intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của tác phẩm Truyện Kiều

Chia sẻ: Lê Thị Trà Giang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:32

94
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc nghiên cứu, khảo sát hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của “Truyện Kiều” giúp học sinh tìm ra số lượng, đặc điểm và tính chất của hiện tượng đa nghĩa. Đồng thời sẽ phân tích, đánh giá, so sánh các dạng biểu hiện và vai trò của hiện tượng đa nghĩa đối với giá trị nội dung và nghệ thuật của “Truyện Kiều”.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của tác phẩm Truyện Kiều

I. PHẦN MỞ ĐẦU<br /> I.1. Lý do chọn đề tài:<br />      Mỗi tác phẩm văn học khi ra đời đều trải qua sự sàng lọc của thời gian để khẳng  <br /> định giá trị trường tồn của mình. Và giá trị của mỗi tác phẩm đó được thẩm định qua  <br /> sự  tiếp nhận và đánh giá của độc giả. Trong nền văn học Việt Nam thì kiệt tác <br /> “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du vượt qua bao thăng trầm đã khẳng định <br /> được vai trò, giá trị to lớn của mình trong kho tàng văn học và đặc biệt trong tâm hồn  <br /> người Việt.<br />      Từ xưa đến nay chưa có một tác phẩm văn học nào mà được nhân dân cả nước  <br /> yêu thích, ca ngợi như “Truyện Kiều”. Bất cứ là người Việt Nam dù thuộc tầng lớp, <br /> lứa tuổi nào cũng đều biết đến “Truyện Kiều”; có người thuộc năm bảy câu, có <br /> người thuộc cả đoạn, thậm chí là đọc ngược được “Truyện Kiều”.<br />          Một trong những yếu tố  quan trọng để  “Truyện Kiều” có được sự  tiếp nhận <br /> rộng rãi và nghiền ngẫm say sưa của nhân dân như vậy là nhờ  vào biệt tài sử  dụng  <br /> ngôn ngữ của Nguyễn Du. Bên cạnh việc sử  dụng các điển cố, điển tích,… thi hào <br /> đã vận dụng một cách rất tài tình, linh hoạt vốn ngôn ngữ  dân gian như: từ  thuần  <br /> Việt, thành ngữ, tục ngữ,… Chính nhờ  đặc điểm này mà “Truyện Kiều” đã trở  nên <br /> gần gũi, gắn bó với quần chúng lao động, từ  đó ai ai cũng đều có thể  hiểu khi đọc <br /> “Truyện Kiều”.<br /> Do vậy việc nghiên cứu và phân tích “Truyện Kiều”  ở  góc độ  ngôn ngữ  là  rất <br /> cần thiết. Bên cạnh những vấn đề đã được đi sâu vào nghiên cứu như từ Hán Việt, <br /> thành ngữ, tục ngữ,… thì hiện tượng đa nghĩa trong ngôn ngữ “Truyện Kiều” cũng  <br /> giữ  một vai trò nhất định trong việc tạo nên sự  phong phú, đa dạng về  ngữ  nghĩa <br /> của ngôn ngữ, góp phần làm nên sức sống lâu bền của “Truyện Kiều”. Xuất phát từ <br /> những lí do trên bản thân tôi chọn:  “Hiện tượng đa nghĩa trong một số  đoạn <br /> trích của tác phẩm Truyện Kiều” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm để giúp học  <br /> sinh phân biệt được hiện tượng đa nghĩa với hiện tượng đồng âm.<br /> I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:<br />        Việc nghiên cứu, khảo sát hiện tượng đa nghĩa trong một số  đoạn trích của  <br /> “Truyện Kiều” giúp học sinh tìm ra số lượng, đặc điểm và tính chất của hiện tượng  <br /> đa nghĩa. Đồng thời sẽ phân tích, đánh giá, so sánh các dạng biểu hiện và vai trò của <br /> hiện tượng đa nghĩa đối với giá trị nội dung và nghệ thuật của “Truyện Kiều”.<br />      Đề tài sẽ là cơ sở cho các công trình nghiên cứu khác nhau có liên quan đến hiện  <br /> tượng đa nghĩa. Từ đó giúp học sinh xác định và sử dụng ngôn ngữ đúng bối cảnh và  <br /> đúng mục đích diễn đạt. <br /> I.3. Đối tượng nghiên cứu:<br />       Đối tượng nghiên cứu của đề  tài là các từ, các câu thơ  có chứa hiện tượng đa  <br /> nghĩa trong một số đoạn trích của tác phẩm “Truyện Kiều”.<br /> I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:<br />      Học sinh khối 9 trường THCS Nguyễn Trãi trong các năm học 2013­2014; 2014­<br /> 2015 và đặc biệt là học sinh lớp 9A5, 9A7 năm học 2015­2016.<br /> <br /> <br /> 1<br />     Vấn đề chỉ  tập trung vào hiện tượng đa nghĩa trong ngôn ngữ Việt nói chung và  <br /> ngôn ngữ “Truyện Kiều” nói riêng. Để  giải quyết vấn đề  này tôi dựa vào văn bản <br /> “Truyện Kiều” do Đào Duy Anh dịch của nhà xuất bản Phụ nữ, 2007.<br /> I.5. Phương pháp nghiên cứu:<br />  Từ  mục đích, yêu cầu và đối tượng nghiên cứu của đề  tài, tôi đã sử  dụng các <br /> phương pháp nghiên cứu sau:<br /> ­  Phương pháp tiếp cận văn bản: Tìm hiểu những vấn đề  liên quan đến từ  đa <br /> nghĩa và hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của tác phẩm “Truyện Kiều”.<br /> ­ Phương pháp thống kê và phân loại: Thống kê các câu thơ  trong một số  đoạn  <br /> trích của tác phẩm “Truyện Kiều” có chứa hiện tượng đa nghĩa và phân loại chúng  <br /> theo tiêu chí từ loại.<br /> ­ Phương pháp phân tích: Từ tư liệu đã thống kê và phân loại tôi tiến hành phân <br /> tích để rút ra những đặc điểm của nhóm từ đa nghĩa theo tiêu chí đã phân loại.<br /> ­ Phương pháp tổng hợp: Sau khi thống kê, phân loại và phân tích rút ra được  <br /> những nhận xét khoa học, xác đáng về hiện tượng đa nghĩa trong “Truyện Kiều”.