intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sinh lý bệnh học: Phần 1

Chia sẻ: Hoa La Hoa | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:88

167
lượt xem
33
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu Sinh lý bệnh của tác giả BS. Nguyễn Đình Tuấn có kết cấu gồm 13 chương và được chia làm 2 phần. Phần 1 sau đây trình bày nội dung 8 chương đầu Tài liệu. Phần này gồm các chương như: Giới thiệu môn sinh lý bệnh, khái niệm về bệnh nguyên, khái niệm về bệnh sinh,... Mời bạn đọc tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sinh lý bệnh học: Phần 1

  1. TRUONG CAO DANG Y TE QUANG NAM – KHOA NOI SINH LÝ BỆNH [Đại học Y Dƣợc Huế] [2008] BS NGUYEN DINH TUAN (ST)
  2. MỤC LỤC GIỚI THIỆU MÔN SINH LÝ BỆNH ......................................................................3 KHÁI NIỆM VỀ BỆNH .........................................................................................11 KHÁI NIỆM VỀ BỆNH NGUYÊN .......................................................................19 KHÁI NIỆM VỀ BỆNH SINH ...............................................................................26 RỐI LOẠN CÂN BẰNG GLUCOSE MÁU ..........................................................33 RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA LIPID .......................................................................46 RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA PROTID ...................................................................62 RỐI LOẠN CÂN BẰNG NƢỚC – ĐIỆN GIẢI ....................................................71 RỐI LOẠN CÂN BẰNG ACID - BASE ...............................................................89 RỐI LOẠN ĐIỀU HÕA THÂN NHIỆT ..............................................................108 VIÊM.....................................................................................................................118 RỐI LOẠN PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC .................................................................134 SINH LÝ BỆNH QUÁ TRÌNH LÃO HÓA .........................................................147 Bs Nguyễn Đình Tuấn (st) Page 2
  3. Chƣơng 1 GIỚI THIỆU MÔN SINH LÝ BỆNH I. Đại cương 1. Định nghĩa Sinh lý bệnh lý học hay gọi tắt là sinh lý bệnh học là môn học nghiên cứu về cơ chế phát sinh, phát triển và kết thúc của bệnh; tức là nghiên cứu những thay đổi của cơ thể bị bệnh trong quá trình bệnh lý điển hình và cuối cùng để tìm hiểu những quy luật hoạt động của bệnh nói chung. Theo Purkinje: “Sinh lý bệnh là sinh lý của cơ thể bị bệnh“ Sinh lý bệnh nghiên cứu những trƣờng hợp bệnh lý cụ thể, phát hiện và mô tả những thay đổi về sự hoạt động chức năng của cơ thể, cơ quan, mô và tế bào khi chúng bị bệnh; từ đó rút ra những quy luật chi phối chúng, khác với những quy luật hoạt động lúc bình thƣờng: đó là sinh lý bệnh học cơ quan, bộ phận. Ví dụ Sinh lý bệnh tuần hoàn (Sinh lý bệnh cơ quan). Tuy nhiên, có những rối loạn có thể xảy ra ở nhiều cơ quan chức năng rất khác nhau nhƣ viêm gan, viêm cơ, viêm khớp...và mỗi bệnh lại diễn tiến theo những quy luật riêng của nó: viêm gan không giống nhƣ viêm khớp. Tuy nhiên mỗi bệnh này lại cùng tuân theo một quy luật chung hơn, đó là quy luật bệnh lý viêm nói chung và quy luật này lại đƣợc trình bày trong bài viêm (Sinh lý bệnh đại cương). Từ việc nghiên cứu quy luật hoạt động của từng bệnh, từng cơ quan, đến quy luật hoạt động của các quá trình bệnh lý điển hình chung: Sinh lý bệnh học tìm cách khái quát hóa để tìm hiểu quy luật hoạt động của bệnh cũng nhƣ quy luật hoạt động của nguyên nhân gây bệnh, quy luật phát sinh phát triển của bệnh, của quá trình lành bệnh cũng nhƣ quá trình tử vong. Tất cả xuất phát từ hiện tƣợng đi tìm bản chất của vấn đề là tìm hiểu đƣợc bệnh là gì ? bệnh do đâu mà có ? bệnh tiến triển nhƣ thế nào? quá trình lành bệnh và tử vong xảy ra nhƣ thế nào? 2. Nội dung môn học Nội dung giảng dạy sinh lý bệnh gồm có hai phần: - Sinh lý bệnh đại cƣơng: gồm các khái niệm và quy luật chung nhất về bệnh; sinh lý bệnh các quá trình bệnh lý chung. Bs Nguyễn Đình Tuấn (st) Page 3
