intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu từ điểm nhìn văn học sử

Chia sẻ: ViTomato2711 ViTomato2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

59
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tiếp cận Nguyễn Đình Chiểu từ góc nhìn của lí thuyết tiếp nhận, trong đó sử dụng phương pháp lịch sử - chức năng làm chủ đạo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu từ điểm nhìn văn học sử

TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 19 - Thaùng 2/2014<br /> <br /> <br /> SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU<br /> TỪ ĐIỂM NHÌN VĂN HỌC SỬ<br /> LÊ VĂN HỶ(*)<br /> TÓM TẮT<br /> Bài viết tiếp cận Nguyễn Đình Chiểu từ góc nhìn của lí thuyết tiếp nhận, trong đó sử<br /> dụng phương pháp lịch sử - chức năng làm chủ đạo. Cứ liệu khảo sát là các công trình lịch sử<br /> văn học Việt Nam có đề cập đến Nguyễn Đình Chiểu được xuất bản ở Việt Nam từ đầu thế kỉ<br /> XX đến nay, từ công trình của Dương uảng Hàm 1943 đến Nguyễn Văn Hầu 2012.<br /> Từ khoá: văn học sử, Nguyễn Đình Chiểu, lí thuyết tiếp nhận, văn học Việt Nam.<br /> ABSTRACT<br /> The article studies Nguyen Dinh Chieu from the perspectives of the receptive<br /> theory, which uses the history-function method as a decisive method. The survey data are<br /> the historical literary works on Nguyen Dinh Chieu published in Vietnam from the early<br /> twentieth century to the present, from the works of Duong Quang Ham in 1943 to the<br /> works of Nguyen Van Hau in 2012.<br /> Keywords: historical literature, Nguyen Dinh Chieu, the receptive theory,<br /> Vietnamese literature.<br /> 1. NGUYỄN ĐÌNH CHI U DƯỚI GÓC NHÌN trình hiện đại hoá. Sự ra đời của các đô thị<br /> CỦA CÁC C NG TRÌNH VĂN HỌC SỬ lớn, sự phát triển của báo chí đã góp phần<br /> TRƯỚC 1954 quyết định đến sự sôi động của đời sống<br /> Khái niệm văn học sử, lịch sử văn học nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam<br /> được sử dụng trong bài viết này có nội trước 1945. Khoa nghiên cứu văn học Việt<br /> hàm tương đương nhau. Người viết tán Nam, trong đó có bộ môn lịch sử văn học từ<br /> thành ý kiến của các tác giả Từ điển thuật sau khi tiếp xúc với nền học thuật phương<br /> ngữ văn học 1992, bên cạnh đó có tham Tây đã có một sự thay đổi. Theo Nguyễn<br /> khảo ý kiến về khái niệm này trong Lược Văn Hoàn, sự tiếp xúc ban đầu là qua tiếng<br /> thảo lịch sử văn học Việt Nam - 1957, Sơ Pháp và sách báo bằng tiếng Pháp, tiếp đó là<br /> thảo lịch sử văn học Việt Nam - 1957, Các qua hệ thống trường học, trong đó môn văn<br /> vấn đề của khoa học văn học - 1990, Văn học giới thiệu hầu hết các trường phái phê<br /> học sử những quan niệm mới những tiếp bình văn học Pháp, nhất là cuốn Lịch sử văn<br /> cận mới - 2001, Phương pháp luận nghiên học Pháp của Gustave Lanson được sử dụng<br /> cứu văn học - 2009 và ý kiến của các tác làm sách giáo khoa suốt thời Pháp thuộc đã<br /> giả như Phạm Thế Ngũ 1965, Thanh Lãng có một ảnh hưởng nổi bật ở Việt Nam mà<br /> 1967 và Huỳnh Vân - 2010 trong bài Hans giai đoạn đầu, tiêu biểu là Dương Quảng<br /> Robert Jauss: Lịch sử văn học là lịch sử Hàm với công trình Việt Nam văn học sử<br /> tiếp nhận. yếu (1943). Là một nhà giáo, có làm công<br /> Trong các công trình văn học sử tác biên khảo và dịch thuật, ông đồng thời là<br /> trước 1945, Nguyễn Đình Chiểu được nhà văn học sử với công trình vừa dẫn. Đây<br /> nghiên cứu về nhiều mặt, nhiều góc nhìn là bộ văn học sử đầu tiên do người Việt viết<br /> khác nhau. Văn học Việt Nam từ đầu thế nên nó có một ý nghĩa khá đặc biệt. Trước<br /> kỉ XX, nhất là từ sau 1930, bước vào quá đó, Phan Trần Chúc công bố công trình văn<br /> <br /> (*)<br /> ThS, Tạp chí Vietnam Logistics Review.<br /> <br /> 33<br /> học sử Văn chương quốc âm thế kỉ XIX kháng chiến trường kì 9 năm. Cuộc cách<br /> (194) giới thiệu qua về Nguyễn Đình mạng mùa thu đã mở ra một kỉ nguyên mới<br /> Chiểu và truyện Lục Vân Tiên với những trong lịch sử dân tộc, kỉ nguyên độc lập tự<br /> đánh giá sơ lược, còn nhiều nhầm lẫn về chủ và chủ nghĩa xã hội. Một nền văn học<br /> năm sinh và tác phẩm của cụ Đồ. Nhìn mới đã ra đời trong những điều kiện khắc<br /> chung nó không có gì mới đối với người nghiệt của chiến tranh, nền văn học cách<br /> đương thời cả về phương diện tư liệu lẫn mạng dần xuất hiện với phương châm: dân<br /> phương pháp tiếp cận. “Việt Nam văn học tộc khoa học và đại chúng. Các nhà văn trở<br /> sử yếu tạo ra một mốc son trong lịch sử thành chiến sĩ và văn hoá văn nghệ cũng là<br /> văn học sử Việt Nam, có ý nghĩa khai mở một mặt trận như lời của Chủ tịch Hồ Chí<br /> và là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho Minh đã phát biểu năm 1951. Giai đoạn<br /> thế hệ sau mà bằng chứng là cho đến năm này có tính chất nhận đường như tên một<br /> 1968, nó đã được đã in lần thứ 10 và đến bài viết của Nguyễn Đình Thi. Trong hoàn<br /> năm 2002 vẫn còn tiếp tục được tái bản. cảnh ấy, sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu<br /> Dương Quảng Hàm còn có một số công đã trở thành một trong những nguồn mạch<br /> trình nghiên cứu, biên khảo khác có đề cập và là nguồn cổ vũ nhiệt thành cho các<br /> đến cụ Đồ như: Việt Nam thi văn hợp chiến sĩ trên mặt trận văn hoá văn nghệ.<br /> tuyển (1943), Văn học Việt Nam, uốc văn Trong bối cảnh chung của đất nước, sáng<br /> trích diễm nhưng tiêu biểu nhất vẫn là Việt tác của Nguyễn Đình Chiểu cũng đã bắt<br /> Nam văn học sử yếu. Trong bộ văn học sử đầu những chặng đường mới trong hành<br /> này, tác phẩm của cụ Đồ được khảo sát là trình số phận của mình. Sự tác động của lí<br /> truyện thơ Lục Vân Tiên ở chương 19 Các luận văn học cách mạng và ảnh hưởng của<br /> truyện nôm khác… Tác giả Nguyễn Đình tư tưởng dân tộc, khoa học, đại chúng nổi<br /> Chiểu thì được xếp vào khuynh hướng đạo bật trong thời kì này đối với các công trình<br /> lí của chương 20: Các nhà viết văn nôm về nghiên cứu lịch sử văn học ở các đô thị bị<br /> thế kỉ thứ XIX. Như vậy, đến lúc này, con tạm chiếm là một thực tế có thể quan sát<br /> người và sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu được qua các công trình xuất bản vào giai<br /> đã hiện diện chính thức trong nhà trường đoạn này.