<br /> II. PHẦN NỘI DUNG<br /> II.1. Cơ sở lý luận:<br />      Trong thực tế  đời sống văn học nước ta những năm gần đây, việc hiểu và đánh  <br /> giá   tác phẩm nghệ  thuật đã và đang trở  thành một hiện tượng thời sự. Trên bình <br /> diện lý thuyết, người ta đã bắt đầu nói nhiều đến vấn đề tính đa nghĩa của tác phẩm <br /> văn chương. Mặc dù vẫn còn có những ý kiến chưa đồng tình, nhưng nhìn chung <br /> giới nghiên cứu và phê bình văn học ngày nay đã xác nhận hiện tượng đa nghĩa như <br /> là một đặc tính hữu cơ của nghệ thuật nói chung và của văn học nói riêng. <br />       “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đến nay không phải là vấn đề  còn quá mới mẻ <br /> đối với những nhà nghiên cứu. Ngay từ khi “Truyện Kiều” mới được công bố nó đã  <br /> thu hút được đông đảo sự  quan tâm của giới trí thức. Đào Duy Anh có cuốn “Khảo  <br /> luận Kim Vân Kiều”. Đây là cuốn sách đầu tiên viết về  nghệ  thuật “Truyện Kiều” <br /> tương đối toàn diện, đặt nền móng cho các thế  hệ  sau này tiến hành nghiên cứu  <br /> “Truyện Kiều” dưới nhiều góc độ khác nhau. <br />            Với “Thư  mục nghiên cứu Truyện Kiều” của Trần Đình Sử  trong cuốn “Thi  <br /> pháp Truyện Kiều” năm 2002, cho thấy có 661 công trình nghiên cứu về  “Truyện  <br /> Kiều” trong đó có hơn 70 công trình nghiên cứu phương diện ngôn ngữ. <br />          Qua các công trình nghiên cứu trên, các tác giả  đã làm rõ được nhiều vấn đề <br /> mang tính chiều sâu và khái quát có liên quan đến Truyện Kiều. Song, các công trình  <br /> nghiên cứu trên chủ  yếu diễn ra trên phương diện văn bản học, chứ  chưa có công  <br /> trình nào chú ý tới hiện tượng đa nghĩa trong “Truyện Kiều” như  một đối tượng  <br /> riêng.<br />       Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng hiện tượng đa nghĩa trong ngôn ngữ là một <br /> hình thức nghệ thuật rất phong phú và đa dạng. Từ việc nghiên cứu các vấn đề này  <br /> sẽ  giúp chúng ta có cái nhìn khái quát, đầy đủ  và sâu sắc hơn về  hiện tượng đa <br /> nghĩa. Nắm chắc được các vấn đề lý thuyết cơ bản về hiện tượng đa nghĩa cũng có <br /> <br /> <br /> 2<br /> nghĩa là chúng ta tiếp nhận được yếu tố  dẫn đường, làm cơ  sở  nghiên cứu hiện <br /> tượng đa nghĩa trên các tác phẩm văn học cụ thể. <br />       Từ đó, tôi đưa ra các từ, các câu thơ  có chứa hiện tượng đa nghĩa trong một số <br /> đoạn trích của “Truyện Kiều” rồi yêu cầu các em tìm ra đặc điểm và tính chất của <br /> hiện tượng đa nghĩa. Qua đó, tôi đã phát hiện được nguyên nhân dẫn đến các lỗi mà  <br /> các em còn mắc phải. Để  mang lại hiệu quả  cao cho quá trình lĩnh hội tri thức, tôi <br /> mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm đã tích lũy được trong quá trình giảng dạy để <br /> giúp các em học sinh khối 9 nắm được vai trò của hiện tượng đa nghĩa đối với giá trị <br /> nội dung và nghệ  thuật của tác phẩm “Truyện Kiều” .  Đồng thời, khi nghiên cứu <br /> hiện tượng đa nghĩa trong “Truyện Kiều” sẽ phát hiện ra nhiều vấn đề  mới mẻ  và  <br /> thấy được nghệ thuật dùng từ điêu luyện, chuẩn xác của thi hào Nguyễn Du.<br /> II.2. Thực trạng:<br /> Trong những năm vừa qua, tôi luôn được lãnh đạo nhà trường tin tưởng và trực <br /> tiếp phân công giảng dạy các khối lớp và bồi dưỡng học sinh giỏi khối 7. Đặc biệt <br /> trong năm học 2015­2016, tôi được nhà trường giao nhiệm vụ  giảng dạy môn Ngữ <br /> văn lớp 7. Với kinh nghiệm tích lũy được, tôi nhận thấy nhiều học sinh chưa có khả <br /> năng phân biệt hiện tượng đa nghĩa và hiện tượng đồng âm nên mạnh dạn chỉ ra một <br /> số biện pháp, sáng kiến giúp học sinh nắm vững hơn kiến thức cơ bản trên.<br /> a. Những thuận lợi và khó khăn:<br />     * Thuận lợi:<br />       ­ Trong những năm vừa qua, bản thân luôn nhận được sự  quan tâm  sâu sat cua<br /> ́ ̉  <br /> Ban Giam ̣<br /> ́   Hiêu, của Công đoàn giáo dục cùng sự  giup đ<br /> ́ ỡ cua t<br /> ̉ ất cả  các đoàn thể <br /> trong Hội đồng sư phạm nhà trường, đặc biệt là các đồng nghiệp trong tổ Ngữ Văn <br /> trường THCS Nguyễn Trãi.  <br />     ­ Trong năm học này, tôi đang trực tiếp giảng dạy môn Ngữ Văn  7, tôi thấy đa số <br /> học sinh có khả năng tiếp thu bài đồng đều, khả năng lĩnh hội tri thức tương đương  <br /> nhau, số  học sinh chiếm tỉ lệ khá ở  các môn học khá cao. Đại đa số  các em có tinh  <br /> thần học tập, ham học hỏi, hăng say phát biểu ý kiến xây dựng bài, chuẩn bị  bài <br /> tương đối đầy đủ khi lên lớp.<br />     ­ Công tác giảng dạy của giáo viên rất thuận lợi vì có tài liệu tham khảo nhiều.  <br /> Ngoài ra còn có các lớp học nâng cao trình độ nghiệp vụ tạo điều kiện cho giáo viên  <br /> tham gia học tập để theo kịp với xu thế đổi mới hiện nay. Tất cả đều nhằm tạo mọi <br /> điều kiện thuận lợi cho quá trình truyền tải kiến thức của tôi. <br />     * Khó khăn:<br />    ­ Về phía giáo viên: Do chưa có nhiều kinh nghiệm nên trong quá trình giảng dạy <br /> chưa đưa ra các biện pháp tối  ưu để  giúp học sinh phân biệt được hiện tượng đa <br /> nghĩa với hiện tượng đồng âm của từ ngữ. Và cũng do sĩ số lớp còn đông nên rất khó <br /> cho giáo viên trong việc theo sát, kèm cặp từng học sinh trong một tiết dạy.<br />     Thực tế mỗi trường đều có những phương pháp dạy học riêng để  nâng cao chất  <br /> lượng dạy học. Nhưng vấn đề  lớn nhất  ở  đây chính là phương pháp tiếp cận của <br /> giáo viên với học sinh còn rất hạn chế, còn cứng nhắc dẫn đến sự  buồn chán trong  <br /> việc dạy và học tại các nhà trường.<br /> <br /> 3<br />   ­ Về  phía học sinh: Số  lượng học sinh dân tộc thiểu số tương đối đông dẫn đến <br /> tình trạng bỏ học, lười học bài vẫn còn thường xuyên xảy ra. Một số gia đình điều <br /> kiện kinh tế còn hạn hẹp, nhận thức còn hạn chế. Do vậy, các em chưa có điều kiện <br /> mua thêm tài liệu tham khảo nhằm phục vụ cho việc học bộ môn Ngữ văn được tốt <br /> hơn.<br />      Bên cạnh đó vẫn còn một số học sinh chây lười trong quá trình tiếp thu bài học,  <br /> chưa thực sự có hứng thú với môn học nên không chuẩn bị tốt cho giờ học môn Ngữ <br /> văn dẫn đến tình trạng nắm bắt không đầy đủ lượng kiến thức mà giáo viên truyền  <br /> tải.<br />      Hầu như tất cả các em chưa có thói quen tìm hiểu, phân biệt hiện tượng đa nghĩa <br /> và hiện tượng đồng âm trong các tác phẩm văn chương và còn xem nhẹ các môn xã <br /> hội trong đó có môn Ngữ Văn dẫn đến chất lượng học tập không cao.<br /> b. Thành công và hạn chế khi vận dụng đề tài: <br />    ­ Khi vận dụng đề  tài này vào thực tế, đã giúp học sinh phần nào phân tích, đánh  <br /> giá, so sánh các dạng biểu hiện và vai trò của hiện tượng đa nghĩa. Từ đó có cơ  sở <br /> để phân biệt hiện tượng đa nghĩa với hiện tượng đồng âm của từ ngữ.