  4. - Sinh lý bệnh cơ quan: nghiên cứu sự thay đổi của các chức năng và các cơ quan khi bị bệnh. II. Vị trí, tính chất và vai trò của môn học 1. Vị trí 1.1. Môn học tiền lâm sàng Sinh lý bệnh và môn Giải phẩu bệnh là hai môn học tiền thân của môn bệnh lý học hay nói một cách khác: trong quá trình phát triển từ nghiên cứu về thay đổi hình thái sang nghiên cứu về thay đổi chức năng của bệnh lý học, do vậy Sinh lý bệnh đƣợc xếp vào nhóm các môn học tiền lâm sàng, sinh viên đƣợc học trƣớc khi chính thức học các môn lâm sàng và dự phòng bệnh 1.2. Nền tảng của môn Sinh lý bệnh Sinh lý học và Hoá sinh học là hai môn học cơ sở liên quan trực tiếp và quan trọng nhất của Sinh lý bệnh học bên cạnh các môn học liên quan khác nhƣ di truyền học, miễn dịch học, vi sinh.. .. Ngoài ra, Sinh lý bệnh còn phải vận dụng kiến thức của nhiều môn khoa học khác nữa, kể cả các môn khoa học cơ bản 2. Tính chất và vai trò 2.1. Tính chất tổng hợp Để làm sáng tỏ và giải thích các cơ chế bệnh lý, Sinh lý bệnh phải vận dụng những kết quả của nhiều môn học khác nhau. Phƣơng pháp phân tích giúp cho khoa học đi sâu vào bản chất của sự vật một cách chi tiết và chính xác đồng thời hình thành nhiều chuyên khoa sâu chuyên biệt. Tuy nhiên, muốn tìm ra quy luật Bs Nguyễn Đình Tuấn (st) Page 4
  5. hoạt động chung thì phải có phƣơng pháp tổng hợp tốt, nắm đƣợc cái gì là nguyên nhân, cái gì là hậu quả, cái gì là cốt lõi, cái gì là chính, cái gì là phụ để đi đến bản chất của vấn đề. Môn sinh lý bệnh, nhƣ định nghĩa đã nêu rõ; đi từ những hiện tƣợng bệnh lý cụ thể, tìm cách khái quát hóa thành những quy luật hoạt động của cơ thể bị bệnh; tất nhiên đòi hỏi một đầu óc tổng hợp sắc bén. 2.2. Tính chất lý luận Sinh lý bệnh học cho phép giải thích cơ chế của bệnh và các hiện tƣợng bệnh lý nói chung, đồng thời làm sáng tỏ các quy luật chi phối sự hoạt động của cơ thể, cơ quan, tổ chức và tế bào khi bị bệnh. Do đó, trong đào tạo ngoài nhiệm vụ trang bị kiến thức môn học; trong đào tạo nó còn có nhiệm vụ trang bị phƣơng pháp lý luận và cách ứng dụng các lý luận đó khi học các môn lâm sàng và nghiệp cụ khác. Sinh lý bệnh cung cấp cho ngƣời thầy thuốc quan điểm và phƣơng pháp đúng, nghĩa là một quan điểm duy vật biện chứng và một phƣơng pháp luận khoa học trong cách nhìn nhận, phân tích và kết luận về mọi vấn đề trong y học. Mọi ngƣời đều biết hiện tƣợng bệnh lý là một thực tại khách quan, nhƣng nhìn nó theo góc cạnh nào, hiểu nó nhƣ thế nào là một vấn đề chủ quan của con ngƣời. Chính vì vậy mà trong lịch sử y học đã có biết bao học thuyết đối lập, trƣờng phái khác nhau, biết bao cuộc đấu tranh ác liệt giữa quan điểm duy tâm và quan điểm duy vật. Mục tiêu của sinh lý bệnh là xây dựng cho ngƣời thầy thuốc một quan điểm, một phƣơng pháp suy luận trong y học. 2.3. Sinh lý người là một trong những cở sở của y học hiện đại Y học hiện đại kế thừa những tinh hoa của y học cổ truyền để phát triển và thay thế dần y học cổ truyền. Điều kiện để y học hiện đại ra đời là sự áp dụng phƣơng pháp thực nghiệm vào nghiên cứu y học. Nhờ phƣơng pháp thực nghiệm khoa học mà môn Giải phẩu học và Sinh lý học ra đời, tạo nền tảng vững chắc cho y học hiện đại phát triển. Hypocrate là ông tổ của y học cổ truyền cũng là ông tổ của y học hiện đại và của y học nói chung. Giải phẫu học và Sinh lý học là hai môn học quan trọng cung cấp những hiểu biết về cấu trúc và hoạt động của cơ thể con ngƣời bình thƣờng. Trên cơ sở hai môn học trên, y học hiện đại nghiên cứu trên ngƣời bệnh để hình thành môn bệnh học và Sinh lý bệnh là môn học cơ sở. Hiện nay trong công tác đào tạo, Sinh lý Bs Nguyễn Đình Tuấn (st) Page 5
  6. bệnh đƣợc xếp vào môn học tiền lâm sàng, tạo cơ sở về kiến thức và phƣơng pháp để sinh viên học tốt các môn lâm sàng. III. Phương pháp nghiên cứu trong sinh lý bệnh GS. Thomas “ Thực nghiệm trên súc vật và quan sát trên ngƣời bệnh là phƣơng pháp cơ bản của sinh lý bệnh “. Phƣơng pháp thực nghiệm trong Y học đƣợc Claude Bernard phát triển và tổng kết từ gần 200 năm trƣớc đây, đã giúp cho các nhà Y học nói chung và Sinh lý bệnh nói riêng một vũ khí quan trọng trong nghiên cứu. Mục đích của y học thực nghiệm là phát hiện đƣợc những quy luật hoạt động của cơ thể bị bệnh qua các mô hình thực nghiệm trên súc vật. Phƣơng pháp thực nghiệm là phƣơng pháp nghiên cứu xuất phát từ sự quan sát khách quan từ các hiện tƣợng tự nhiên (hiện tƣợng bệnh lý xảy ra), sau đó dùng các kiến thức hiểu biết từ trƣớc tìm cách cắt nghĩa chúng (gọi là đề ra giả thuyết); sau đó dùng một hay nhiều thực nghiệm để chứng minh giả thuyết đúng hay sai (có thể thực nghiệm trên mô hình súc vật). 1. Các bước nghiên cứu thực nghiệm 1.1. Quan sát và đặt giả thuyết Trƣớc một hiện tƣợng bệnh lý, dù là nhà y học cổ truyền hay y học hiện đại, ngƣời ta đều quan sát và nhận xét những hiện tƣợng bệnh lý. Sau khi quan sát (chủ quan hay khách quan), ngƣời ta tìm cách cắt nghĩa và giải thích những điều quan sát đƣợc. Những ngƣời quan sát có thể đồng thời phát hiện giống nhau nhƣng cũng có thể khác nhau; cũng có thể giải thích khác nhau về cùng một hiện tƣợng mà họ Bs Nguyễn Đình Tuấn (st) Page 6
