục môn Giáo dục kinh tế và Pháp luật 10 năm nay mục tiêu dạy học chuyển sang chương trình mới là phẩm chất, năng lực của học sinh. Ngoài hướng đến 5 phẩm chất và 3 năng lực chung thì môn Giáo dục kinh tế và Pháp luật còn hướng đến năng lực đặc thù của môn học đó là năng lực điều chỉnh hành vi, năng lực phát triển bản thân, năng lực tìm hiểu và tham gia hoạt động kinh tế – xã hội. Nhưng có điều học sinh lớp 10 năm nay 2022 – 2023 là lứa học sinh hoàn thành bậc THCS theo chương trình cũ nhưng lại bắt đầu cấp học mới với chương trình Giáo dục phổ thông 2018 lần đầu tiên áp dụng nên đã có nhiều băn khoăn trăn trở và ái ngại trong quá trình tiếp nhận kiến thức? Tâm sự của em Thò Y Hải, học sinh lớp 10A5 Trường THPT DTNT, cho biết: “Trước khi chính thức bước vào lớp 10, em cũng nghe đâu đó rằng chương trình mới sẽ khó hơn, sẽ theo định hướng nghề nghiệp, phát triển năng lực bản thân… một cách chuyên sâu hơn nên cũng không tránh khỏi lo lắng”. Đến nay, khi trải qua hơn ba phần tư của năm học lớp 10, Thò Y Hải nhận xét: “Kiến thức không nặng nhưng cách tiếp cận kiến thức hoàn toàn khác, đòi hỏi chúng em phải làm việc nhiều hơn. Vào lớp 10, chúng em không còn tập trung vào học lý thuyết như trước đây mà từ kiến thức cơ bản, từ kỹ năng định hướng của thầy cô, học sinh chúng em phải liên hệ, mở rộng kiến thức, tìm hiểu những vấn đề có liên quan. Với chương trình năm nay, chúng em phải chủ động tự học, tìm hiểu kiến thức, giải quyết vấn đề theo hình thức nhóm học tập…” Chia sẻ của học sinh Thò Y Hải lớp 10A5 16
  19. Tương tự, Vi Mai Phương, HS lớp 10A7 Trường THPT DTNT Tỉnh cho hay có một số kiến thức mới lạ nhưng và rất khô khan cứng nhắc, cùng với các phương pháp học mới nên nhiều khi làm cho chúng em lúng túng trong quá trình tiếp thu kiến thức. Tuy vậy Vi Mai Phương nhấn mạnh: “Nếu không tự học thì không thể bắt kịp”. Em Lo Thị Bảy lớp 10A6 Trường THPT DTNT Tỉnh cho bết bên cạnh những lúng túng khi tiếp cận kiến thức mới chúng em còn gặp nhiều kho khăn về điều kiện cơ sở vật chất hiện nay chưa đáp ứng được hết các yêu cầu để có thể thực hiện được một số phương pháp dạy học tích cực như đồ dùng dạy học, thiết bị học tập, băng hình ... còn thiếu với số lượng được cấp còn hạn chế , sĩ số học sinh trong lớp nhiều (40 – 45 học sinh trong một lớp học). Chia sẻ của học sinh Lo Thị Bảy lớp 10A6 Trường THPT DTNT Tỉnh Nhiều học sinh còn chưa thích ứng với một số phương pháp mới nên còn ngại trong việc thể hiện và phát biểu thảo luận. Đối với giáo viên, để tổ chức tốt giờ học cần phải có sự chuẩn bị đầu tư và thiết kế bài soạn với một hướng mở. Bởi vì đối tượng học sinh có khả năng nhận thức khác nhau và cách biểu đạt khác nhau, khí chất và tính cách của mỗi người là khác nhau... Chính vì điều đó mà rất nhiều tình huống có thể nảy sinh trong quá trình thực hiện các phương pháp tích cực. Do vậy giáo viên cần phải có những dự đoán về phương án mà học sinh có thể trả lời để hướng giờ học, bài học vào chủ đề chính của bài, tránh không bị sa đà không kiểm soát được bài dạy. 17
  20. Tâm lý học sinh nói chung chỉ chú trọng đến các môn học mà các em sẽ phải thi tốt nghiệp và thi đại học nên sự đầu tư, chuẩn bị cho bài học ở nhà trước khi đến lớp của học sinh còn sơ sài, không được chú trọng và đầu tư thích hợp cho môn học này. Để có một giờ dạy, bài dạy nhằm phát huy khả năng tìm tòi, sáng tạo của học sinh và cuốn hút học sinh vào các hoạt động do giáo viên thiết kế, đòi hỏi người giáo viên phải có sự đầu tư cho bài dạy. Do đó thời gian tìm tòi, nghiên cứu để đưa ra các tình huống và sử dụng phương pháp nào cho phù hợp cũng là một khó khăn mà giáo viên có thể ngại vì tốn nhiều thời gian. 3. GIẢI PHÁP SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO DẠY HỌC MÔN GDKT PHÁP LUẬT 10 3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp. - Giáo dục học sinh nhận biết vấn đề theo hướng tích cực, sống có lý tưởng, yêu quê hương, cuộc sống, phấn đấu không ngừng để hoàn thiện bản thân là mục tiêu hàng đầu trong việc lựa chọn phương pháp giảng dạy của GV môn GDKTPL. - Tăng sự đoàn kết khi cùng nhau thực hiện các phương pháp dạy học tích cực mang tính thực tiễn, phát huy vai trò cá nhân theo hướng tích cực, tự giác, sáng tạo đồng thời đấu tranh bài trừ chủ nghĩa cá nhân. - Học sinh giáo viên áp dụng các phương pháp dạy học tích cực một cách thuần thục, gần gũi, thực tế góp phần khơi dậy tính sáng tạo chủ động tích cực của bản thân trong quá trình tìm kiếm kiến thức bài học và liên hệ thực tế trong cuộc sống hàng ngày để hướng tới việc phát triển tương lai, xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp. - GV lựa chọn các phương pháp dạy học tích cực phải đảm bảo thời gian bài học, có mối quan hệ chặt chẽ với nội dung, thông điệp trọng tâm cần chuyển tải. Xây dựng hệ kế hoạch dễ thực hiện, có tính vận dụng cao và thể hiện được mối liên hệ logic nội tại giữa các nội dung trong một bài học. - GV có thể kết hợp được nhiều phương pháp dạy học khác nhau trong một nội dung bài học góp phần mang lại hứng thú học môn GDKTPL trong học sinh. 3.2. Nội dung thực hiện giải pháp sử dụng phương pháp dạy học tích cực Xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh chóng với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kỹ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão, đòi hỏi giáo viên cần sử dụng linh hoạt các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Vì vậy, dạy học chỉ bằng phương pháp thông báo những kiến thức có sẵn và học theo kiểu thụ động không còn phù hợp nữa mà phải dạy để học sinh hình thành năng lực tự thu nhận, xử lí, sử dụng thông tin để giải quyết tình huống đa dạng trong cuộc sống. Dạy cho học sinh biết cách tìm ra chân lí, nắm hiểu rõ và vận dụng kiến thức vào thực tế. Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nền kinh tế nhiều thành phần định hường XHCN. Để thích ứng với cơ chế thị trường, chuẩn bị 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2