<br />    ­ Thông qua đề  tài giúp học sinh vận dụng được hiện tượng đa nghĩa của từ  vào  <br /> trong bài viết tránh tình trạng dùng lẫn lộn, không xác định được hoàn cảnh sử dụng <br /> từ nhiều nghĩa và từ đồng âm trong giao tiếp cũng như trong học tập.<br />   ­ Giúp học sinh thấy được hiện tượng đa nghĩa trong ngôn ngữ Việt nói chung và <br /> ngôn ngữ “Truyện Kiều” nói riêng cũng giữ một vai trò nhất định trong việc tạo nên <br /> sự  phong phú, đa dạng về  ngữ nghĩa của ngôn ngữ. Từ  đó có thái độ  hăng say với  <br /> môn học và thêm yêu văn học dân tộc.<br />       Bên cạnh những thành công đã đạt được đề  tài còn mắc phải một số  hạn chế <br /> như: Ngoài các từ, các câu thơ có chứa hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích  <br /> của “Truyện Kiều”  ở  lớp 9, giáo viên chưa cung cấp thêm được nhiều các từ, các  <br /> câu thơ khác có chứa hiện tượng đa nghĩa cũng như trong các văn bản khác cho học  <br /> sinh tiếp cận nên chưa mở rộng được vốn kiến thức cho học sinh.<br />      Do ý thức học tập của một số học sinh chưa tốt, khả năng tiếp thu chậm nên vẫn  <br /> chưa nắm vững hiện tượng đa nghĩa dẫn đến chưa phân biệt được hiện tượng đa  <br /> nghĩa với hiện tượng đồng âm của từ ngữ. <br /> c. Mặt mạnh, mặt yếu khi vận dụng đề tài:<br />    ­ Với những kinh nghiệm mà bản thân đúc rút ra từ thực tiễn giảng dạy có những <br /> mặt mạnh sau đây:<br />    + Học sinh dân tộc thiểu số chiếm tỉ lệ cao, công tác giảng dạy còn gặp nhiều khó <br /> khăn nhưng khi vận dụng đề  tài vào thực tế  đã giúp học sinh tích cực, chủ  động  <br /> trong việc xây dựng nâng cao chất lượng học tập.<br />    + Học sinh hiểu bài và phân biệt được hiện tượng đa nghĩa với hiện tượng đồng <br /> âm của ngôn ngữ nên phần nào giúp học sinh yêu thích bộ môn hơn.<br />   ­ Bên cạnh đó đề tài vẫn còn một số hạn chế như: Một số em không chịu đọc bài,  <br /> soạn bài, không nắm vững khái niệm, không tìm hiểu thêm kiến thức nên dẫn đến <br /> còn chây lười, khó tiếp thu kiến thức mới. Từ  đó, dẫn đến tình trạng một số  học  <br /> <br /> 4<br /> sinh còn chưa phân định rõ ràng đâu là hiện tượng đa nghĩa và đâu là hiện tượng  <br /> đồng âm.<br /> d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:<br />         Có rất nhiều nguyên nhân tác động dẫn đến sự  thành công cũng như  hạn chế <br /> trong quá trình vận dụng đề tài vào thực tiễn của người giảng dạy. Cụ thể là:<br />        Bản thân luôn nhận được sự  quan tâm giúp đỡ  của Ban giám hiệu nhà trường, <br /> của tổ  chuyên môn cũng như  các đồng nghiệp trong việc phối hợp để  giáo dục và <br /> hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy của mình.<br />       Quá nhấn mạnh việc gắn kết tri thức trong văn bản với đời sống  nên giáo viên <br /> chú ý nhiều tới liên hệ  thực tế, dẫn đến việc khai thác kiến thức cơ  bản chưa đầy <br /> đủ. Vốn kiến thức của giáo viên thiếu sự  mở  rộng. Giáo viên chưa vận dụng linh <br /> hoạt các phương pháp dạy học và các biện pháp tổ  chức dạy học nhằm gây hứng <br /> thú cho học sinh nên giờ dạy còn tẻ nhạt chưa thu hút được sự chú ý của học sinh.<br />   ­ Một số giáo viên còn lúng túng trong việc đưa ra những cách thức phân biệt hiện  <br /> tượng đa nghĩa với hiện tượng đồng âm nên học sinh không khắc sâu được kiến  <br /> thức. Một số  phụ  huynh chưa thực sự quan tâm đến quá trình học tập của con em, <br /> chưa đôn đốc các em việc học bài cũ trước khi đến lớp.<br />    ­ Do học sinh chưa nắm vững khái niệm về từ nhiều nghĩa và từ đồng âm dẫn đến  <br /> tình trạng không phân biệt được từ nhiều nghĩa và từ đồng âm nên hiểu sai bản chất,  <br /> dùng sai từ khi giao tiếp cũng như khi tạo lập văn bản.<br />    ­ Một số em học sinh không học bài, làm bài cũ nên dẫn đến tình trạng học trước  <br /> quên sau và khi có những bài tập cụ  thể  xác định về  từ  nhiều nghĩa sẽ  không biết  <br /> cách giải quyết. Đa số các em chưa trang bị thêm cho mình những tài liệu tham khảo  <br /> về “Truyện Kiều” để làm tài liệu học tập.<br /> e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra:<br />       Sử dụng phân biệt hiện tượng đồng âm và hiện tương đa nghĩa trong tiết dạy có <br /> vai trò quan trọng giúp học sinh nắm vững, khắc sâu và hình thành kiến thức sâu sắc  <br /> hơn tuy nhiên với những khó khăn mà giáo viên đang gặp phải là những khó khăn <br /> cần và có thể giải quyết được giúp ý tưởng có thể đi vào thực tiễn giảng dạy như:<br />    ­ Trước hết, với việc đa dạng học sinh trong lớp dẫn đến sự  khó khăn khi truyền  <br /> tải kiến thức cho nên giáo viên cần có những câu hỏi phù hợp với từng đối tượng  <br /> học sinh.  Do đó, làm cách nào để  có thể  giúp cho học sinh dễ  dàng nắm bắt kiến <br /> thức, nhất là đối với học sinh yếu.  Ở các em có sự  khác biệt về: khả năng tiếp thu  <br /> bài, phong cách nhận thức,… so với những học sinh khác. Có lẽ đây là vấn đề không  <br /> chỉ của riêng ngành giáo dục mà hiện nay cả xã hội cũng đang quan tâm và tìm giải <br /> pháp để  khắc phục tình trạng này. Để  đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn  <br /> diện thì người giáo viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết tìm tòi phương <br /> pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, giúp giảm dần khoảng cách về trình <br /> độ  trong lớp học. Vấn đề  nêu trên là khó khăn với không ít giáo viên nhưng ngược  <br /> lại, giải quyết được điều này là góp phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên  <br /> một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư <br /> duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.