<br /> thời Pháp thuộc qua bộ văn học sử đầu tiên Dựa vào những tài liệu hiện còn và<br /> của nền học thuật nước nhà. Việt Nam văn đã được công bố, ta có thể nhận thấy<br /> học sử yếu chịu ảnh hưởng phương pháp những nghiên cứu tiêu biểu về Nguyễn<br /> văn học sử phương Tây khá rõ nét, đó là: Đình Chiểu qua các công trình văn học<br /> “… phương pháp phê bình đại học của sử sau đây.<br /> Brunetiere và phương pháp phê bình văn Việt Nam văn học sử trích yếu của<br /> học của Gustave Lanson” (Lê Quang Tư, Nghiêm Toản (1949), bộ sách này gồm 2<br /> 2009, trang 61). Trong công trình này, tập được nhà sách Vĩnh Bảo ấn hành tại Sài<br /> Dương Quảng Hàm đã sử dụng khá sớm Gòn. Tiêu chí phân loại của công trình này<br /> phương pháp so sánh văn học. Tuy nhiên, dựa vào ngôn ngữ và thể loại văn học.<br /> đã có nhà nghiên cứu như Hà Thanh Vân Nguyễn Đình Chiểu được xếp vào mục Thi<br /> lưu ý rằng phương pháp so sánh văn học ca có liên lạc mật thiết với thời cục và mục<br /> của Dương Quảng Hàm không trùng khớp Trường thiên tiểu thuyết thuộc phần thứ ba:<br /> với phương pháp luận văn học so sánh Văn học vừa bình dân vừa bác học chữ<br /> hiện đại. Nôm và chữ uốc ngữ. Nghiêm Toản cho<br /> Cách mạng tháng Tám đã khai sinh ra rằng những tác phẩm này “… sẽ là gương<br /> nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà non phản chiếu tâm trạng người mình trong một<br /> trẻ và ngay sau đó phải bước vào cuộc giai đoạn lịch sử đầy phẫn hận, đau<br /> <br /> 34<br /> thương”[12, tr.177]. Lập trường của tác giả một số sáng tác nào đó của Nguyễn Đình<br /> bộ sách thể hiện khá rõ trong lời Tựa - lần Chiểu giữa Dương Quảng Hàm với<br /> xuất bản thứ nhất: “Văn học là phản ánh Nghiêm Toản, Nguyễn Tường Phượng –<br /> của xã hội, do tự dân chúng phát sinh và Bùi Hữu Sủng, tức giữa hai giai đoạn<br /> phải luôn luôn quay về dân chúng mới đủ nghiên cứu lịch sử văn học trước và sau<br /> năng lực trưởng thành; văn học Việt Nam năm 1945. Điều đó không có gì khó hiểu<br /> theo hai động lực phát triển nhịp nhàng: a) khi lịch sử xã hội và tình hình tư tường,<br /> tranh đấu, và b) dân chúng hoá” [12,tr.8]. văn hoá đã có những thay đồi, đã xuất hiện<br /> Không khó khăn gì để nhận thấy sự gần gũi những quan điểm và lí luận văn hoá, văn<br /> của những tuyên bố này với lập trường, học mới ở vùng kháng chiến. Cụ thể có thể<br /> phương châm dân tộc khoa học và đại thấy trong khi Dương Quảng Hàm không<br /> chúng đang lưu hành rộng rãi trong văn đề cập đến thơ văn yêu nước chống Pháp<br /> nghệ vùng kháng chiến giai đoạn này. thì Nghiêm Toản lại xếp ông vào khuynh<br /> “Quan niệm văn học này tương đối mới so hướng Thi ca có liên lạc mật thiết với thời<br /> với các nhà văn học sử đương thời. Dấu ấn cục còn Nguyễn Tường Phượng – Bùi Hữu<br /> bước đầu ảnh hưởng chủ nghĩa Mác - Sủng, ngoài việc chú ý đến những tác<br /> Lênin đã xuất hiện ở đây” [5,tr.66]. phẩm có nội dung yêu nước của Nguyễn<br /> Văn học sử Việt Nam hậu bán thế kỉ Đình Chiểu cũng đã ghi nhận ông cò thuộc<br /> thứ XIX (1952) của Nguyễn Tường Phượng khuynh hướng văn chương thời thế, tức<br /> - Bùi Hữu Sủng nằm trong dự định bộ sách văn chương gắn với thời cuộc của đất<br /> 6 cuốn về văn học từ trước thế kỉ 19 đến nước. Tiến trình lịch sử của sự tiếp nhận<br /> văn học hiện đại nhưng do những biến sáng tác của Nguyễn Đìng Chiểu trước và<br /> động thời cuộc mà bộ này chỉ mới xuất bản sau cách mạng tháng tám năm 1945 đã có<br /> được 2 cuốn: Văn học sử tiền bán thế kỉ những sự thay đổi nào đó do chịu ảnh<br /> XIX, Văn học sử hậu bán thế kỉ XIX. Dù hưởng của những điều kiện lịch sử xã hội<br /> mang tên là một bộ văn học sử nhưng tác và tư tưởng của mỗi thời kì.<br /> giả chỉ thừa nhận và thực tế đây chỉ là tài Công trình của Nguyễn Tường Phượng<br /> liệu giáo khoa bậc trung học lưu hành trong - Bùi Hữu Sủng, Nghiêm Toản, tuy chưa<br /> vùng tạm chiếm của Pháp ở các tỉnh phía tạo ra đột phá về phương pháp tiếp cận và<br /> Bắc giai đoạn 1945-1954. Các tác giả Văn tư liệu cũng như chưa tạo ra một cách đọc<br /> học sử Việt Nam hậu bán thế kỉ thứ XIX đã mới đối với các sáng tác của Nguyễn Đình<br /> nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu ở hai Chiểu nhưng đã đặt nền móng, có tính chất<br /> khuynh hướng văn chương đạo lí và văn dò đường và kể cả khi chưa thành công nó<br /> chương thời thế. Phải thừa nhận rằng cách cũng có một ý nghĩa nhất định. Rất tiếc là<br /> phân chia giai đoạn văn học này không có sau ngày hoà bình lặp lại ở miền Bắc và cả<br /> gì mới so với những người đi trước như sau ngày thống nhất đất nước 1975, hai<br /> Dương Quảng Hàm, Nghiêm Toản nhưng công trình của Nguyễn Tường Phượng -<br /> cái mới ở công trình này là lần đầu tiên Bùi Hữu Sủng, Nghiêm Toản ít được nhắc<br /> ngoài Lục Vân Tiên các tác phẩm như Ngư đến và rơi vào lãng quên một cách oan<br /> Tiều y thuật vấn đáp, thơ và văn tế như: uổng, mãi đến sau ngày đổi mới tên tuổi<br /> Trung thần nghĩa sĩ, Điếu lục tỉnh sĩ dân các tác giả cũng như những công trình này<br /> văn, Văn tế vong hồn mộ nghĩa, Văn tế mới được nhìn nhận lại, tiêu biểu là việc<br /> Trương Định đã được đưa vào và bước đầu được đưa vào trong Từ điển văn học (bộ<br /> ghi nhận về mặt nội dung yêu nước. Điều mới - 2004).<br /> đó cho thấy rằng có sự khác biệt nhất dịnh Khởi thảo văn học sử Việt Nam – Văn<br /> trong việc chú ý đến hay không chú ý đến chương chữ Nôm (1953) là quyển thứ 2<br /> <br /> 35<br /> trong dự định biên soạn bộ văn học sử của 2.1. Nguyễn Đình Chiểu dưới góc nhìn<br /> Thanh Lãng nhưng vì nhiều lí do, dự định của văn học sử miền Bắc xã hội chủ nghĩa<br /> này không thành. Trong công trình này, Từ Hội nghị Geneve, hoà bình đã được<br /> văn chương chữ Nôm được xem xét trong lập lại ở miền Bắc, vĩ tuyến 17 sông Bến<br /> tiến trình lịch sử văn học Việt Nam ở ba Hải đã chia Việt Nam thành hai miền Nam-<br /> thời kì: phôi thai, phát đạt và toàn thịnh. Bắc với hai chế độ chính trị xã hội khác<br /> Theo quan điểm của Thanh Lãng thì nhau. Miền Bắc tiến lên xây dựng chủ<br /> Nguyễn Đình Chiểu thuộc nhóm các nhà nghĩa xã hội, tiến hành cuộc kháng chiến<br /> làm truyện, bên cạnh các thi sĩ và các nhà chống Mỹ cứu nước và hoàn thành sứ<br /> làm văn tế thuộc thời đại toàn thịnh. Công mệnh lịch sử này vào ngày 30-4-1975.