  7. cùng quan sát; tuy nhiên những giải thích trên mang tính chủ quan của con ngƣời, tuỳ thuộc vào quan điểm triết học của ngƣời quan sát mà nội dung giải thích cũng khác nhau (duy tâm, duy vật, biện chứng hay siêu hình), tuỳ thuộc vào từng thời kỳ phát triển của y học mà ý nghĩa cũng thay đổi. Từ quan sát, Hypocrate (500 năm BC) đã cho rằng: dịch mũi trong do não tiết ra; thể hiện tình trạng cơ thể bị lạnh; máu đỏ do tim tiết ra, thể hiện tình trạng nóng; còn máu đen do lách tiết ra, thể hiện tình trạng ẩm; và mật vàng do gan tiết ra, thể hiện tình trạng khô. Mọi bệnh lý xảy ra do sự mất cân bằng của 4 chất dịch trên. Phƣơng pháp thực nghiệm do Claude Bernarde đã yêu cầu nhà khoa học: - Quan sát thật tỉ mỉ, khách quan. Càng nhiều thông tin trung thực thì giả thuyết càng dễ gần chân lý . - Khi giải thích, càng vận dụng những kết quả lý luận đã co,ï càng làm cho việc đặt giả thuyết càng có nhiều cơ hội tiếp cận chân lý. Ngày nay, cần lƣu ý đến những thành tựu của nhiều ngành khoa học khác nhau, và tuỳ theo điều kiện cụ thể mà vận dụng cho thích hợp. Ngƣời bệnh đến với thầy thuốc với những triệu chứng, cần đƣợc phát hiện bằng mọi cách một cách khách quan. Trƣớc tiên ngƣời thầy thuốc phải dùng ngũ quan của mình để quan sát; sau đó kết hợp với những phƣơng tiện kỹ thuật cận lâm sàng để tăng cƣờng phát hiện những hiện tƣợng mà khả năng quan sát con ngƣời không làm đƣợc. Các xét nghiệm cận lâm sàng và thăm dò chức năng cho những kết quả khách quan, chính xác và nhạy hơn những điều mà bản thân thầy thuốc thu nhận đƣợc bằng ngũ quan của mình, song những kỹ thuật ấy cũng do con ngƣời làm ra nên chúng phải đƣợc tuân thủ những quy tắc và điều kiện thực hiện thì mới có đủ sức tin cậy. Khả năng quan sát của ngƣời thầy thuốc chỉ có thể phát triển khi đƣợc tiếp xúc với ngƣời bệnh thƣờng xuyên. Sau khi có đầy đủ các dữ kiện ở ngƣời bệnh, ngƣời thầy thuốc hình thành trong trí óc của mình một mô hình bệnh lý nhất định. Đồng thời so sánh mô hình này với các mô hình khác (có đƣợc qua học tập, kinh nghiệm) để xem nó giống mô hình nào nhất và định hƣớng chẩn đoán phù hợp nhất. Nhƣ vậy chẩn đoán chỉ là một giả thuyết mà ngƣời thầy thuốc đặt ra dựa trên những quan sát khách quan thu đƣợc. 1.2. Chứng minh giả thuyết bằng thực nghiệm Bs Nguyễn Đình Tuấn (st) Page 7
  8. Đây là bƣớc bắt buộc, nhƣng Y học cổ truyền đã không có điều kiện thực hiện mà chỉ dừng lại ở bƣớc 1, tức là quan sát; rồi giải thích sau khi thử áp dụng "Y lý" của mình trong thực tiễn. Các thực nghiệm khoa học thƣờng xây dựng các mô hình thực nghiệm trên súc vật từ những quan sát lâm sàng để chứng minh cho các giả thuyết đề ra. Các thực nghiệm này đƣợc tiến hành chủ động cấp diễn hoặc trƣờng diễn, cho các hình ảnh bệnh lý sinh động theo thời gian thực nghiệm. Thực nghiệm có thể tiến hành trên từng tổ chức, từng cơ quan cô lập và trên cơ thể nguyên vẹn; hoặc phối hợp với nhau và tiến hành trên cơ thể sống (in vivo) hoặc trong ống nghiệm (in vitro). Nếu chẩn đoán đúng thì quyết định đƣợc biện pháp điều trị thích hợp và bệnh khỏi. Nhƣ vậy điều trị cũng là một bằng chứng thực nghiệm. Cần lƣu ý bằng chứng này cũng có những điều kiện riêng cuả nó. Ví dụ nhƣ sức đề kháng của cơ thể cần thiết cho quá trình tự khỏi của bệnh, hổ trợ cho ngƣời thầy thuốc cũng nhƣ điều trị và làm cho quá trình tự lành bệnh đƣợc nhanh hơn. Cũng có bệnh tuy chẩn đoán ra nhƣng khoa học hiện nay vẫn chƣa điều trị khỏi. Cuối cùng nếu bệnh quá nặng, điều trị không phù hợp thì ngƣời bệnh chết và phƣơng pháp giải phẩu thi thể và chẩn đoán sinh thiết là một bằng chứng thực nghiệm vô cùng quý giá. Muốn có kết quả cần thiết phải có các phƣơng pháp đúng, Claude Bernard:”Chỉ có những phương pháp tốt mới cho phép chúng ta phát triển và sử dụng tốt hơn những khả năng mà tự nhiên đã phú cho chúng ta”. Muốn vậy phải có đƣợc những nhận xét lâm sàng chính xác, khách quan; đề ra những giả thuyết đúng đắn, khoa học; tìm các phƣơng pháp thực nghiệm thích hợp để chứng minh cho sự phù hợp giữa thực tế lâm sàng và giả thuyết đã nêu; từ đó rút ra đƣợc những quy luật chung nhất của bệnh lý và cuối cùng là ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả trong thực tế (đối với công tác phòng bệnh và điều trị). 2. Vận dụng phương pháp thực nghiệm trong lâm sàng Thầy thuốc là ngƣời làm khoa học, quá trình khám để phát hiện đúng bệnh giống nhƣ quá trình phát hiện chân lý, nghĩa là tuân thủ theo đúng các bƣớc đi trên. Chẩn đoán bệnh thực chất là ứng dụng các bƣớc của phƣơng pháp thực nghiệm để tăng khả năng tìm ra đƣợc chân lý. Tác phong và đức tính của ngƣời thầy thuốc trong trƣờng hợp này vẫn là tỉ mỉ, chính xác, trung thực. IV. Sinh lý bệnh soi sáng công tác dự phòng và điều trị Ngƣời ta có thể gây bệnh thực nghiệm và điều trị thực nghiệm trƣớc khi ứng dụng vào lâm sàng, do đó hiểu rõ mối quan hệ giữa bệnh nguyên và bệnh Bs Nguyễn Đình Tuấn (st) Page 8