<br /> <br /> 5<br />    ­ Thứ hai, học sinh chưa nắm rõ các khái niệm, cấu trúc về hiện tượng đa nghĩa,  <br /> hiện tượng đồng âm nên chưa xác định đúng khi gặp trong văn bản.  Ngoài ra, hiện <br /> tượng đa nghĩa trong ba đoạn trích của tác phẩm “Truyện Kiều” (trong chương trình <br /> ngữ văn 9) còn ít nên giáo viên phải tìm tòi, củng cố, khắc sâu và nâng cao thêm kiến <br /> thức cho học sinh. Điều đó đòi hỏi người giáo viên cần đầu tư  thời gian, công sức,  <br /> tài liệu tham khảo nhiều hơn cho các bài giảng của bản thân.<br />      ­  Thứ  ba, với việc học sinh không học bài, làm bài trước khi đến lớp và không  <br /> khắc sâu được kiến thức đã học, đồng thời không đầu tư  vào bài học còn khá phổ  <br /> biến. Chính việc học sinh không đầu tư vào bài soạn nên không khắc sâu được kiến <br /> thức, thường nhầm lẫn giữa hai hiện tượng trên. Tuy nhiên, với đề tài này tôi muốn  <br /> đề  cập  ở  đây chính là một phương pháp học hiệu quả, với cách phân biệt hai hiện  <br /> tượng này bắt buộc học sinh phải có sự  hiểu sâu về  vấn đề  được học đồng thời <br /> biết vận dụng nó một cách linh hoạt vào trong giao tiếp. Học phải biết ghi nhớ các <br /> điểm chính, các từ  chủ  điểm rồi từ  đó suy ra những vấn đề  nhỏ  hơn và hiểu rằng <br /> mình đang học cái gì. Cách ghi nhớ này giúp cho những thông tin cần thiết được lưu <br /> lại trong não một cách hệ thống và được sử dụng có hiệu quả trong những ngữ cảnh <br /> phù hợp. Vì vậy, thông qua SKKN này tôi muốn giúp học sinh khắc sâu, phân biệt  <br /> hiện tượng đồng âm với hiện tượng đa nghĩa này trong việc tạo lập văn bản cũng <br /> như trên thực tế đời sống. <br />   ­ Thứ tư, đối với phần lớn học sinh thì việc học môn Ngữ Văn là một điều gì đó các  <br /> em bị bắt buộc phải làm chứ các em không hề muốn. Học Ngữ Văn lúc này đối với <br /> học sinh là một nghĩa vụ, và chính điều đó khiến cho các em cảm thấy không thoải <br /> mái khi học. Đây chính là thử thách đầu tiên và cũng là lớn nhất mà một người dạy  <br /> lẫn người học môn Ngữ  Văn phải đối mặt, bởi vì khi một người không thích học  <br /> Ngữ Văn thì chắc chắn sẽ không thể học nó tốt được. Chính vì vậy trách nhiệm của <br /> người giáo viên dạy là phải tìm ra những phương pháp dạy học thích hợp nhằm khơi  <br /> gợi niềm đam mê của học sinh, để  các em nhận ra rằng:  Nếu muốn trở  thành một <br /> người công dân tốt, có cảm xúc và biết yêu thương, thì cần phải quan tâm đến bản <br /> thân chính quá trình học môn Ngữ Văn của mình.<br />     ­ Thứ năm, với cuộc sống ngày càng hiện đại hiện nay, trò chơi càng nhiều làm  <br /> ảnh hưởng đến tinh thần học tập của học sinh.  Cho nên, giáo viên đóng vai trò quan <br /> trọng trong việc tạo sự  lôi cuốn học sinh trong từng tiết dạy.  Từ  đó, giáo viên cần <br /> phải luôn tìm hiểu cập nhật những kiến thức mới để tạo ra sự hứng thú đối với học  <br /> sinh. Với sáng kiến kinh nghiệm này, chúng ta có thể xây dựng những bài tập nhanh  <br /> với hình  ảnh hấp dẫn để  thu hút học sinh phân biệt giữa hai hiện tượng vừa chơi  <br /> vừa học nhưng hiệu quả thu lại rất cao. <br /> II.3. Giải pháp, biện pháp: <br /> a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:<br />       Thông qua sáng kiến này, bản thân cố  gắng giúp học sinh phân biệt được hiện  <br /> tượng đa nghĩa với hiện tượng đồng âm của ngôn ngữ: nắm vững cấu tạo, phân loại <br /> đặc điểm của từng loại để tránh tình trạng dùng sai, dùng không đúng văn cảnh. Từ <br /> <br /> <br /> 6<br /> đó giúp học sinh vận dụng nhuần nhuyễn, thích hợp từ  nhiều nghĩa trong bài viết <br /> cũng như trong giao tiếp hàng ngày.<br /> b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:<br /> b.1. Hiện tượng đa nghĩa <br />    Khái niệm từ đa nghĩa: <br />        Từ  đa nghĩa (từ  nhiều nghĩa) là những từ  có một số  nghĩa biểu thị  những đặc <br /> điểm, <br /> thuộc tính khác nhau của một đối tượng, hoặc biểu thị những đối tượng khác nhau <br /> của thực tại. <br />      Hay: Một từ  với một hình thức ngữ  âm nhưng có thể  gọi tên nhiều sự  vật, hiện  <br /> tượng, biểu thị nhiều khái niệm khác nhau trong thực tế khách quan thì được gọi là  <br /> từ đa nghĩa.<br />      Ví dụ: Từ đi trong tiếng Việt là một từ đa nghĩa, nó vừa có nghĩa chỉ dịch chuyển  <br /> bằng hai chi dưới  (Tôi đi rất nhanh nhưng vẫn không đuổi kịp anh ấy) vừa có nghĩa <br /> chỉ một người nào đó đã chết (Anh ấy ra đi mà không kịp nói lời trăng trối.) <br />   Cần phân biệt hiện tượng đa nghĩa và hiện tượng đồng âm:<br />      Có thể hiểu từ đa nghĩa là một từ nhưng có nhiều nét nghĩa và các nét nghĩa đó có  <br /> mối liên hệ  với nhau, còn từ  đồng âm là những từ có hình thức ngữ  âm ngẫu nhiên  <br /> giống nhau nhưng hoàn toàn khác nhau về nghĩa và các nét nghĩa đó không có bất kì <br /> một mối liên hệ nào.<br />        Ví dụ:                       “Bà già đi chợ Cầu Đông<br /> Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng?<br /> Thầy bói gieo quẻ nói rằng:<br />                           Lợi thì có lợi nhưng răng không còn.”          (Ca dao)<br />       Từ “ lợi” trong ví dụ trên là từ đồng âm vì 2 từ “ lợi” ở 2 câu hoàn toàn khác nhau <br /> về ý nghĩa. Từ “lợi” trong câu đầu là tính từ chỉ lợi ích (trái với hại), còn “lợi” ở câu <br /> 2 là danh từ  chỉ  bộ  phận trong khoang miệng, đó là phần thịt bao quanh chân răng,  <br /> giữ cho răng vững chắc.<br />        Như  vậy, việc phân biệt hiện tượng đa nghĩa và hiện tượng đồng âm là một  <br /> điều cần thiết trong việc sử dụng ngôn ngữ.