<br /> trình chỉ khảo sát Lục Vân Tiên, các sáng Dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng,<br /> tác khác chỉ nêu tên mà không đề cập nội quan niệm mỗi nhà văn là một chiến sĩ trên<br /> dung. Sau khi giới thiệu qua về tác giả, mặt trận văn hoá văn nghệ vẫn được tiếp<br /> nguồn gốc, lược truyện, luân lí, triết lí và tục và duy trì, mỗi nhà văn là một nghệ sĩ-<br /> nghệ thuật truyện Lục Vân Tiên, Thanh công dân. Định hướng này chi phối toàn bộ<br /> Lãng kết luận: “Nếu nghệ thuật viết truyện nền văn học, dĩ nhiên bao gồm cả định<br /> chỉ là để tả được hết tình ý của mình thì Đồ hướng toàn bộ quá trình nghiên cứu và<br /> Chiểu quả có một nghệ thuật cao!” khai thác di sản truyền thống, trong đó có<br /> [19,tr.206]. Tiêu chí phân loại của Thanh Nguyễn Đình Chiểu. Ngay khi vừa lặp lại<br /> Lãng là ngôn ngữ, bên cạnh chữ Nôm là hoà bình, ở miền Bắc, mỗi năm đều có các<br /> chữ Hán và sau là chữ Quốc ngữ, cách hoạt động kỉ niệm ngày sinh và ngày mất<br /> phân chia truyện Nôm là theo tiêu chí có Nguyễn Đình Chiểu trên báo chí và các<br /> tác giả và vô danh (còn gọi là hữu danh và hoạt động khác nhưng nổi bật hơn cả là các<br /> khuyết danh). Hạn chế của cách phân chia hoạt động kỉ niệm 75 năm ngày mất và 150<br /> này là chỉ cần tìm ra tác giả là có ngay sự ngày sinh Nguyễn Đình Chiểu. Có thể thấy<br /> thay đổi, tính ổn định không cao. Sau này, cột mốc năm 1963 và 1972 là thời điểm ghi<br /> các nhà văn học sử ở miền Bắc như dấu những đỉnh cao trong lịch trình tiếp<br /> Nguyễn Lộc và nhóm Lê Quý Đôn có cách nhận cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình<br /> phân chia khác là bình dân và bác học. Các Chiểu. Có thể chọn hai cột mốc này để chia<br /> tác phẩm khác của Nguyễn Đình Chiểu quá trình tiếp nhận Nguyễn Đình Chiểu<br /> được Thanh Lãng đề cập đến trong Bảng trong đời sống nghiên cứu, phê bình ở<br /> lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ 1862- miền Bắc từ 1954 đến 1975 làm 2 giai<br /> 1945. Giai đoạn 1945-1954 còn được gọi là đoạn: 1954 – 1963 và 1963 và 1975. Giai<br /> giai đoạn chống Pháp, nhận đường. Giai đoạn 1954 – 1963, đỉnh cao trong quá trình<br /> đoạn này vì nhiều lí do như chiến tranh liên tiếp nhận Nguyễn Đình Chiểu là các công<br /> miên và ngày càng khốc liệt nên chưa có trình văn học sử có tên Lược thảo lịch sử<br /> điều kiện giới thiệu các phương pháp tiếp văn học Việt Nam và Sơ thảo lịch sử văn<br /> cận cũng như những cách đọc mới các sáng học Việt Nam.<br /> tác của Nguyễn Đình Chiểu, nhưng những Vũ Đình Liên là người phụ trách phần<br /> cố gắng của các nhà nghiên cứu giai đoạn viết về Nguyễn Đình Chiểu trong bộ Lược<br /> này đã tạo cơ sở, tiền đề và những bước đi thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập II và III.<br /> đầu tiên cho những thành tựu ở cả hai miền Nguyễn Đình Chiểu được khảo sát ở giai<br /> Nam - Bắc sau này. đoạn nửa đầu và nửa cuối thế kỉ XIX. Ở<br /> 2. NGUYỄN ĐÌNH CHI U QUA giai đoạn nửa đầu thế kỉ (tập II) đề cập đến<br /> CÁI NHÌN CỦA VĂN HỌC SỬ tiểu sử nhà thơ và tác phẩm Lục Vân Tiên,<br /> GIAI ĐOẠN 1954-1975 soạn giả cho rằng Lục Vân Tiên trước hết là<br /> <br /> 36<br /> một truyện luân lí, đạo đức. Về nghệ thuật đến cuối đời, giai đoạn này lại chia làm 2<br /> thì truyện này mang đậm tính chất nhân chặng: từ 1858-1870, thơ văn mang tinh<br /> dân và đại chúng. Giai đoạn nửa cuối (tập thần chiến đấu, tích cực và lạc quan. Chặng<br /> III) thì khảo sát Ngư Tiều y thuật vấn đáp từ 1870 đến cuối đời, thơ văn nói về cuộc<br /> và các tác phẩm thuộc thơ văn yêu nước chiến đấu của nhân dân và lòng căm thù<br /> khác nhưng không đề cập đến Dương Từ - giặc ít đi (Vũ Đình Liên, 1964, trang 66-<br /> Hà ậu. Tác giả công trình này cho rằng 67). Như vậy, với Vũ Đình Liên - trên<br /> Ngư Tiều y thuật vấn đáp là một cuốn sách phương diện là nhà nghiên cứu - thì đối<br /> về y học nhưng có giá trị tư tưởng cao và tượng mà ông quan tâm nhiều nhất là tác<br /> có giá trị nghệ thuật đáng kể. Năm 1958, giả Nguyễn Đình Chiểu. Có thể nói, ông là<br /> chuyên luận Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ một trong số ít chuyên gia hàng đầu về nhà<br /> yêu nước miền Nam được viết lại và xuất thơ mù xứ Nam kì lục tỉnh. Chuyên luận<br /> bản dưới tên mới Nguyễn Đình Chiểu Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) cùng với<br /> (1822-1888) do Hoài Thanh viết lời tựa. phần viết về Nguyễn Đình Chiểu trong bộ<br /> Đáng chú ý nhất là trong công trình này, Sơ thảo lịch sử văn nhọc Việt Nam - giai<br /> tác giả cho rằng: “Tư tưởng yêu nước, một đoạn nửa cuối thế kỉ XIX là những cột mốc<br /> hình thức mới trong hoàn cảnh mới của tư mới trong tiến trình lịch sử tiếp nhận thơ<br /> tưởng nhân nghĩa đạo đức của Nguyễn văn của Nguyễn Đình Chiểu. Với các công<br /> Đình Chiểu đã thay thế cho tư tưởng trung trình sưu tầm, chú thích về các sáng tác của<br /> hiếu tiết nghĩa trong truyên Lục Vân Tiên. Nguyễn Đình Chiểu, ông cùng các nhà<br /> Tư tưởng nhân nghĩa được nâng cao lên, nghiên cứu trong nhóm biên soạn đã tạo<br /> nhưng lại mất một phần tính chất lạc quan nên một mặt bằng tư liệu mới cho người<br /> tươi sáng” [23 – 86,87]. Trong chuyên luận đọc khi tiếp cận tác phẩm của cụ Đồ, để từ<br /> này, tác phẩm Dương Từ -Hà ậu vẫn đó tạo ra những cách đọc ngày càng chính<br /> chưa được khảo sát chi tiết. Phải đến xác, đầy đủ, khách quan và toàn diện hơn<br /> 8/1963 nhà nghiên cứu mới công bố bài trong hành trình đọc Nguyễn Đình Chiểu.