  9. sinh, hiểu rõ cơ chế phát sinh, phát triển và kết thúc của bệnh mà thầy thuốc biết khi nào cần điều trị. Có nhiều biện pháp điều trị nhƣ điều trị triệu chứng, điều trị nguyên nhân..v.v. Biện pháp điều trị triệu chứng chỉ sử dụng khi chẩn đoán nguyên nhân chƣa rõ và khi biểu hiện bệnh lý quá mạnh có thể ảnh hƣởng đến sinh mạng bệnh nhân nhƣ đau quá có thể gây sốc, sốt cao gây co giật ở trẻ em.v.v. Tuy nhiên không nên quá lạm dụng vì nhiều khi có hại hơn có lợi và cũng chỉ là biện pháp đối phó. Điều trị nguyên nhân là đúng nhất vì đánh vào yếu tố gây bệnh. Song cũng có nhiều bệnh hiện nay chƣa rõ nguyên nhân hoặc nhƣ trong nhiều bệnh có nguyên nhân đã rõ nhƣng khi bệnh hình thành thì có thể diễn biến mạnh hơn, nguy hiểm cho ngƣời bệnh thì cần phải sử dụng khái niệm dự phòng trong điều trị tức là thông qua quy luật diễn biến nhất định của bệnh lý (sinh lý bệnh học của bệnh) mà đề ra những biện pháp điều trị thích đáng ngăn cản hoặc hạn chế những diễn biến xấu có hại. Sự hiểu biết về vai trò của nguyên nhân và điều kiện gây bệnh sẽ giúp cho việc đề ra kế hoạch phòng bệnh đúng. Có thể phòng bệnh bằng cách tiêu diệt và ngăn ngừa nguyên nhân phát triển, ngăn chặn các điều kiện thuận lợi cho nguyên nhân nảy sinh (môi trƣờng sống, các vectơ truyền bệnh, dinh dƣỡng .v.v.), tăng cƣờng sức đề kháng của cơ thể. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Triệu An. 2000. Đại cƣơng Sinh lý bệnh học. NXB Y Học, Hà Nội. 2. Bộ môn Miễn dịch học - Sinh lý bệnh trƣờng Đại học Y khoa Hà Nội (2002). Sinh lý bệnh. Nhà xuất bản Y học 3. Bộ môn Miễn dịch học - Sinh lý bệnh trƣờng Đại học Y khoa TPHCM. (2000). Sinh lý bệnh. Nhà xuất bản Y học. 4. Ganong W (1996) Review of medical physiology. Nhà xuất bản Appeleton and Lange 5. Guyton A.C ; Hall J.E. Textbook of medical physiology. Nhà xuất bản W.B. Saunder company. 6. Harrison‟s principles of internal medecine. Nhà xuất bản Mc Graw Hill. 7. Nguyễn Ngọc Lanh. 2002. Khái niệm về bệnh. Trong: Sinh lý bệnh (Nguyễn Ngọc Lanh chủ biên). Trang 16-30. NXB Y Học, Hà Nội. Bs Nguyễn Đình Tuấn (st) Page 9
  10. 8. Sigmund Freud. 1970. Phân tâm học nhập môn. Bản dịch của Nguyễn Xuân Hiếu. Trang 5-263. NXB Khai Trí. Sài Gòn. Bs Nguyễn Đình Tuấn (st) Page 10
  11. Chương 2 KHÁI NIỆM VỀ BỆNH I. Sơ lược sự phát triển về khái niệm bệnh 1. Bệnh theo quan niệm y học Đông phương 1.1. Trung quốc và các dân tộc chịu ảnh hưởng văn minh Trung quốc Y học Trung quốc cổ đại chịu ảnh hƣởng của triết học, cụ thể là của Dịch học. Các nhà y học Trung quốc đã áp dụng Dịch lý vào trong Y lý vì cho rằng “Thiên địa vạn vật nhất thể”. Cơ thể con ngƣời đƣợc xem nhƣ là một thế giới thu nhỏ (Nhân thân tiểu thiên địa) có liên quan đến các yếu tố nguyên thủy: Âm Dƣơng, ngũ hành. Bảng 2.1: Tương quan giữa đại và tiểu vũ trụ theo kinh Dịch và Y dịch ĐẠI VŨ TRỤ TIỂU VŨ TRỤ Thái cực Toàn thân Lƣỡng nghi Trên -dƣới, Trái -phải Tứ tƣợng, Tứ thời Tứ chi Ngũ hành Ngũ tạng, Ngũ dịch, Ngũ giác quan 24 tiết 24 đốt xƣơng sống Bát tiết, Bát chính. Bát môn, Kỳ kinh bát mạch. Cửu thiên, Cửu châu Cửu khiếu 12 tháng 12 đốt khí quản, 12 kinh lạc Sông ngòi Huyết mạch Lục khí Lục phủ, lục kinh 360 ngày của 1 năm 360 đốt xƣơng Trong đại vũ trụ (cũng nhƣ trong cơ thể ngƣời) luôn có sự vận hành giữa 2 lực đối kháng: Âm-Dƣơng. Chu Liêm Khê khi giải thích Thái cực đồ thuyết có nói: Bs Nguyễn Đình Tuấn (st) Page 11
  12. "Vô cực là thái cực, thái cực động mà sinh ra dƣơng, động cực rồi tĩnh, tĩnh mà sinh ra âm, tĩnh cực rồi trở lại động, một động một tĩnh làm căn bản và giúp đỡ lẫn nhau, phân âm phân dƣơng, lƣỡng nghi lập thành, dƣơng biến âm hợp mà sinh ra thủy, hỏa, mộc, kim, thổ,...” Khí âm dƣơng luân chuyển biến hóa mà tạo ra ngũ hành, sự sinh khắc của ngũ hành là nguồn gốc của sự chế hóa trong vũ trụ. Hợp với nhau là sinh, là tiếp tục tiến hóa. Trái với nhau là khắc, là hạn chế sự tiến hóa. Trong sự vận hành của khí chất đã có sinh thì phải có khắc, có khắc thì phải có sinh, sinh khắc có mục đích giữ quân bình trong sự sinh hóa của vạn vật. Âm dƣơng có hòa và ngũ hành có bình thì trời đất mới yên mà muôn loài đƣợc thành toại, sinh tồn. Vậy bệnh là do mất sự quân bình âm dƣơng, ngũ hành. Nguyên nhân của sự mất quân bình nầy có thể là nội thƣơng do trạng thái tâm lý thái