<br />    Nguyên nhân biến đổi nghĩa của từ thành từ đa nghĩa:<br />     ­ Nhu cầu giao tiếp: Do nhu cầu giao tiếp ngày càng đa dạng và phức tạp của con  <br /> người mà ngôn ngữ là một phương tiện cần phải bám sát để  thỏa mãn nhu cầu đó. <br /> Số lượng từ có hạn trong khi nhu cầu biểu thị nội dung ý nghĩa lại vô hạn và không  <br /> thể  tính hết. Nếu số  lượng đơn vị  từ  tăng lên quá nhiều sẽ  vượt quá khả  năng ghi  <br /> nhớ  của con người. Vì vậy, để  khắc phục mâu thuẫn trên và để  tuân thủ  quy luật  <br /> tiết kiệm hình thức ngôn ngữ, tiếng Việt đã phát triển theo hướng dùng cái tối thiểu  <br /> của hình thức để biểu đạt tối đa nội dung. Quá trình này đã tạo ra các từ đa nghĩa.<br />   ­ Từ phản ánh sự vật và các thuộc tính sự vật trở thành nét nghĩa của từ: Hệ <br /> quả tất yếu là khi các thuộc tính của sự vật được từ gọi tên thay đổi sẽ kéo theo sự <br /> thay đổi về  nghĩa của từ. Ví dụ:  Thẻ: trước đây, khi chưa phát minh ra giấy viết <br /> nghĩa là “mảnh tre, gỗ được dùng để viết chữ” và chuyển sang hai nghĩa khác là “đồ <br /> 7<br /> dùng trong nghề  mê tín, dị  đoan” (xin  thẻ  ở  đền) và nghĩa “mảnh xương, ngà ghi <br /> chức tước mà các quan đeo ở ngực”. Đến nay thì từ   thẻ có nghĩa “giấy chứng nhận <br /> tư cách thành viên của một tổ chức nào đấy” (thẻ hội viên,…)<br />   ­ Do nhu cầu tạo ra những tên gọi mới: Để biểu thị những sự vật mới hình thành <br /> thì các tên gọi cũ không còn gây ấn tượng. Khi tên gọi mới được hình thành, tên gọi  <br /> này vừa mang nghĩa cũ lẫn nghĩa mới. Ví dụ: mạng nhện ­ mạng internet.<br />  Đặc điểm của từ đa nghĩa:<br />    ­ Tính tiết kiệm – tính tần số sử dụng cao: Ngôn ngữ có quy luật tiết kiệm vô <br /> cùng kì diệu: dùng cái hữu hạn để biểu hiện cái vô hạn. Về mặt từ vựng, quy luật  <br /> tiết kiệm của ngôn ngữ thể hiện ở chỗ: cùng một hình thức ngữ âm có thể diễn đạt  <br /> nhiều nội dung khác nhau. Do đó từ  đa nghĩa là những từ  có tần số  xuất hiện cao, <br /> được sử dụng nhiều nhất trong đời sống ngôn ngữ.<br />   ­ Tính nhiều nghĩa gắn liền với tính hệ  thống: Các nét nghĩa trong từ đa nghĩa <br /> không tồn tại đơn lẻ, cô lập mà thường có quan hệ với nhau. Các nét nghĩa trong từ <br /> đa nghĩa tập hợp với nhau thành ra một tổng thể các nét nghĩa có số  lượng lớn hơn <br /> hai, có quan hệ  qua lại, quy định lẫn nhau và tổ  chức thành một chỉnh thể.  Nằm <br /> trong hệ  thống ý nghĩa của từ  đa nghĩa, các nét nghĩa luôn luôn có một giá trị  nhất  <br /> định. <br />    ­ Tính nhiều nghĩa gắn liền với tính cấu trúc: Quan hệ giữa các nét nghĩa trong <br /> hệ thống ý nghĩa của từ đa nghĩa tạo thành cấu trúc của hệ thống ý nghĩa trong từ đa <br /> nghĩa. Các quan hệ trong hệ thống cấu trúc từ đa nghĩa cũng có nhiều loại khác nhau. <br />  b.2. Tiêu chí và phân loại các kiểu ý nghĩa của từ đa nghĩa<br />      Các ý nghĩa khác nhau của một từ đa nghĩa không tồn tại rời rạc mà quan hệ, quy  <br /> định lẫn nhau tạo thành một kết cấu. Nghiên cứu kết cấu ý nghĩa của từ  cần phải  <br /> tách ra các ý nghĩa khác nhau của nó. Có nhiều cách phân loại ý nghĩa của từ  đa <br /> nghĩa.<br /> b.2.1. Cách phân loại nghĩa truyền thống<br />  Phân loại nghĩa từ theo lịch đại:<br />        Quan điểm này nhìn nhận nghĩa của từ trong tiến trình phát sinh, phát triển của  <br /> nó trong lịch sử và thời gian. Do đó, người ta phân định thành các cặp nghĩa:<br />   ­ Nghĩa cổ và nghĩa mới: <br />       Nghĩa cổ là nghĩa đầu tiên của từ, nghĩa này ít được dùng ở thời điểm hiện tại, <br /> có khi bị loại hẳn trong giao tiếp hiện nay. Thường thì nghĩa cổ chỉ được dùng trong  <br /> những văn bản mà tác giả có dụng ý tái hiện lại không khí cổ kính của câu chuyện. <br />        Nghĩa mới là loại nghĩa xuất hiện sau này của từ, nghĩa mới được nhiều người <br /> biết <br /> đến và sử dụng rộng rãi hơn nghĩa cổ.<br />  Ví dụ: từ  thẻ có nghĩa gốc là chỉ mảnh tre dài, hẹp, mỏng, dùng để viết chữ vào  <br /> đó (khi chưa có giấy viết); hoặc nghĩa cổ  khác là thẻ  ngà có ý nghĩa là vật chứng  <br /> nhận địa vị xã hội của quan lại phong kiến dùng đeo trước ngực. Còn hiện nay nghĩa <br /> đó được sử dụng với nghĩa mới như: thẻ đảng viên, thẻ sinh viên,… với ý nghĩa giấy <br /> chứng nhận.<br /> 8<br /> ­ Nghĩa gốc và nghĩa chuyển:<br />      Nghĩa gốc là nghĩa đầu tiên của từ, là khái niệm đầu tiên mà từ  biểu thị. Nghĩa <br /> chuyển là nghĩa phát sinh từ  nghĩa gốc, có thể  suy ra từ  nghĩa gốc. Nghĩa gốc và <br /> nghĩa chuyển có mối liên hệ với nhau.<br />                            Nghĩa gốc: mùa đầu tiên của một năm (từ tháng giêng đến tháng ba)<br /> Ví dụ: Xuân         Nghĩa chuyển: tuổi trẻ, sức khỏe, một năm (tuổi xuân, sức xuân)<br />  Phân loại nghĩa từ theo đồng đại:<br />       Ta xem xét nghĩa của từ trong trạng thái hoạt động hiện thời của chúng để xác  <br /> lập nội dung mà từ gợi ra. Theo đó, người ta chia ra các cặp nghĩa sau:<br />   ­ Nghĩa trực tiếp và nghĩa gián tiếp:<br />       Nghĩa trực tiếp là nghĩa phản ánh sự  vật, hiện tượng một cách trực tiếp không  <br /> thông qua ý nghĩa nào khác của từ này.<br />       Nghĩa gián tiếp là ý nghĩa phản ánh đối tượng gián tiếp thông qua những nét ý  <br /> nghĩa khác.<br />      Ví dụ: Từ chân chỉ bộ phận để đi, chi dưới của động vật là nghĩa trực tiếp vì nó  <br /> trực tiếp phản ánh đối tượng và người ta không giải thích được vì sao từ  chân lại có <br /> ý nghĩa đó. Ngược lại, các ý nghĩa khác của từ này như: chân tường, chân trời, chân  <br /> đồi… là nghĩa gián tiếp vì có thể giải thích được thông qua ý nghĩa trực tiếp trên.<br />  ­ Nghĩa thông thường và nghĩa thuật ngữ: Phản ánh trình độ nhận thức khác nhau <br /> đối với sự vật, hiện tượng, đủ để có thể phân biệt những đối tượng cùng loại được <br /> khái quát trong ý nghĩa đó đối với những đối tượng khác.<br />      Nghĩa thuật ngữ phản ánh những thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng.<br />     Nghĩa thông thường: chất lỏng nói chung<br /> Ví dụ: Nước           Nghĩa thuật ngữ: hợp chất của hydro và oxy<br />  ­ Nghĩa đen và nghĩa bóng: <br />          Nghĩa đen là loại nghĩa có thể  nhận thức được một cách trực tiếp cảm tính, <br /> không phải trải qua các bước luận lí phức tạp.<br />      Nghĩa bóng là loại nghĩa được suy ra từ nghĩa đen được hiểu một cách trừu tượng  <br /> thường thông qua phương thức  ẩn dụ. Hai loại này có mối liên hệ  với nhau về <br /> nghĩa.<br />  Nghĩa đen: là một loại kim loại quý<br /> Ví dụ:  Vàng            Nghĩa bóng: chỉ nhân cách cao quý<br />                                  (Bác ấy đúng là người có tấm lòng vàng.) <br /> ­ Nghĩa chính và nghĩa phụ:<br />     Nghĩa chính là nghĩa cơ bản, làm nền tảng cho sự phát triển nghĩa của từ, ít phụ <br /> thuộc vào văn cảnh. Nghĩa chính là nghĩa được nhiều người biết đến và được sử <br /> dụng trong phạm vi rộng rãi, phổ biến.<br />     Nghĩa phụ là nghĩa chỉ sử dụng trong một số trường hợp hạn chế, nhất định.<br />       Nghĩa chính của từ  có thể  trùng với nghĩa gốc. Song có khi nghĩa chính của từ <br /> trong một giai đoạn nhất định lại là nghĩa nhánh, là nghĩa phụ ở một giai đoạn khác.<br />       Ví dụ: Từ chân nghĩa “chi dưới của động vật”, từ chín nghĩa “chỉ trạng thái của <br /> quả <br /> 9<br /> cây” là nghĩa chính. Các nghĩa khác còn lại của hai từ trên là các nghĩa phụ.<br /> ­ Nghĩa ổn định và nghĩa lâm thời:<br />      Nghĩa lâm thời chỉ được sử dụng trong một thời gian, sau đó chúng lại mất đi và <br /> không được sử dụng nữa. Nghĩa lâm thời chính là nghĩa văn cảnh, nghĩa văn chương  <br /> được xét ở một góc độ khác, một tiêu chí khác.<br />       Ví dụ:<br />                                  Nghĩa ổn định: cơ quan sinh sản của cây hạt kín,<br />               Hoa  thường có màu sắc và hương thơm.<br />                                 Nghĩa lâm thời: chỉ Thúy Kiều trong câu thơ sau:<br /> “Rộng thương cỏ nội hoa hèn<br /> Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau”<br /> b.2.2. Cách phân loại nghĩa từ hiện đại:<br />  Nghĩa biểu vật:  Là thành phần nghĩa biểu thị  và giới hạn phạm vi sự  vật  <br /> miêu tả hoặc đề cập tới. Từ có thể mang một nghĩa biểu vật, hoặc nhiều nghĩa biểu  <br /> vật. <br /> Ví dụ: Từ chín có các nghĩa biểu vật sau:<br /> 1. Quả, cây đã đến thời kì phát triển cao nhất: Quả chín, lúa chín.<br /> 2. Nấu thức ăn đến lúc ăn được: Cơm chín, thịt chín<br /> 3. Suy nghĩ kĩ, đầy đủ: Nghĩ đã chín mới nói.<br /> 4. Phát triển đến cao độ cần giải quyết: Tình hình xung đột đã chín lắm rồi.<br /> 5. Trạng thái hổ thẹn làm da mặt đỏ rực: Ngượng chín cả người.<br />       Như thế, căn cứ để xác định tính nhiều nghĩa biểu vật của từ là các phạm vi sự <br /> vật hiện tượng khác nhau được từ biểu thị.<br />  Nghĩa biểu niệm: Là thành phần nghĩa trung tâm cơ  bản của một từ. Nghĩa  <br /> biểu niệm phản ánh những hiểu biết của con người về  những thuộc tính bản chất <br /> của sự  vật, hiện tượng trong thực tế  khách quan. Nghĩa biểu niệm thường tồn tại <br /> dưới dạng một cấu trúc. Nó có thể phân chia được thành từng phần nhỏ. Mỗi phần  <br /> nhỏ  là một nét nghĩa. Ví dụ: Đi (hoạt động dời chỗ  từ A đến B), (bằng chân), (tốc <br /> độ bình thường), (tư thế thân mình thẳng), (hai chân không đồng thời nhấc lên khỏi <br /> mặt đất).<br />   Nghĩa biểu cảm: Là tập hợp tất cả những sắc thái đánh giá góp phần bộc lộ <br /> trạng thái tâm lí, tình cảm và sự  đánh giá chủ  quan của cá nhân người nói trước  <br /> người nghe và trước đối tượng được nói đến. Ví dụ: chết, hi sinh,… đều cùng nghĩa <br /> biểu vật nhưng khác nhau về nghĩa biểu cảm.<br /> ­ Ông ta đã chết tối qua rồi. (Sắc thái trung hòa)<br /> ­ Anh ấy đã hi sinh vì Tổ quốc. (Sắc thái trang trọng)<br /> b.2.3. Phương thức chuyển nghĩa của từ đa nghĩa:<br />       Hai phương thức chuyển nghĩa phổ biến nhất trong tất cả các ngôn ngữ trên thế <br /> giới là  ẩn dụ  và hoán dụ. Để  phân biệt với  ẩn dụ  tu từ  và hoán dụ  tu từ  là hai  <br /> phương thức chuyến nghĩa lâm thời trong văn chương thì chúng ta nên gọi đó là  ẩn <br /> dụ từ vựng và hoán dụ từ vựng.<br /> <br /> <br /> 10<br />  Ẩn dụ từ vựng:  Là phương thức chuyển đổi tên gọi giữa sự vật A và sự  vật <br /> B, (hai sự vật này thường không có quan hệ khách quan với nhau). Sự chuyển tên gọi <br /> này được thực hiện bằng phép so sánh liên tưởng thông qua sự  nhận thức về  sự so  <br /> sánh mang tính chất chủ quan và tư duy liên tưởng của con người.  Ẩn dụ từ vựng có <br /> thể được thiết lập dựa trên sự tương đồng giữa hai sự vật trên các mặt sau:<br />   ­ Ẩn dụ  hình thức: Là ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về hình thức giữa các sự <br /> vật, <br /> hiện tượng. Đây là sản phẩm của tư duy cảm tính trực quan và nó xuất hiện với tần  <br /> số cao trong lời nói. Ví dụ: mũi người ­ mũi thuyền ­ mũi kim…<br />    ­ Ẩn dụ vị trí: Là ẩn dụ dựa vào sự giống nhau, sự tương quan về vị trí giữa các <br /> sự  vật, hiện tượng.  Ví dụ:  chân người, chân bàn, chân  đồi  (đều là bộ  phận dưới <br /> cùng trong tương quan cấu tạo của cái toàn thể).<br />     ­ Ẩn dụ cách thức: Là ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về cách thức thực hiện giữa  <br /> các hoạt động của sự  vật hiện tượng. Ví dụ: Tôi về  thăm quê ­ lũ về (đều là hoạt <br /> động di chuyển trở lại vị trí cũ)<br />    ­ Ẩn dụ về tính chất bổ sung: Là ẩn dụ dùng tên gọi của những cảm giác thuộc <br /> giác quan này để gọi tên những cảm giác của giác quan khác. <br /> Ví dụ: chua, ngọt, cay,… là những cảm giác của vị giác được dùng để  gọi các cảm <br /> giác, thính giác: lời nói ngọt, giọng nói chua loét, nói cay quá...