<br /> viết về tác phẩm này trên Tạp chí Văn học: Lịch sử tiếp nhận các sáng tác của Nguyễn<br /> Bước đầu tìm hiểu Dương Từ - Hà ậu Đình Chiểu đến đây đã chuyển sang một<br /> qua những tài liệu chúng ta hiện có. Theo giai đoạn mới với việc tiếp thu và vận dụng<br /> tác giả, tác phẩm này được Nguyễn Đình những yêu cầu của một phương pháp biên<br /> Chiểu sáng tác ở Tân Thuận vào những soạn lịch sử văn học mới đặt trên cơ sở của<br /> năm 1859-1860. Chủ đề của tác phẩm là những nguyên lí lí luận văn học mácxit,<br /> phê phán xã hội phong kiến suy tàn, đánh đồng thời cũng cho thấy có sự đáp ứng<br /> thức ý thức cảnh giác với âm mưu của thực những đòi hỏi của công tác chính trị-tư<br /> dân xâm lược trên vấn đề tôn giáo. Các ý tưởng của cuộc cách mạng ở miền Bắc và<br /> kiến này được tiếp tục khẳng định trong Sơ cuộc đấu tranh giải phóng ở miền Nam. Đó<br /> thảo lịch sử văn học Việt Nam - giai đoạn có thể nói là khuynh hướng chung và rõ<br /> nửa cuối thế kỉ XIX (1964), phần viết về ràng – rất là may mắn – lại chứng tỏ không<br /> Nguyễn Đình Chiểu vẫn do Vũ Đình Liên chỉ phù hợp mà còn rất hửu hiệu đối với<br /> chấp bút. Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam việc tiếp nhận các sáng tác chủ yếu của cụ<br /> - giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX đã chia Đồ.<br /> cuộc đời sáng tác Nguyễn Đình Chiểu làm Để đáp ứng nhu cầu của đa số độc giả,<br /> hai giai đoạn chính: a) Giai đoạn 1849- những người không chuyên nghiên cứu văn<br /> 1858, từ khi nhà thơ bị mù đến lúc Pháp học muốn có một cái nhìn tổng quan về<br /> đánh Nam Bộ, Lục Vân Tiên được sáng tác tiến trình phát triển văn học Việt Nam cùng<br /> trong giai đoạn này; b) Giai đoạn từ 1858 với những đặc điểm và tác giả, tác phẩm<br /> <br /> 37<br /> ưu tú nhất của nó, Nhà xuất bản Khoa học một nhà thơ chiến đấu vì nghĩa cả và tinh<br /> xã hội đã cho ra mắt công trình Lịch sử thần đấu tranh ấy bắt nguồn từ truyền<br /> văn học Việt Nam (sơ giản - 1961) do Văn thống quật cường của dân tộc, với sắc thái<br /> Tân – Nguyễn Hồng Phong biên soạn. địa phương Nam Bộ (Ca Văn Thỉnh, 1973,<br /> Công trình này do tính chất, mục đích riêng trang 147). Tác giả tiểu luận là một nhà<br /> nên phần về Nguyễn Đình Chiểu (do Văn nghiên cứu có uy tín và là đồng hương với<br /> Tân phụ trách) chỉ được khảo sát ở giai nhà thơ nên có sự am hiểu sâu sắc về con<br /> đoạn nửa cuối thế kỉ 19, bộ phận văn học người, văn hoá và văn học địa phương này.<br /> yêu nước bên cạnh tác giả Phan Văn Trị Hơn nữa, nguồn tư liệu tác giả sử dụng là<br /> và các tác giả khác. Sau khi giới thiệu sơ do con trai cụ Đồ - ông Nguyễn Đình<br /> lược về tiểu sử, cũng chỉ khảo sát trên bộ Chiêm - cung cấp. Do vậy những luận<br /> phận văn tế. Công trình này tuy có chỗ đại điểm đưa ra trong bài viết này có một sức<br /> đồng tiểu dị nhưng có thể xem là phiên bản thuyết phục, trước nhất là ở giá trị tư liệu.<br /> rút gọn của bộ Sơ thảo lịch sử văn học Việt Tình hình nghiên cứu về Nguyễn Đình<br /> Nam xuất bản trước đó. Chiểu giai đoạn này đã được Vũ Đức Phúc<br /> Một công trình văn học sử khác về giai nhận xét là vừa thừa quá lại vừa thiếu quá.<br /> đoạn văn học Việt Nam thế kỉ 19 là Giáo ng trình bày sơ lược về tình hình nghiên<br /> trình lịch sử văn học Việt Nam, tập IV, cứu về Nguyễn Đình Chiểu trong thời gian<br /> xuất bản năm 1962 do Phan Côn và Lê Trí qua ở các bình diện tiểu sử, cuộc đời, quá<br /> Viễn biên soạn. Đề cập đến Nguyễn Đình trình sáng tác, văn bản, quá trình phát triển<br /> Chiểu ở chương III, sau khi giới thiệu về của tư tưởng và nghệ thuật và cho rằng<br /> thân thế sự nghiệp, nội dung thơ văn, người việc nghiên cứu cho đến lúc này (1972) là<br /> viết làm sáng tỏ tư tưởng yêu nước và lòng thiên về tĩnh hơn là động. Các ý kiến trong<br /> yêu dân thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu. bài viết này đã nhìn nhận thực trạng nghiên<br /> Các nhà nghiên cứu cho rằng ông có một cứu Nguyễn Đình Chiểu trong thời gian<br /> cách nhìn mới mẻ về người nông dân, ca qua và đề ra phương hướng cho thời gian<br /> ngợi các lãnh tụ nghĩa quân và triệt để tới, những ưu điểm sẽ được phát huy và<br /> chống bọn tay sai chia cắt đất nước. nhược điểm đã được khắc phục mà kết quả<br /> Nhìn chung về tình hình tiếp nhận có thể thấy rõ trong hội thảo sau đó 10 năm<br /> Nguyễn Đình Chiểu trong giai đoạn này có (1982) tại Bến Tre. Cho đến nay, nhiều<br /> thể nhận thấy, chính nội dung của cuộc phương diện mà Vũ Đức Phúc nêu ra đã<br /> kháng chiến giải phóng dân tộc đã định được khắc phục nhưng trên bình diện<br /> hướng việc tiếp nhận những giá trị nội nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu - nhà giáo<br /> dung của văn chương cụ Đồ, mà tiêu biểu vẫn chưa có chuyển biến gì so với 40 năm<br /> là việc khai thác và đề cao bộ phận thơ và trước. Thực tế đó phản ánh khá rõ nét trong<br /> văn tế, còn được gọi là thơ văn yêu nước các công trình văn học sử giai đoạn này.<br /> chống Pháp. Đó là một thực tế trong quá trình tiếp nhận<br /> Một trong những tiểu luận nổi bật Nguyễn Đình Chiểu cần phải thừa nhận và<br /> trong sách Nguyễn Đình Chiểu tấm gương xem xét.<br /> yêu nước và lao động nghệ thuật là Truyền Các kết quả nghiên cứu mà biểu hiện<br /> thống quật cường của Nam Bộ Việt Nam của nó là qua các công trình văn học sử ở<br /> với tinh thần đấu tranh của Nguyễn Đình miền Bắc giai đoạn này đã tiếp tục hoàn<br /> Chiểu của Ca Văn Thỉnh. Tác giả bài viết chỉnh một chân dung văn học Nguyễn Đình<br /> đã khảo sát Nguyễn Đình Chiểu trong Chiểu. Tư tưởng nhân nghĩa nhân dân và<br /> truyền thống lịch sử, văn hoá, văn học Nam lòng yêu nước thiết tha đau đáu của cụ Đồ<br /> bộ, và quan niệm Nguyễn Đình Chiểu là đã tạo ra sự cảm thông và cộng hưởng giữa<br /> <br /> 38<br /> nội dung nhân văn của tác phẩm và ý chế, nhân vật và cả hoạt động nghiên cứu<br /> hướng chung của thời đại. Và chính bối không chỉ về cụ Đồ.<br /> cảnh thời đại đã tạo nên một mặt bằng văn Di sản của Nguyễn Đình Chiểu được<br /> hoá mới, một tầm đón nhận khác trước, khai thác và tiếp cận theo tinh thần câu thơ<br /> quy định ý nghĩa và tư tưởng các sáng tác của Tố Hữu: Bốn mươi thế kỉ c ng ra trận<br /> của Nguyễn Đình Chiểu - vốn tồn tại dưới và phương hướng này cũng như phương<br /> dạng tiềm năng - trở thành những giá trị pháp tiếp cận theo quan điểm mácxít mà cụ<br /> trong mối quan hệ với thực tiễn đời sống, thể là phương pháp xã hội học mác xít<br /> tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho dân tộc ngày càng chặt chẽ và nhuần nhuyễn, thuần<br /> vượt qua những chặng đường mới. Nói thục hơn.