quá (Thất tình: hỷ, nộ, ái, ố, lạc, tăng, bi), là ngoại cảm do tiết khí (Lục khí: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa). Trị liệu bệnh căn cứ vào sự sinh khắc của ngũ hành (Hƣ: bổ, Thực: tả) để nhằm lập lại sự quân bình âm dƣơng cho cơ thể. Lý luận âm dƣơng ngũ hành có vẻ mơ hồ, trừu tƣợng nhƣng các thầy thuốc Đông y khi áp dụng vào trong điều trị bệnh đã thu đƣợc kết quả rất khả quan, không thể phủ nhận. 1.2. Ấn Độ và các dân tộc chịu ảnh hưởng văn minh Ấn Độ Văn minh Ấn Độ cổ đại đƣợc phản ảnh trong bộ kinh Veda (đƣợc viết khoảng thế kỷ 15 đến thế kỷ thứ 7 trƣớc CN) gồm 4 tập: Rig Veda (tụng niệm) trong đó có đề cập nhiều kiến thức y học, Sama Veda (ca vịnh), Ayur Veda (tế tự) và Atharva Veda (phù chú ma thuật) trong đó có bàn nhiều đến phẫu thuật. Y học Ấn độ cổ đại quan niệm sức khỏe hoặc bệnh tật là sự kết hợp hài hòa hoặc sự rối loạn của 3 yếu tố cấu tạo: Khí, dịch nhầy và mật, đồng thời chịu ảnh hƣởng của thời tiết (mƣa, nắng, bão) và thời gian (ngày, tháng, năm). Về các lãnh vực khác nhƣ giải phẫu học và phẫu thuật, dƣợc học, triệu chứng học, vệ sinh và y học cộng đồng,... có nhiều tiến bộ ảnh hƣởng đến các nền y học cổ đại Hy Lạp, La Mã và có tác động tích cực đến nền y dƣợc học Tây phƣơng sau nầy. Tuy nhiên cần nói thêm rằng y học Ấn Độ cổ đại chịu chi phối mạnh mẽ của triết thuyết Phật giáo, cho bệnh chỉ là một mắc xích trong vòng luân hồi sanh tử do nghiệp (Karma) tạo tác. Sở dĩ con ngƣời tạo nghiệp là do vô minh và dục, vì vậy điều trị khỏi bệnh không quan trọng bằng diệt dục để khỏi tạo nghiệp. Nghiệp mỗi khi không còn tạo tác, luân hồi sẽ dứt, bệnh theo đó cũng sẽ tiêu biến đi. Có lẽ triết thuyết nầy đã có ít nhiều tác dụng tiêu cực đến sự phát triển của nền y học Ấn. Bs Nguyễn Đình Tuấn (st) Page 12
  13. 2. Bệnh theo quan niệm y học Tây phương 2.1. Học thuyết thể dịch của Hippocrate Chịu ảnh hƣởng những luận thuyết của Empedocles (thầy thuốc kiêm triết gia, 504-433 trƣớc CN) coi nền tảng vật chất của thế giới gồm 4 yếu tố (đất, nƣớc, lửa, không khí) tạo nên những biến đổi trong thiên nhiên (ấm, nóng, lạnh, khô), các yếu tố đó vừa kết hợp với nhau vừa đối kháng với nhau. Hippocrate (460-377 trƣớc CN) cũng quan niệm hoạt động sống của cơ thể dựa trên 4 thể dịch: máu ở tim cũng khô nhƣ không khí, chất nhầy ở não cũng lạnh nhƣ nƣớc, mật vàng ở gan cũng nóng nhƣ lửa, mật đen ở lách cũng ẩm nhƣ đất. Theo ông, sự tác động qua lại của các thể dịch đó quyết định không chỉ tính tình của mỗi con ngƣời (nóng nảy, trầm tĩnh, thờ ơ, buồn phiền) mà còn là nền tảng của sức khỏe và nguyên nhân của bệnh tật. Bệnh là do rối loạn các thể dịch đó. Ví dụ: có quá nhiều dịch nhầy ở khắp nơi nhƣ ở phổi (sẽ gây viêm, lao), ở ổ bụng (gây cổ chƣớng), ở ruột (gây ỉa lỏng, lỵ), ở trực tràng (gây trĩ),... Nguyên lý điều trị bệnh là phục hồi lại cân bằng cho cơ thể bằng cách sử dụng các thuốc có những đặc tính của các dịch (thuốc mát, thuốc nóng, thuốc làm khô, thuốc làm ƣớt). Quan niệm nầy mặc dù thiếu cơ sở khoa học nhƣng đã đặt một nền tảng vật chất cho sự hiểu biết, khác xa với những quan niệm siêu hình thần bí vốn thịnh hành trong thời đại đó. 2.2. Thuyết hóa học Trong đêm dài Trung cổ, y học và các ngành khoa học khác không tiến bộ thậm chí còn đi thụt lùi do sự thống trị của tôn giáo. Về cuối thời kỳ nầy, Paracelcius (1493-1541) một ngƣời thầy thuốc Đức nổi tiếng, nêu lên quan niệm cho rằng: - Lƣu huỳnh, nguyên tố khí, biểu hiện sức mạnh của linh hồn - Thủy ngân, nguyên tố lỏng, biểu hiện các lực của trí tuệ - Các muối, cặn của chất đặc, biểu hiện nguyên lý của vật chất. Ba chất đó nối con ngƣời với vũ trụ và qua chúng, con ngƣời tham gia vào chuyển hóa chung của thiên nhiên. Bệnh là hậu quả của những rối loạn cân bằng các chất nói trên. Bs Nguyễn Đình Tuấn (st) Page 13
  14. Jean Baptiste van Helmont (1577-1644) và Sylvius (1614-1672) cho rằng mọi quá trình sinh lý trong cơ thể đều do hoạt động của các enzyme đặc hiệu khác nhau. Bệnh là một rối loạn hóa học enzyme trong cơ thể. Khái niệm hóa học về bệnh sang thế kỷ XX nhờ những tiến bộ trong ngành hóa và hóa sinh nên có nhiều thay đổi. Ngƣởi ta ngày càng thấy rõ tính chất tƣơng đối ổn định của các thành phần hóa học trong cơ thể. Hans Seley khi nghiên cứu về Stress đã đƣa ra quan niệm bệnh là do rối loạn khả năng thích nghi của cơ thể (rối loạn tình trạng đối kháng giữa 2 loại hormone đƣợc tiết ra khi có stress. Ví dụ giữa mineralocorticoids và glucocorticoids). Linus Pauling phát triển khái niệm nầy bằng cách đƣa ra danh từ bệnh lý phân tử để chỉ những bệnh có sai sót trong cấu trúc phân tử của các chất