<br />    ­ Ẩn dụ  thuộc tính, tính chất: là những  ẩn dụ  dựa vào sự  giống nhau về  thuộc <br /> tính, tính chất giữa các sự vật, hiện tượng. Ví dụ: đất khô, tình cảm khô,…<br />  Hoán dụ  từ  vựng:  Là phương thức chuyển đổi tên gọi giữa sự  vật A và sự <br /> vật B (hai sự vật này có quan hệ khách quan với nhau). Sự chuyển tên gọi này được <br /> thực hiện bằng phép liên tưởng dựa vào các đặc điểm tương cận, gần gũi nhau giữa <br /> các sự  vật, hiện tượng trong thực tế khách quan thông qua sự  nhận thức và tư  duy  <br /> liên tưởng của con người. Sự  so sánh và liên tưởng này không tùy thuộc nhiều vào  <br /> sự nhận thức chủ quan mà có tính chất khách quan nhiều hơn phương thức ẩn dụ.<br />       Dựa vào sự  quan hệ  nhau của sự  vật, hiện tượng mà ta có thể  chia hoán dụ  từ <br /> vựng ra thành các kiểu khác nhau sau: <br />    ­ Hoán dụ  từ  vựng dựa trên quan hệ  bộ  phận và toàn thể  hoặc chỉnh thể  và bộ <br /> phận của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: một ngày công, một đêm văn nghệ…<br />   ­ Hoán dụ từ vựng dựa trên quan hệ các đơn vị  thời gian nhỏ  với đơn vị  thời gian <br /> lớn. Ví dụ: xuân, hạ, thu… để chỉ năm.<br />   ­ Hoán dụ từ vựng dựa trên quan hệ vật chứa và vật bị chứa. Ví dụ: cả làng…, cả  <br /> nhà…, lớp ta đã giật giải… <br />    ­ Hoán dụ  từ  vựng dựa trên quan hệ  vật chứa và lượng chất được chứa. Ví dụ:  <br /> rương quần áo, tủ vải vóc…<br /> b.3. Hiện tượng đa nghĩa trong một số đoạn trích của “Truyện Kiều”:<br />      Trong “Truyện Kiều” số lượng từ đa nghĩa chỉ có khoảng trên 10 từ nhưng tần số <br /> sử dụng của mỗi từ lại tương đối nhiều. Hiện tượng đa nghĩa chủ yếu ở từ đơn và <br /> thuộc từ loại danh từ, tính từ. Ngoài những từ có tần số xuất hiện ít như: lộc, lành,<br /> … thì những từ  còn lại: bạc, hoa, xuân, lòng, được xuất hiện khá nhiều. Mỗi từ đa <br /> <br /> 11<br /> nghĩa lại được thi hào đặt vào từng văn cảnh, từng câu thơ  tạo ra những nét nghĩa <br /> mang những giá trị biểu đạt khác nhau. <br /> b.3.1. Biểu hiện của từ đa nghĩa trong một số đoạn trích của “Truyện Kiều”<br />   Xuân<br />   ­ Nghĩa gốc: Trước hết, cần phải phân biệt rõ ràng hai từ  xuân mà Nguyễn Du đã <br /> sử dụng trong “Truyện Kiều”. Thi hào đã sử dụng hai chữ  xuân khác nhau hoàn toàn <br /> về nghĩa và đó được xem là hiện tượng đồng âm chứ không phải là từ đa nghĩa.<br />     + Từ  xuân thứ nhất, đó là từ  xuân mà nghĩa của nó chỉ cây xuân. Cây xuân thuộc  <br /> loại như cây xoan, thân cây to, gỗ cứng và theo sách Trang tử chép thì đời thượng cổ <br /> có   thứ   cây   xuân   sống   lâu,   mùa   xuân   của   nó   đến   tám   nghìn   năm.   Vì   vậy,   trong <br /> “Truyện Kiều”, nhà thơ Nguyễn Du đã dùng mười một lần từ xuân này kết hợp với <br /> một yếu tố khác để chỉ đấng sinh thành như trong các câu thơ sau:<br />            Xuân và huyên để gọi hai đấng sinh thành:<br /> Xót thay huyên cỗi xuân già,<br />    Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi?  <br />     Dùng để  nói đến cha mẹ  của Thúy Kiều nhưng được dùng với phương thức  ẩn <br /> dụ:<br /> Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,<br />      Liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân <br />       Ba xuân có nghĩa là con cái báo đáp cho cha mẹ như cây cỏ đền bồi mùa xuân.  <br /> Như vậy, từ  xuân trên là để nói đến cha mẹ, nói đến tuổi già hay sức khỏe của cha  <br /> mẹ đã già yếu và nghĩa của nó không hề liên quan đến từ xuân sau đây.<br />     + Từ  xuân thứ hai với nét nghĩa gốc là chỉ mùa xuân, mùa đầu tiên trong năm bắt <br /> đầu từ  tháng 1 đến hết tháng 3 và đây là từ  xuân mà chúng ta cần quan tâm làm rõ <br /> tính đa nghĩa của nó. Mùa xuân là mùa cây cối đâm chồi, nảy lộc, và là mùa mà cảnh  <br /> vật, thiên nhiên trở nên tươi tốt, căng đầy sức sống. Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn  <br /> Du đã 41 lần dùng từ xuân, trong đó 22 lần từ xuân xuất hiện với nét nghĩa gốc này. <br />       Cũng như các nhà thơ khác, thi hào đã sử dụng từ  xuân với nét nghĩa vốn có của <br /> từ  để  miêu tả  ngày xuân với những hình  ảnh, không khí của mùa xuân. Chắc hẳn  <br /> không ai xa lạ gì với bức tranh tả cảnh mùa xuân trong sáng và thanh khiết ở những  <br /> câu thơ trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” – Truyện Kiều:<br /> “Ngày xuân con én đưa thoi,<br /> Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.<br /> Cỏ non xanh tận chân trời,<br />                 Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”     (9) <br />       Chị em Thúy Kiều đi chơi Thanh minh vào một ngày xuân. Mùa xuân là mùa đẹp  <br /> nhất trong một năm; mùa xuân có ba tháng. Do đó, bức tranh thiên nhiên đã được vẽ <br /> lên với những gam màu thật trong sáng: màu cỏ  non xanh mơn mởn và màu trắng  <br /> tinh khiết của hoa lê. Nguyễn Du đã gieo vào lòng người cảm giác say mê, đầy sức  <br /> sống trước cảnh đẹp của đất trời vào những ngày đầu của tháng cuối xuân. Khi  <br /> <br /> <br /> 12<br /> nhắc đến mùa xuân trong mỗi chúng ta đều liên tưởng đến bức tranh tuyệt mĩ  ấy <br /> của Nguyễn Du. Hay câu thơ sau:<br /> Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân. (9)<br /> Xuân lan, thu cúc mặn mà cả hai. <br />       Mùa xuân và mùa thu là hai mùa đẹp nhất trong năm. Nếu mùa xuân trăm hoa đua  <br /> nở, có hoa lan nổi bật lên đẹp rạng rỡ, thì vào mùa thu thiên nhiên, hoa lá lại mang <br /> vẻ đẹp khác với hoa cúc giản dị, mà không hề kém phần xinh tươi. Mỗi mùa đều có <br /> mỗi loại hoa quý, ví như  Thúy Kiều, Thúy Vân hai người con gái xinh đẹp, tài sắc <br /> vẹn toàn. <br />       Xuân­ một từ đa nghĩa được sử  dụng khá phổ  biến trong văn chương cùng với  <br /> các nét nghĩa vốn có của nó. Chỉ  một chữ  xuân thôi cũng đủ  để  nhà thơ  khái quát, <br /> phản ánh được tâm trạng, gợi lên không khí tươi vui, nhộn nhịp của cuộc sống.  <br /> Chẳng thế  mà các thi sĩ của chúng ta đã gọi mùa xuân, nâng niu và khao khát mùa  <br /> xuân đến như thế. Tố Hữu đã từng gọi mùa xuân rất thân mật với đại từ “em”:<br /> Xuân ơi xuân, em mới đến dăm năm,<br /> Mà cuộc sống đã tưng bừng ngày hội.  <br />                                            (Tố Hữu – “Bài ca mùa xuân 1961”)<br />        Nhà thơ  chào đón, ca ngợi mùa xuân của thiên nhiên, của dựng xây, của hạnh  <br /> phúc, lần đầu tiên trong thơ  mùa xuân của đất nước được gọi là “em”. Hay nhà ái <br /> quốc Phan Bội Châu sau hơn ba mươi năm hoạt động cách mạng, phải trở về khuây  <br /> “với bạn đầu xanh” cũng than thở với mùa xuân:<br /> Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng?<br /> Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng.<br />                               (Phan Bội Châu ­ “Bài ca chúc tết thanh niên”)<br />        Quy luật của tự nhiên là thế  nhưng không ai là không tiếc mùa xuân, ngay nhà <br /> thơ Xuân Diệu dẫu trẻ trung, sôi nổi đến như vậy nhưng cũng không sao nguôi được <br /> niềm than tiếc hoài xuân:<br /> Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,<br /> Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.<br />                                     (Xuân Diệu – “Vội vàng”)<br />        Nói như vậy, để từ đó chúng ta mới tìm hiểu xem một đại thi hào đã đưa mùa  <br /> xuân vào trong “Truyện Kiều” và cảm nhận về  mùa xuân như  thế  nào? Với chữ <br /> xuân Nguyễn Du đã tinh dụng ra sao?<br />  ­ Nghĩa chuyển:<br />   + Chỉ niềm vui, hạnh phúc: Mùa xuân đẹp, trong xanh, tinh khiết là thế nên mỗi <br /> khi đông qua xuân đến như hứa hẹn bao điều tốt lành, hạnh phúc cho một năm mới.  <br /> Vì vậy mà Nguyễn Du thường hay sử dụng từ  xuân đi kèm một danh từ  nào đó thì <br /> nghĩa của từ đó luôn gợi cho ta một cảm giác thoải mái, sự vui vẻ, những gì tốt đẹp <br /> và may mắn nhất.<br /> “Một tường tuyết trở sương che,<br />      Tin xuân đâu dễ đi về cho năng!”     <br /> <br /> 13<br /> “Tin xuân” là những tin vui, tin tốt lành của người yêu.<br />    Hay từ  xuân trong: đêm xuân, giấc xuân:<br /> Thuý Vân chợt tỉnh giấc xuân,<br /> Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:  <br />       Đêm xuân, giấc xuân nhà thơ muốn nói đến một đêm an lành, có một giấc ngủ <br /> ngon không phải suy nghĩ về điều gì. Trước tai biến của gia đình, Thúy Kiều đang lo <br /> lắng không thể chợp mắt được thì Thúy Vân vẫn vô tư, vẫn có một giấc ngủ ngon. <br />   + Chỉ tuổi trẻ, sắc đẹp: Như đã nói ở trên, quy luật tuần hoàn xuân đến, xuân đi <br /> nên ai ai cũng có lúc đón mùa xuân đến mà lòng cảm thấy xao xuyến vì mình đang  <br /> thêm một tuổi mới, thêm già đi rồi tuổi trẻ, nhan sắc cũng dần phai tàn theo thời <br /> gian. Do đó, xuân còn chỉ tuổi trẻ, nhan sắc và điều này càng có ý nghĩa quan trọng <br /> hơn đối với người phụ nữ. Nét nghĩa này được thi hào dùng trong câu thơ sau:<br /> Ngày xuân em hãy còn dài,<br />            Xót tình máu mủ, thay lời nước non.      (9)<br />          Vẫn là chữ  xuân  đó nhưng  ở  hai câu thơ  trên lại dùng phương thức hoán dụ, <br /> Nguyễn Du đã dùng từ  ngày xuân để  nói đến tuổi trẻ  và sắc đẹp. Sau buổi đi hội <br /> Đạp thanh và gặp mộ Đạm Tiên thì Thúy Kiều đã dự  đoán được kiếp đoạn trường <br /> của mình sẽ bắt đầu từ đây. Số mệnh của nàng như đã được an bài trước và khi gia  <br /> đình gặp tai biến nàng đã phải trao duyên cho Thúy Vân. Nàng muốn Thúy Vân thay <br /> mình để  nối duyên với chàng Kim, thực hiện lời thề  hẹn trăm năm giữa Kiều và <br /> Kim Trọng. Rồi ở một số trường hợp khác Nguyễn Du cũng đã sử dụng từ xuân với <br /> nghĩa này như:<br /> Phong lưu rất mực hồng quần,<br /> Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.  (9)<br />     Hay ngày Vương ông, Vương bà gặp lại đứa con gái hiếu thảo sau mười lăm năm  <br /> thì niềm vui khôn xiết khi thấy con gái mình nay vẫn còn sống khỏe mạnh nhưng  <br /> cũng vô cùng đau lòng, xót xa cho sự hao gầy của con gái.<br /> Bấy chầy dãi nguyệt, dầu hoa,<br />  Mười phần xuân, có gầy ba bốn phần. <br />      Thúy Kiều “phận liễu yếu đào tơ” trải qua mười lăm năm lưu lạc “thanh lâu hai  <br /> lượt, thanh y hai lần” với biết bao đau khổ, ngậm đắng, nuốt cay trong nước mắt thì  <br /> nhan sắc, sự trẻ trung sao còn được nguyên vẹn như ngày trước.<br />  + Chỉ  tình yêu: Sự  tài tình nhất của Nguyễn Du là cách dùng chữ  dưới hình thức <br /> nghệ  thuật  ẩn dụ, hoán dụ  nhưng người đọc, người nghe vẫn có thể  cảm nhận  <br /> được  ẩn ý sâu xa đằng sau những chữ  nghĩa đó. Từ  xuân  tượng trưng cho sự  trẻ <br /> trung, cho cái đẹp như những câu thơ trên nhưng ở những trường hợp sau sự kết hợp  <br /> có phần phũ phàng hơn và xuân giờ lại ẩn chứa thêm một nét nghĩa khác. Có khi tác  <br /> giả dùng từ theo nghĩa thuần Việt: “tỏa” là cái khoá ; “xuân toả” hay “khoá xuân” là <br /> nơi giam giữ người con gái đẹp:<br /> Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,<br />  Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.  (9)<br /> <br /> 14<br />        Như  vậy, xuân  ở  đây đâu chỉ  là niềm vui, tuổi trẻ  nữa mà đó còn là tình yêu. <br /> Khóa xuân đó là nơi Kiều bị  giam giữ, trói buộc cả  về  thể  xác lẫn tâm hồn. Tình <br /> yêu, tuổi trẻ, sắc đẹp của nàng Kiều rồi cũng sẽ  lụi tàn nơi lầu xanh đó. Và để  rồi  <br /> những khi nhìn lại mình nàng cũng phải ngao ngán, thốt lên rằng:<br /> Những mình nào biết có xuân là gì!<br />      “Chữ trinh đáng giá nghìn vàng” kia khi nàng đã trao cho Mã Giám Sinh một tên vô <br /> học, không biết trân trọng điều đó khi “chơi cho liễu chán hoa chê” xong rồi thì hắn <br /> bán Kiều vào lầu xanh. Và những ngày nối tiếp, khi phải tiếp khách  ở  lầu xanh <br /> “Sớm đưa Tống ngọc, tối tìm Tràng Khanh” những cuộc vui suốt đêm ấy nàng biết  <br /> r
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2