<br /> cách khác, quá trình tiếp nhận giai đoạn 2.2. Nguyễn Đình Chiểu qua các công trình<br /> này diễn ra theo một quan hệ hai chiều văn học sử tại miền Nam từ sau năm 1954<br /> thông điệp của tác phẩm tìm gặp thời đại đến ngày thống nhất đất nước<br /> của nó và chính thời đại ấy cũng làm sống Hà Như Chi trong Việt Nam thi văn<br /> lại những giá trị của quá khứ để tăng thêm giảng luận (1960) khi khảo sát văn học<br /> sức mạnh cho cuộc kháng chiến chống Mỹ triều Nguyễn thế kỉ 19 - thuộc dòng văn<br /> cứu nước và chiến tranh giải phóng dân tộc chương vừa bác học vừa bình dân đã đề<br /> thống nhất đất nước. Sau ngày hoà bình lập cập đến Nguyễn Đình Chiểu trên các bình<br /> lại, trên miền Bắc, hai câu thơ Bao giờ diện nhà chí sĩ với các bài thơ điếu và văn<br /> thánh đế ân soi xét/ ột trận mưa nhuần tế, bên cạnh đó là nhà văn dạy đời và bênh<br /> rửa núi sông sẽ được đọc hiểu theo một ý vực cho luân lí cổ truyền với Lục Vân Tiên.<br /> vị khác trước và sau 1975 thì ý vị này càng Hà Như Chi quan niệm: “Nguyễn Đình<br /> được đẩy đi xa hơn nữa theo chiều hướng Chiểu viết Lục Vân Tiên vừa làm cái công<br /> viên mãn. việc giáo hoá truyền bá tư tưởng nho học<br /> Một đặc điểm chung của quá trình tiếp đang bị lu mờ dưới ảnh hưởng của thời thế,<br /> nhận Nguyễn Đình Chiểu trong giai đoạn lại vừa gởi vào tác phẩm một tâm sự”<br /> 1954-1975 tại miền Bắc xã hội chủ nghĩa [3,tr.676]. Tâm sự đó là xã hội Lục Vân<br /> có thể dễ dàng nhận thấy là phương hướng Tiên cũng là xã hội Nguyễn Đình Chiểu;<br /> nghiên cứu khá thống nhất: phục vụ sự nhân vật Lục Vân Tiên mang tâm sự<br /> nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước Nguyễn Đình Chiểu. Ngoài nhân vật chính<br /> trước mắt. Do vậy, có thể thấy trong các còn có nhân vật phụ mang tâm sự của cụ<br /> bình diện của Nguyễn Đình Chiểu thì bình Đồ, đó là Vương Tử Trực, Hớn Minh và<br /> diện nhà thơ chiến sĩ, nhà yêu nước được ông quán.<br /> khẳng định với số lượng bài nghiên cứu áp Đáng chú ý nhất ở giai đoạn này là hai<br /> đảo so với bình diện nhà thơ nghệ sĩ ngôn công trình văn học sử của Phạm Thế Ngũ<br /> từ hay nhà giáo, lương y. và Thanh Lãng.<br /> Một đặc điểm khác thường thấy xuất Việt Nam văn học sử giản ước tân biên<br /> hiện - có thể gọi là tập quán khoa học, của Phạm Thế Ngũ gồm 3 tập được xuất<br /> trong các bài viết – công trình xuất bản ở bản trong những năm từ 1961-1965. Tuy<br /> miền Bắc giai đoạn 1954-1975 (kể cả các sử dụng cột mốc 1862 để phân chia văn<br /> nghiên cứu của học giả nước ngoài công bố học lịch triều và văn học hiện đại nhưng<br /> trong nước tại thời điểm này) là cuối bài cách phân kì văn học của Phạm Thế Ngũ là<br /> thường có liên hệ thực tiễn và phê phán với lịch triều (triều đại) như: thời kì sơ khởi<br /> cảm hứng không khoan nhượng đối với chế Trần Lê, thời kì phát triển Mạc Tây Sơn,<br /> độ Việt Nam cộng hoà trên các mặt thể thời kì thịnh đạt triều Nguyễn; và ngôn<br /> ngữ, thể loại như tiếng Việt, văn Nôm. Có<br /> <br /> 39<br /> thể thấy rõ là cách phân kì này là kết hợp thời đại: cổ điển và mới. Và từ cách phân<br /> dựa vào tiêu chí triều đại và ngôn ngữ, thể chia này, Thanh Lãng đã khảo sát tác giả<br /> loại nhưng thiên về vế sau hơn. Phạm Thế Nguyễn Đình Chiểu ở hai thế hệ 1820 và<br /> Ngũ khảo sát Nguyễn Đình Chiểu ở thời 1862; Nguyễn Đình Chiểu ở thế hệ 1820<br /> Nguyễn, mục các nhà văn Nôm. Theo được nhìn nhận qua các tác phẩm như Lục<br /> Phạm Thế Ngũ, văn nghiệp của Nguyễn Vân Tiên, Ngư Tiều vấn đáp, còn Nguyễn<br /> Đình Chiểu có thể chia làm hai phần: trước Đình Chiểu ở thế hệ 1862 là các bài thơ và<br /> và sau cơn quốc biến. Trước quốc biến văn tế, Thanh Lãng định danh Nguyễn<br /> gồm có Lục Vân Tiên và Dương Từ - Hà Đình Chiểu thuộc văn chương thời thế, nhà<br /> ậu, sau quốc biến có thơ và văn tế. Ở văn đối kháng và còn là nhà đối kháng toàn<br /> công trình này, Phạm Thế Ngũ chỉ khảo sát diện. Khi khảo sát di sản văn chương<br /> phần trước quốc biến và cũng chỉ khảo sát Nguyễn Đình Chiểu, trong nhà nghiên cứu<br /> mỗi truyện thơ Lục Vân Tiên và các nhận Thanh Lãng còn có một giáo dân, hơn nữa<br /> xét về truyện thơ này cũng không có gì còn là một linh mục nên ông ít nhắc đến<br /> khác với người đi trước cũng như người tác phẩm Dương Từ - Hà ậu và ông viết:<br /> cùng thời, vẫn là phương pháp thực chứng, “… ng tàn ác với phe địch, lắm khi bất<br /> tiểu sử tác giả. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu công nữa. Đây là thái độ của Nguyễn Đình<br /> này không đánh giá cao phần sáng tác sau Chiểu đối với công giáo: Dân mà mê đạo<br /> 1858, tuy có đề cập bộ phận thơ và văn tế Tây rồi/ Nước người muốn lấy mấy hồi<br /> nhưng hết sức sơ lược vì “…phần thơ văn phòng lo… Có lẽ trong số các nhà văn<br /> này không quan trọng là bao… Nguyễn kháng chiến, không ai có cái giọng cứng<br /> Đình Chiểu có sống trong văn học sử sau rắn, hậm hực, tàn ác đối với thực dân cho<br /> này cũng chỉ là với tư cách cha đẻ Lục Vân bằng Nguyễn Đình Chiểu” [19,tr.66]. Kết<br /> Tiên” [18,tr.602]. Chúng tôi cho rằng nhận luận về tác giả này, ông viết như sau:<br /> định trên đây là không thoả đáng và khách “Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn đối kháng<br /> quan. Các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu điển hình nhất của thời kì đối kháng toàn<br /> sau năm 1858 là những giá trị đỉnh cao của diện này. Đó là kết tinh của một lối sống,<br /> dòng thơ văn yêu nước cuối thế kỉ 19 và lối tư tưởng, lối hành động một chiều”<br /> điều này đã được sự đồng thuận của giới [19,tr.72]. Đóng góp của Thanh Lãng trong<br /> nghiên cứu lâu nay. phương pháp biên soạn văn học sử Việt<br /> Trong đời sống nghiên cứu phê bình Nam là ở công trình này.