sinh học. 2.3. Thuyết cơ học Trong thời kỳ Phục hƣng, sự phát triển vƣợt bậc của các môn khoa học nhƣ toán học, vật lý học,... đã dẫn đến một khái niệm mới về bệnh. Descartes (1596-1650) xem cơ thể con ngƣời nhƣ một bộ máy, quan niệm nầy đƣợc những ngƣời theo thuyết Y Vật lý (Iatrophysic) tán thành vì họ nhận thấy mọi hoạt động của cơ thể động vật đều dựa trên nền tảng hoàn toàn cơ giới. Ví dụ: Hoạt động của các cơ, xƣơng nhƣ tác dụng của các lực lên trên những đòn bẩy. Hoạt động của tim và mạch máu không khác hoạt động của hệ thống bơm và các ống dẫn. Hoạt động chuyển hóa là một chuỗi các phản ứng hóa học nhằm đốt cháy thức ăn cung cấp năng lƣợng cho cơ thể. Do vậy, cơ thể bị bệnh cũng giống nhƣ một cỗ máy bị hỏng: “Cơ thể sống khác biệt với cơ thể chết nhƣ chiếc đồng hồ đang chạy khác biệt với những bộ phận đồng hồ bị tháo rời”. Schroedinger (1887-1961) thì cho rằng sự khác biệt giữa những sinh vật và những vật không phải sinh vật chỉ là sự khác biệt giữa một quá trình phức tạp với một quá trình đơn giản mà thôi. Khái niệm cơ học nầy hiện nay còn đƣợc thấy trong sự phát triển của môn phỏng sinh học (Bionic) và môn điều khiển học (Cybernetic). 2.4. Thuyết tế bào Thế kỷ XVIII là thời kỳ phát triển cao độ của môn hình thái vi thể (tổ chức học, bào thai học, giải phẫu bệnh) lại có thêm những thành tựu về quang học (phát minh kính hiển vi), về hóa học (phát minh thuốc nhuộm) nên đã thu đƣợc những thành tựu đáng kể. Phƣơng pháp giải phẫu lâm sàng đã giúp cho việc so sánh bệnh Bs Nguyễn Đình Tuấn (st) Page 14
  15. cảnh lâm sàng với những thƣơng tổn thấy đƣợc khi mổ tử thi dẫn đến khái niệm giải phẫu cục bộ về bệnh. Khái niệm nầy cho rằng bệnh có liên quan đến những thƣơng tổn đầu tiên ở các cơ quan, bộ phận, ngăn cản cơ quan, bộ phận đó hoạt động. Morgani (1682-1771), Bichat (1771-1802), Rokitanski (1804-1878) qua kết quả những công trình giải phẫu đại thể, vi thể đã làm phát triển mạnh mẽ quan niệm bệnh học nầy. Vào cuối thế kỷ XIX, thuyết nầy đạt đỉnh cao với công trình “Bệnh học tế bào” của Wirchov(1821-1902). Trong cuốn sách nầy ông đã kết luận rằng: " Đời sống của cơ thể là tổng số đời sống của những tế bào riêng lẻ đã hợp nhất trong cơ thể đó... Nơi diễn tiến các quá trình bệnh chính là bản thân tế bào và mô kế cận... Sự hoạt động không bình thƣờng của tế bào là nguồn gốc của bệnh tật... Tôi chắc chắn rằng không một thầy thuốc nào có thể hiểu biết đầy đủ các quá trình bệnh lý nếu họ không cố gắng xác nhận nơi đã xảy ra bệnh tật... Cuối cùng mọi trƣờng hợp bệnh đều dẫn ta tới nguyên ủy: tế bào. Tế bào là cơ sở vật chất, là hòn đá tảng của lâu đài y học...”. Wirchov cũng là ngƣời đã nêu lên một định đề nổi tiếng “Mỗi tế bào đều sinh ra từ một tế bào” (Omnis cellulae cellula). Armand Trousseau (1801-1867) nhà lâm sàng học ngƣời Pháp nhận xét : "Bệnh học tế bào đã quên mất con ngƣời mà chỉ chú ý đến những tế bào nhỏ bé, do đó đã bị chìm lấp trong muôn vàn những giá trị nhỏ bé” 2.5. Thuyết thần kinh luận Trƣờng phái y học Nga với những công trình của Setchenov (1829-1905), Botkin, Pavlov (1849-1936) đề ra thuyết thần kinh về bệnh. Theo thuyết nầy cho rằng hoạt động phản xạ của hệ thần kinh giúp cho việc bảo tồn sự hoạt động và sự toàn vẹn của cơ thể giữa những điều kiện luôn luôn thay đổi của môi trƣờng sống. Sự kết hợp chặt chẽ của hoạt động vỏ não và dƣới vỏ não, giữa hệ thần kinh và hệ nội tiết có tác dụng điều hòa chính xác và kịp thời mọi hoạt động của con ngƣời, bảo đảm mối tƣơng quan thống nhất giữa con ngƣời và ngoại cảnh. Bệnh là do rối loạn hoạt động của phản xạ của hệ thần kinh, rối loạn mối tƣơng quan giữa những khu vực khác nhau của hệ thần kinh là cơ chế phát triển của bệnh. Thuyết thần kinh đã tuyệt đối hóa vai trò của vỏ não, làm cho thuyết nầy trở nên phiến diện và làm cản trở cho những nghiên cứu phát triển các ngành học khác nhƣ nội tiết, sinh hóa thần kinh, hệ thần kinh thực vật,... 2.6. Thuyết phân tâm học Bs Nguyễn Đình Tuấn (st) Page 15