<br /> văn học tại các đô thị miền Nam trước năm Nhìn chung, dưới cái nhìn của Phạm<br /> 1975 thì Thanh Lãng với Khởi thảo văn Thế Ngũ và Thanh Lãng thì Nguyễn Đình<br /> học sử Việt Nam - Văn chương chữ Nôm Chiểu đã có một vị trí ổn định trong văn<br /> (1953), Biểu nhất lãm văn học cận đại học sử Việt Nam thế kỉ XIX, dù cả hai nhà<br /> 1862-1945, tập I (1958), Bảng lược đồ văn nghiên cứu này đều chịu ảnh hưởng các<br /> học Việt Nam (thượng - hạ 1967) là những phương pháp nghiên cứu khoa học phương<br /> công trình văn học sử có tiếng vang và có Tây – chủ yếu là các nhà văn học sử Pháp.<br /> giá trị trong sự nghiệp của nhà nghiên cứu Ở Thanh Lãng có dấu hiệu cho thấy ông đi<br /> này. Trong Bảng lược đồ văn học Việt xa hơn so với Phạm Thế Ngũ khi trong<br /> Nam, Thanh Lãng đã phân kì văn học theo Bảng lược đồ văn học Việt Nam đã thấy sự<br /> thế hệ. Văn học Việt Nam theo quan niệm ảnh hưởng của các trường phái lí thuyết<br /> của ông gồm hai thời kì lớn: thời đại cổ mới như chủ nghĩa cấu trúc, lí thuyết tiếp<br /> điển, từ thế kỉ 13 đến giữa thế kỉ 19 và thời nhận, văn học so sánh (như Lê Quang Tư<br /> đại mới từ 1862 đến 1945. Theo quan niệm đã từng chỉ ra). Hai công trình này là khá<br /> này thì Nguyễn Đình Chiểu có mặt cả ở hai tiêu biểu và nổi bật nhất trong các công<br /> <br /> 40<br /> trình văn học sử xuất bản ở miền Nam giai bất cộng tác. Các tác phẩm của Nguyễn<br /> đoạn này có đề cập đến Nguyễn Đình Đình Chiểu được tác giả sách này quan<br /> Chiểu như một đối tượng nghiên cứu. Vì niệm là tiếng nói của đạo lí. Lê Văn Siêu<br /> đây là các công trình cá nhân nên không có chỉ khảo sát các truyện thơ và đánh giá cao<br /> được quy mô và bề thế như các công trình Ngư Tiều y thuật vấn đáp chủ yếu trên<br /> văn học sử được biên soạn ở miền Bắc phương diện trí nhớ của cụ Đồ. Nhìn<br /> trong cùng thời điểm nhưng bù lại, các chung, công trình này trình bày đại khái và<br /> công trình văn học sử ở miền Nam có sự đa sơ lược về nội dung các tác phẩm, về<br /> dạng về quan điểm đánh giá cũng như phương pháp tiếp cận vẫn là lối biên niên<br /> phong phú về phương pháp tiếp cận. Dù tập hợp các sự kiện văn học không đem lại<br /> rằng trong việc nhận xét, đánh giá di sản gì mới trong việc nghiên cứu về Nguyễn<br /> văn chương cụ Đồ vẫn còn thiên lệch và Đình Chiểu.<br /> phiến diện nhưng so với miền Bắc thì vẫn Đặc điểm xuyên suốt của quá trình tiếp<br /> có khác và mới do bị quy định bởi một tầm nhận Nguyễn Đình Chiểu ở cả hai miền<br /> đón nhận khác biệt. Cái mới và khác này là Nam - Bắc trong giai đoạn này là nếu miền<br /> do thể chế chính trị của mỗi miền có sự Nam là quê hương cụ Đồ nhưng việc sưu<br /> khác nhau cũng như do quan điểm và tầm, đánh giá có trách nhiệm và công phu<br /> nguồn gốc đào tạo và tự đào tạo của những về con người và tác phẩm Nguyễn Đình<br /> người viết văn học sử giai đoạn này. Điều Chiểu lại thuộc giới nghiên cứu miền Bắc<br /> này có thể nhận ra một cách rõ rệt không thuộc chính thể Việt Nam dân chủ cộng<br /> chỉ ở việc bỏ qua không nghiên cứu các hoà. Bên cạnh đó, con người và tác phẩm<br /> sáng tác có nội dung yêu nước chống Pháp của Nguyễn Đình Chiểu thường được miền<br /> của Nguyễn Đình Chiểu, những sáng tác Bắc đánh giá cao tinh thần yêu nước và<br /> mà các nhà nghiên cứu ở miền Bắc đặc biệt nhập cuộc, nói khác đi là nhìn nhận thiên<br /> quan tâm, mà còn qua sự đánh giá trên tinh về con người chức năng. Trong khi đó,<br /> thần phê phán của họ đối với các sáng tác miền Nam tuy cũng nói đến các nội dung<br /> này. Ở miền Nam thời bấy giờ các nhà trên nhưng lại khai thác một Nguyễn Đình<br /> nghiên cứu văn học được tự do tiếp thu và Chiểu ẩn dật và yếm thế và thường dựa vào<br /> vận dụng các phương pháp lí luận và các tác phẩm cuối đời. Phê bình Nguyễn<br /> nghiên cứu văn học hiện đại ở phương Tây, Đình Chiểu bị chia làm nhiều khuynh<br /> nhưng rõ ràng họ hoặc là không chấp nhận hướng, bên cạnh những cách giải thích<br /> hoặc là e ngại đề cập nhiều đến những gì thiên lệch, phiến diện cũng tồn tại những<br /> có liên quan đến kháng chiến, đến chống cách giải thích phù hợp.<br /> thực dân trong tình hình chính trị ở các đô 3. NGUYỄN ĐÌNH CHI U TỪ ĐI M NHÌN<br /> thị miền Nam lúc bấy giờ. Ở đây chúng ta VĂN HỌC SỬ TỪ 1975 ĐẾN NAY<br /> thấy được sự khác biệt về kết qua tiếp nhận Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX<br /> thơ văn Nguyễn Đình Chiểu ở hai miền của nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc in lần đầu<br /> Nam, Bắc vào thời kì 1954-1975 và trong năm 1971, tái bản năm 1976, 1992, và đến<br /> tầm đón đợi của họ có một yếu tố chi phối năm 1999 gộp lại thành Văn học Việt Nam<br /> rất mạnh mà chúng tôi đã nói đến ở trên. nửa cuối thế kỉ XVIII - hết thế kỉ XIX) vẫn<br /> Văn học sử thời kháng Pháp (1858- chia sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình<br /> 1945) (1974) của Lê Văn Siêu có lẽ là một Chiểu làm hai giai đoạn: trước và sau ngày<br /> trong những công trình cuối cùng của miền Pháp đánh Nam bộ và tương ứng với nó là<br /> Nam trước khi giang sơn thu về một mối. Lục Vân Tiên và thơ văn yêu nước. Với tác<br /> Nguyễn Đình Chiểu thuộc về thời kì đầu phẩm Lục Vân Tiên, tác giả cho rằng nó đề<br /> của sách: Thời kì xâm lăng thuộc xu hướng cao nhân nghĩa và truyện này viết ra là để<br /> <br /> 41<br /> kể hơn là ngâm. Đồng thời, truyện kế thừa sắc của Nguyễn Đình Chiểu trong lịch sử<br /> truyền thống nói vè của dân gian, ảnh văn học dân tộc. Bài viết tiếp tục khẳng<br /> hưởng mạnh của truyện Nôm bình dân hơn định lại những gì đã viết trước đây trong<br /> là truyện Nôm bác học. “Trong thơ văn yêu Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX như<br /> nước của Nguyễn Đình Chiểu, lần đầu tiên toàn bộ sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu<br /> người nông dân đi vào văn học một cách cụ đều bằng chữ Nôm, Nguyễn Đình Chiểu<br /> thể với tư cách người anh hùng chống xâm không chỉ là tác giả tiêu biểu cho văn học<br /> lược” [13,tr.653]. Nguyễn Lộc cũng cho Nam Bộ mà còn tiêu biểu cho một giai<br /> rằng thơ văn yêu nước đã trải qua một đoạn phát triển của lịch sử văn học dân tộc;<br /> chặng đường phát triển từ tin tưởng hi người nông dân trong thơ văn yêu nước<br /> vọng sang bi quan thất vọng. Tư tưởng bi chống Pháp được thể hiện như những anh<br /> quan, thiếu tin tưởng của ông không những hùng dân tộc; Lục Vân Tiên là để kể chứ<br /> thể hiện trong hình tượng, mà cả trong không phải để ngâm như Kiều, ở Nam bộ<br /> nhận thức duy lí [13,tr.658-660]. Nhận gọi là nói Lục Vân Tiên. Nguyễn Đình<br /> định tổng quát của công trình này là Chiểu là người đề cao đạo Nho nhưng lại là<br /> Nguyễn Đình Chiểu là “người mở đầu cho ngọn cờ đầu chống Pháp vì ông nhấn mạnh<br /> văn học nửa cuối thế kỉ XIX, là nhà thơ nhân nghĩa và sáng tác nó có nội dung đạo<br /> tiêu biểu nhất cho dòng văn học yêu nước đức nhân dân rõ nét. Cái mới của bài viết là<br /> chống Pháp” [13,tr.634]. Trong một chừng ở luận điểm ảnh hưởng của nhà văn với<br /> mực nhất định, công trình này đã trình bày thời đại và các thế hệ tiếp theo là không chỉ<br /> về quá trình tiếp nhận Nguyễn Đình Chiểu, ở tác phẩm mà còn là cuộc đời, nhân cách<br /> dù là bước đầu và cũng chỉ là tiếp nhận và Nguyễn Đình Chiểu chính là người<br /> trên bình diện nghiên cứu nhưng đây là trong số ít đó.<br /> điểm mới so với các công trình văn học sử Ngoài ra, chúng tôi đặc biệt lưu ý đến<br /> khác không chỉ trong giai đoạn này. Phần công trình Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao<br /> viết về Nguyễn Đình Chiểu được xem như càng nhìn càng sáng (1982, tái bản 2002).<br /> là sự tổng kết thành tựu của quá trình Có thể xem đây là sự tổng kết thành quả<br /> nghiên cứu trước đó và mở ra một hướng nghiên cứu về Nguyễn Đình Chiểu của nhà<br /> đi mới. Một điều cần nói về công trình này nghiên cứu Lê Trí Viễn. Trước đó, năm<br /> là giáo trình dành cho sinh viên khoa Ngữ 1962, cùng với Phan Côn, ông đã chấp bút<br /> văn các trường Tổng hợp nên cách trình chương về Nguyễn Đình Chiểu trong Lịch<br /> bày cũng có khác với sách của Sư phạm. sử văn học Việt Nam, Tập 4a, 1858 - đầu<br /> Mục đích là đào tạo cán bộ nghiên cứu nên thế kỉ XX, khảo sát qua thân thế và sự<br /> giáo trình này đề cập đến những vấn đề còn nghiệp, nội dung và tư tưởng thơ văn<br /> tranh cãi như thời điểm sáng tác các tác Nguyễn Đình Chiểu, nêu bật lên tư tưởng<br /> phẩm cụ thể, nguồn gốc truyện Tây Minh, nhân nghĩa và lòng yêu dân thiết tha. Các<br /> sự vận động của tư tưởng Nguyễn Đình tác giả này chứng minh Nguyễn Đình<br /> Chiểu từ Lục Vân Tiên đến Ngư Tiều y Chiểu đã có một cái nhìn mới mẻ về người<br /> thuật vấn đáp cũng như trình bày cả một nông dân, hết sức ca ngợi các lãnh tụ nghĩa<br /> bình diện của lịch sử tiếp nhận Nguyễn quân và triệt để chống bọn tay sai chia cắt<br /> Đình Chiểu. Trong khi đó, giáo trình của đất nước. Sau khi chỉ ra những đóng góp<br /> sư phạm chỉ trình bày những gì đã thống của cụ Đồ, các tác giả kết luận về vị trí của<br /> nhất và đồng thuận về di sản của cụ Đồ. Nguyễn Đình Chiểu trong văn học: “…<br /> Sau này, tại hội thảo về Nguyễn Đình chiếm vị trí hàng đầu trong văn học dân tộc<br /> Chiểu năm 1982, Nguyễn Lộc đã trở lại ở giai đoạn lịch sử này” [6,tr.218]. Theo<br /> vấn đề trên với bài Những cống hiến đặc chúng tôi, cái mới nhất của công trình này<br /> <br /> 42<br /> là ở đoạn sau: “Phương pháp nghiên cứu Cùng một hướng tiếp cận nhưng Lê<br /> lâu nay mới quan tâm đến khâu cuộc sống - Ngọc Trà chỉ ra sự đóng góp của Nguyễn<br /> tác giả - tác phẩm, còn khâu tác phẩm cuộc Đình Chiểu trong sự vận động của văn<br /> sống chỉ mới đề cập qua. Trong vòng đời chương Việt Nam cận đại; lập trường của<br /> một áng văn, đó là một giai đoạn có lẽ Nguyễn Đình Chiểu từ thiên về đạo đức<br /> quan trọng bậc nhất, lí do tồn tại của nó là chuyển hẳn sang chính trị yêu nước, gắn<br /> ở đấy, nó đóng góp được gì cho cuộc sống yêu nước với thương dân, từ quan niệm về<br /> là ở đấy” [6,tr.211]. Đây là một quan điểm dân chung chung đến quan niệm cụ thể là<br /> khá mới trong góc nhìn văn học sử về nhân dân lao động, từ người anh hùng quân<br /> Nguyễn Đình Chiểu. ng yêu cầu, đề xuất tử đến người anh hùng nông dân, từ phi<br /> nhìn nhận sáng tác của nhà thơ này trong thường chuyển sang bình thường: “Ý thức<br /> số phận lịch sử của nó. Nó mới so với nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu đã phát<br /> những người cùng thời đã đành mà còn là triển một bước quan trọng” (Lê Ngọc<br /> một nỗ lực với chính những gì đã viết về Trà,1982, trang 368). Đề cập đến tính cụ<br /> Nguyễn Đình Chiểu trước đó trong Lịch sử thể của ngôn ngữ nghệ thuật trong các tác<br /> văn học Việt Nam, Tập 4a, in lần đầu năm phẩm Nguyễn Đình Chiểu, bài viết cho<br /> 1962, sau năm 1975 vẫn được tái bản và sử rằng đây là sự gặp gỡ của hai xu hướng<br /> dụng trong các trường Sư phạm. Bên cạnh dòng văn hoá dân gian đang vươn lên tiếp<br /> một giọng văn mượt mà đầy cảm xúc và cận với văn chương chuyên nghiệp và dòng<br /> cảm thụ khá tinh tế về văn chương Nguyễn văn chương chuyên nghiệp đang trở về gắn<br /> Đình Chiểu thì ở điểm vừa trình bày còn bó với dân gian, với đời sống; Nguyễn<br /> cho thấy nhà nghiên cứu ông - qua công Đình Chiểu là một kiểu nhà thơ - chiến sĩ<br /> trình này khá nhạy bén với lối tiếp cận tác và sáng tác của ông mang tính chất của một<br /> phẩm từ phía người đọc, hay nói cách khác hiện tượng chuyển tiếp.