  16. Sigmund Freud (1856-1939), thầy thuốc nổi tiếng ngƣời Áo cho rằng những hiện tƣợng kinh nghiệm thu nhận trong cuộc sống của con ngƣời chỉ trở thành ý thức (conscience) khi nó phù hợp với cái máy lọc xã hội (gồm những qui định của xã hội: ngôn ngữ, luân lý, và những đặc tính của xã hội: cấm kỵ). Những hiện tƣợng kinh nghiệm sống không phù hợp sẽ không đƣợc chuyển thành ý thức và sẽ bị dồn ép (pression) vào trong tiềm thức (insconcience) (còn gọi là vô thức) "Cá nhân không thể tự cho phép mình nhận thức những tƣ tƣởng hay tình cảm khác với những khuôn mẫu của nền văn hóa mà hắn sống, do đó hắn buộc phải dồn ép chúng" (E. Fromm). Những tƣ tƣởng hay tình cảm bị dồn ép vào trong tiềm thức đó không bị mất đi mà vẫn tồn tại và có năng lực sống riêng (Freud gọi là Libido), chúng tìm cách biểu hiện ra bên ngoài bằng: - Những hành vi sai lạc nhƣ: sự lỡ lời (viết sai, đọc sai, nghe nhầm), sự quên (tên ngƣời, chữ, dự định, cảm giác) hoặc sự lầm lẫn (đánh mất đồ vật, không tìm lại đƣợc đồ vật đã cất). Những hành vi sai lạc thực sự là những hành vi hoàn toàn đúng đắn, chỉ xuất hiện với mục đích thay thế cho hành vi mà ngƣời ta muốn làm hoặc đang chờ đợi. Trong cuốn Phân tâm học nhập môn, Freud nói: “Sự dồn ép một ý muốn nói một điều gì chính là điều kiện cần thiết cho sự phát sinh của một sự lỡ lời”. - Những giấc mơ. Cái tôi trong giấc mơ theo Freud, đã rũ bỏ đƣợc hết những ràng buộc về luân lý, thỏa mãn mọi sự đòi hỏi của bản năng tình dục, của bản năng luôn luôn bị nền giáo dục cấm đoán, những bản năng chống lại mọi sự kìm kẹp của luân lý. - Những tài năng trong thi ca, âm nhạc, hội họa,... - Những chứng bệnh tâm thần kinh, thậm chí cả một số bệnh thực thể. Vậy bệnh là sản phẩm của một sự dồn ép, do đó trị bệnh là phải tìm cách giải phóng cho những dồn ép đó (dépression) bằng phƣơng pháp phân tâm học (psychanalyse). II. Một số điểm cần chú ý để hiểu khái niệm bệnh Theo tiến hóa luận, mọi sinh vật khởi điểm từ những chất hữu cơ, đƣợc tổ chức lại thành các sinh vật bậc thấp (cơ thể đơn bào) rồi tiếp tục tiến hóa thành các sinh vật bậc cao (cơ thể đa bào). Sinh vật bậc cao với những cơ quan có những hoạt động biệt hóa và chức năng khác nhau nhƣng đều nhằm đếïn một mục đích chung là duy trì sự sống cho cơ thể sinh vật đó. Bs Nguyễn Đình Tuấn (st) Page 16
  17. Vì vậy, từ thế giới vi mô sang vĩ mô, tất cả những màng ngăn cách (màng nhân, màng tế bào, màng mạch, da,...) chỉ có tính chất tƣơng đối do chúng có quan hệ trao đổi chất, quan hệ tác động qua lại ảnh hƣởng lẫn nhau nhƣng vẫn giữ đƣợc tính chất riêng của nó. Nhƣ thế, sinh vật nói chung và con ngƣời nói riêng có tính thống nhất giữa nội môi và ngoại môi. Thống nhất nhƣng vẫn có mâu thuẩn vì ngoại môi thì luôn luôn thay đổi, biến động trong khi nội môi thì đòi hỏi một sự ổn định để có thể hoạt động bình thƣờng. Muốn duy trì đƣợc sự ổn định của nội môi, cơ thể phải có khả năng thích nghi bù trừ. Quan niệm nhƣ thế sẽ giúp cho ngƣời thầy thuốc có đƣợc một thái độ xử lý đúng về bệnh trong thực tế cuộc sống nhƣ sau: 1. Bệnh có tính chất của một cân bằng mới kém bền vững Sự hằng định của nội môi là kết quả của một cân bằng sinh lý: sinh sản = hủy hoại. Ví dụ glucose máu, hồng cầu,... Khi cơ thể bị bệnh vẫn có một sự cân bằng, đó là cân bằng bệnh lý: Yếu tố gây bệnh ( hủy hoại bệnh lý = Phản ứng cơ thể ( phòng ngự sinh lý. Cân bằng bệnh lý là một cân bằng kém bền, thay đổi theo hƣớng hồi phục về cân bằng sinh lý (nếu cân bằng lệch về phòng ngự sinh lý) hoặc diễn tiến theo chiều hƣớng ngày càng trầm trọng để đi đến kết thúc là tử vong (nếu cân bằng nghiêng về hủy hoại bệnh lý). Tóm lại, yếu tố gây bệnh tác hại lên cơ thể sống làm rối loạn hoạt động bình thƣờng kéo cơ thể về một chiều, phản ứng cơ thể qua sự phòng ngự, kéo cơ thể về chiều đối nghịch. Kết quả sẽ tạo ra một cân bằng mới kém bền vì, hoặc đƣa đến hồi phục hoặc đi đến tử vong. Thái độ cần có: Tôn trọng cân bằng sinh lý. Điều trị là nhằm hạn chế những hiện tƣợng hủy hoại bệnh lý, tăng cƣờng sự phòng ngự sinh lý nhằm đƣa cơ thể bị bệnh sớm trở về lại cân bằng sinh lý bình thƣờng. 2. Bệnh giới hạn khả năng thích nghi của cơ thể Trong khi ngoại môi luôn luôn thay đổi mà nội môi lại đòi hỏi một sự hằng định để hoạt động. Tình trạng đó bắt buộc cơ thể bình thƣờng phải luôn luôn tìm cách vận dụng những cơ chế thích nghi mạnh mẽ để đối phó lại với những thay đổi thƣờng xuyên và đột ngột của môi trƣờng và hoàn cảnh sống. Bs Nguyễn Đình Tuấn (st) Page 17
  18. Khi cơ thể bị bệnh, khả năng thích nghi vẫn còn song rõ ràng nó đã bị hạn chế rất nhiều. Ví dụ khả năng điều hòa nhiệt ở ngƣời bị sốt, khả năng điều hòa glucose máu trên những bệnh nhân xơ gan,... Thái độ cần có: Xem trọng công tác phòng bệnh, khuyến khích việc rèn luyện thân thể (nhằm tăng sự thích nghi, tăng lề an toàn), bảo vệ khả năng thích nghi của cơ thể, hạn chế những kích thích quá mạnh. 3. Bệnh hạn chế sinh hoạt bình thường Con ngƣời là một động vật sống có tổ chức thành cộng đồng, xã hội. Do vậy, phải xem xét bệnh dƣới góc cạnh nầy để thấy rằng: Bệnh làm giới hạn khả năng học tập, lao động, sáng tạo. Bệnh ảnh hƣởng đến sinh hoạt cá nhân và làm tăng phí tổn của xã hội qua công tác y tế. Thái độ cần có: Công tác phòng chống phải nhằm trƣớc tiên vào những bệnh có tính chất xã hội, áp dụng phƣơng châm phóng bệnh trong điều trị để trả bệnh nhân về sinh hoạt bình thƣờng sớm và ƣu tiên bảo tồn những cơ quan chức năng. Tóm lại, một quan niệm đúng sai về bệnh sẽ quyết định thái độ đúng sai trong công tác đấu tranh chống lại bệnh tật. Cho nên khi quan niệm về bệnh, chỉ nên chú trọng đến những khái niệm có tính thực dụng hơn là những khái niệm mang nhiều tính chất triết lý nhƣng lại có tác dụng tiêu cực, hạn chế việc ứng dụng trong thực tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Vũ Triệu An. 2000. Đại cƣơng Sinh lý bệnh học. NXB Y Học, Hà Nội. 2. Nguyễn Ngọc Lanh. 2002. Khái niệm về bệnh. Trong: Sinh lý bệnh (Nguyễn Ngọc Lanh chủ biên). Trang 16-30. NXB Y Học, Hà Nội. 3. Sigmund Freud. 1970. Phân tâm học nhập môn. Bản dịch của Nguyễn Xuân Hiếu. Trang 5-263. NXB Khai Trí. Sài Gòn. Bs Nguyễn Đình Tuấn (st) Page 18
  19. Chương 3 KHÁI NIỆM VỀ BỆNH NGUYÊN I. Định nghĩa Bệnh nguyên học (Etiology) là môn học nghiên cứu về nguyên nhân gây bệnh và điều kiện phát sinh ra bệnh. Bệnh nguyên học có ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận cũng nhƣ thực hành. Về lý luận, nó thể hiện rõ lập trƣờng duy tâm hay duy vật. Về thực hành, nó quyết định kết quả của công tác phòng bệnh và điều trị bệnh. Theo Pavlov: ”Vấn đề phát hiện nguyên nhân gây bệnh là một vấn đề cơ bản của y học và chỉ khi nào biết rõ những nguyên nhân ấy mới tiến hành điều trị đƣợc chính xác, hơn nữa mới ngăn ngừa chúng đột nhập vào cơ thể, và điều nầy là quan trọng bậc nhất”. II. Một số quan niệm chưa đầy đủ về bệnh nguyên 1. Thuyết nguyên nhân đơn thuần Thuyết nầy cho một bệnh là do một nguyên nhân quyết định và chỉ một nguyên nhân ấy thôi cũng đủ để gây ra bệnh. Thuyết nguyên nhân đơn thuần phát triển từ thời Pasteur và Kock phát hiện vi khuẩn là nguyên nhân gây nên một số bệnh. Phát hiện ấy làm cho giới nghiên cứu thời bấy giờ đi đến thái độ cực đoan, cho rằng vi khuẩn là nguyên nhân của mọi bệnh tật, có vi khuẩn là có bệnh. Thực tế chứng minh ngƣợc lại rằng có nhiều bệnh không do vi khuẩn gây ra và có thể có sự hiện diện của vi khuẩn nhƣng không xảy ra bệnh. Thuyết nầy phiến diện vì đã quá chú trọng đến nguyên nhân mà tách cơ thể sống ra khỏi môi trƣờng sống tức các điều kiện cho bệnh phát sinh. Thuyết cũng không đề cập đến cơ chế bảo vệ của cơ thể và phủ nhận các ảnh hƣởng quan trọng khác trong bệnh nguyên học. 2. Thuyết điều kiện gây bệnh Ngƣợc với thuyết nguyên nhân đơn thuần, thuyết điều kiện cho rằng bệnh phát sinh là do tác dụng tổng hợp của nhiều điều kiện khác nhau (trong đó có cả nguyên nhân) và chúng có tác dụng nhƣ nhau, không có điều kiện nào là chính, Bs Nguyễn Đình Tuấn (st) Page 19
  20. điều kiện nào là phụ cả. Do quan niệm đơn giản nhƣ trên, thuyết không phản ảnh đƣợc tính đặc hiệu của bệnh. Thuyết nầy mang rất nhiều tính chất tiêu cực do nó đƣa ra cùng một lúc nhiều điều kiện cần phải thỏa mãn thì mới giải quyết đƣợc vấn đề bệnh tật. Do không phân biệt đƣợc nguyên nhân và điều kiện hoặc không phân biệt đƣợc vai trò của mỗi yếu tố trong quá trình gây bệnh nên có ảnh hƣởng xấu đến công tác phòng bệnh và điều trị. 3. Thuyết thể tạng Thuyết thể tạng cho nguyên nhân gây bệnh là do đặc điểm của cơ thể ngƣời bệnh, là do thể tạng (terrain = cơ địa) của họ, do di truyền. Cơ sở của thuyết này là từ thuyết di truyền máy móc, không kể đến các yếu tố ngoại cảnh, là cơ sở cho thuyết phân biệt chủng tộc và những quan niệm duy tâm về bệnh phát triển. Cũng giống nhƣ hai thuyết trên, thuyết nầy cũng phiến diện và tiêu cực vì nó cho rằng không thể làm gì đƣợc với một bệnh đã đƣợc "chƣơng trình hóa" từ trƣớc khi con ngƣời sinh ra. Tuy nhiên cũng cần chú ý phân biệt rằng: có trƣờng hợp thể tạng là điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển, có trƣờng hợp thể tạng chính là nguyên nhân của bệnh. III. Quan niệm khoa học về bệnh nguyên 1. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện gây bệnh 1.1. Nguyên nhân quyết định, điều kiện phát huy tác dụng của nguyên nhân Không có nguyên nhân thì bệnh không thể phát sinh, có nguyên nhân nhƣng thiếu điều kiện thì bệnh chƣa phát sinh đƣợc. Ví dụ bệnh lao chỉ xuất hiện khi có sự hiện diện của vi trùng Koch, nhƣng sự hiện diện của vi trùng Koch chƣa đủ để gây ra bệnh nếu thiếu các điều kiện nhƣ suy giảm sức đề kháng của cơ thể, suy dƣỡng,... Nguyên nhân quyết định tính đặc hiệu của bệnh. Nguyên nhân và những điều kiện nhất định gây nên một bệnh gọi chung là các yếu tố bệnh nguyên. Bs Nguyễn Đình Tuấn (st) Page 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2