<br /> là phải có cả lịch sử những cách đọc và số Như vậy có thể nhận thấy là từ sau<br /> phận tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu qua ngày thống nhất đất nước, với sự sụp đổ<br /> những cách đọc đó. của thể chế Việt Nam cộng hòa thì hệ<br /> Nhìn Nguyễn Đình Chiểu theo hướng thống học thuật ở đây cũng cùng chung số<br /> văn học sử còn có thể kể đến ý kiến của phận. Việc các bộ giáo trình lịch sử văn<br /> Trịnh Thu Tiết trong việc khẳng định Vị trí học Việt Nam của miền Bắc trước đây<br /> Nguyễn Đình Chiểu trong văn học cận đại được tái bản, bổ sung và phổ biến trên<br /> Nam Bộ, qua các bình diện được khảo sát phạm vi cả nước đã cho thấy sự thống nhất<br /> là ngôn ngữ, tính hiện thực, nhân vật và về phương pháp xã hội học mácxít trong<br /> tính cách nhân vật và sự ảnh hưởng của nó, quá trình nghiên cứu lịch sử văn học. Các<br /> nhất là hình tượng người nông dân trong công trình này đã góp phần tạo nên và quy<br /> Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc: “… định một tầm đón nhận mới cho công<br /> là một bước phát triển đột xuất, một thành chúng vào thời điểm những năm 1975-<br /> tựu vượt bậc, không chỉ riêng thơ văn 1986. Một đặc điểm khác cũng góp phần<br /> Nguyễn Đình Chiểu, của riêng văn học quy định tầm đón nhận này là các nhà văn<br /> Nam bộ mà của cả văn học dân tộc nói học sử ở Việt Nam phần lớn là nhà giáo<br /> chung” (Trịnh Thu Tiết, 1982, trang 219). nên các công trình do họ biên soạn bị quy<br /> Các ý kiến này đã được tái khẳng định định bởi mục đích và đối tượng giảng dạy -<br /> trong mục từ Nguyễn Đình Chiểu trong Từ mà tiêu biểu và đầu tiên là Dương Quảng<br /> điển tác giả tác phẩm văn học Việt Nam Hàm với Việt Nam văn học sử yếu. Nhưng<br /> d ng cho nhà trường 2004. cũng chính ở điểm này, sức lan tỏa của các<br /> luận điểm và ý tưởng khoa học lại có cơ<br /> <br /> 43<br /> hội phổ biến hơn so với các bộ văn học sử Chiểu trong cái nhìn so sánh và hệ thống<br /> thiên về hàn lâm phục vụ một số ít các nhà của văn học chống chủ nghĩa thực dân,<br /> nghiên cứu. chống chủ nghĩa đế quốc thì ông sẽ được<br /> Bài viết Những đặc điểm mang tính ghi nhận như một tên tuổi có nhiều cống<br /> quy luật của sự phát triển văn học nhìn hiến. Tiểu luận cũng thẳng thắn chỉ ra về lí<br /> nhận qua sáng tác của một tác giả của nhà tưởng thẩm mỹ qua thái độ của Nguyễn<br /> nghiên cứu Trần Ngọc Vương sau khi Đình Chiểu với văn chương là không có gì<br /> trình bày khái quát về những hạn chế của mới lạ so với những nhà nho cùng thời và<br /> quá trình nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu trước ông. Trần Ngọc Vương cũng cho<br /> thời gian qua, cho rằng đã đến lúc phải đặt rằng Dương Từ - Hà ậu là tác phẩm xếp<br /> ông trong tiến trình phát triển văn học dân vào hàng yếu kém, ít có giá trị về mọi mặt<br /> tộc, xác định mối quan hệ giữa cuộc đời và (trang 288). Bài viết này được viết ra nhân<br /> tác phẩm với những gì xảy ra trước và sau dịp 100 năm ngày mất cụ Đồ (1988) nhưng<br /> đó, phải sử dụng những tiêu chí đặc trưng đến năm 1992 mới công bố rút gọn trên<br /> của văn học để phân tích lí giải, xét đoán Tạp chí Văn học và in toàn văn trong Văn<br /> về ông với tư cách tác giả văn học, chứ học Việt Nam d ng riêng giữa nguồn<br /> không phải như một chiến sĩ ái quốc lấy chung (1997). Cũng như Trần Đình Hượu,<br /> ngòi bút làm vũ khí, lấy văn học làm trận bài viết của Trần Ngọc Vương đã thể hiện<br /> địa (Trần Ngọc Vương, 1999, trang 285). tầm mức chiến lược trong tư tưởng, trong<br /> Tác giả nêu lên những đóng góp quan trọng cách nhìn và đặt vấn đề như Trần Nho Thìn<br /> của Nguyễn Đình Chiểu về hệ thống chủ (2001) đã có lần nhận xét.<br /> đề đề tài, hình tượng văn học cơ bản, thể Gần đây, Nguyễn.Q.Thắng trở lại với<br /> loại trong quá trình phát triển văn học Nam Nguyễn Đình Chiểu qua bộ Văn học Việt<br /> Bộ và văn học dân tộc. Theo Trần Ngọc Nam nơi miền đất mới (4 tập, 2007-2008).<br /> Vương thì chủ đề quán xuyến toàn bộ sáng Nhà nghiên cứu xếp các tác giả theo tiêu<br /> tác Nguyễn Đình Chiểu là chủ đề bảo vệ và chí biên niên, không theo chủ đề hoặc<br /> thực hành Nho giáo. Nguyễn Đình Chiểu khuynh hướng sáng tác. Sách mở đầu với<br /> chú ý đến những con người bình thường và tác giả Dương Văn An ở Tập 1 và kết thúc<br /> đó là bước đột biến trong sự phát triển của với Từ Kế Tường Tập 4. Bộ sách xếp<br /> văn học dân tộc: “ ng trở thành người mở Nguyễn Đình Chiểu vào Tập 1, chương IV.<br /> đầu cho trào lưu văn học chống ngoại Các danh gia thời tao loạn, với tiêu đề<br /> xâm, giành độc lập dân tộc, nhân danh toàn Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ thất minh Nam<br /> bộ dân tộc chứ không nhân danh một bộ kì. Công trình đề cập về Nguyễn Đình<br /> phận, một thiểu số nào” [20.tr.292]. Hình Chiểu hết sức sơ lược, giới thiệu về con<br /> tượng văn học cơ bản của Nguyễn Đình người và cuộc đời qua một tiểu truyện và<br /> Chiểu là mẫu người trung nghĩa kết hợp trích dẫn bài thơ Chạy giặc (Tây) và 2 bài<br /> với mẫu người anh hung. Với việc sáng tác Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc, Tế<br /> ra hình tượng người anh hùng vô danh đại lục tỉnh sĩ dân trận vong văn. Công trình<br /> diện cho dân tộc, ông lại là người mở đầu này là sự mở rộng và bổ sung Tiến trình<br /> và đứng ở vị trí tiên phong của trào lưu văn văn nghệ miền Nam (1990-1998) của chính<br /> học chống ngoại xâm. Hệ thống thể loại mà tác giả trước đó. Theo những tiêu chí<br /> Nguyễn Đình Chiểu có đóng góp là truyện nghiêm ngặt thì công trình này chưa thể gọi<br /> Nôm và văn tế. Đây là bài viết có nhiều là một bộ văn học sử mà chỉ là một số tư<br /> luận điểm và ý tưởng mới, sử dụng triệt để liệu về văn học sử miền Nam mà thôi.<br /> và nhất quán phương pháp loại hình và hệ Cùng một hướng này còn có Lược khảo<br /> thống như khi giả thuyết đặt Nguyễn Đình<br /> <br /> 44<br /> lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy đến nhiệt hứng ùn ục trong lòng, phải nói rằng<br /> cuối thế kỉ 20 (2005) của Bùi Đức Tịnh. nó nằm trong những bài văn tế và trong<br /> Một số công trình văn học sử về văn những bài thơ luật sái lụy anh h ng của<br /> học Việt Nam cuối thế kỉ XIX hay toàn bộ ông” [16,tr.95-96]. Nhà nghiên cứu này<br /> tiến trình văn học Việt Nam xuất bản trong khẳng định bộ phận thơ văn yêu nước mà<br /> giai đoạn này của các tác giả Nguyễn ông gọi là văn chương đối kháng “đã biểu<br /> Phong Nam (1998), Nguyễn Phạm Hùng lộ một tài năng xuất sắc với hết cả hai mặt<br /> (1999) đều đánh giá về văn nghiệp và cuộc là bố cục lẫn tu từ” [16,tr.97]. Về sắc thái<br /> đời Nguyễn Đình Chiểu tương đối thống địa phương trong văn chương cũng như sự<br /> nhất và đồng thuận. Những chủ thể này đã yêu thích của độc giả mọi tầng lớp nhân<br /> bộc lộ thiên hướng và tài năng cá nhân với dân dành cho cụ Đồ, nhà nghiên cứu nhận<br /> những sắc thái khác biệt. Nếu Nguyễn xét như sau: “Tác giả là người Nam kì, tất<br /> Phong
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2