intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh tích cực học môn Tập làm văn ở lớp 3

Chia sẻ: Trần Thị Tan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:18

103
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là Thực trạng việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh về phân môn Tập làm văn lớp 3 ở Trường Tiểu học hiện nay. Nghiên cứu tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giờ học tập làm văn ở lớp 3 với dạng bài: Nghe- kể lại chuyện; kể hay nói, viết về một chủ đề.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh tích cực học môn Tập làm văn ở lớp 3

  1. MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH TÍCH CỰC HỌC  MÔN TẬP LÀM VĂN Ở LỚP BA PHẦN I: MỞ ĐẦU I.1. Lý do chọn đề tài Ở  Tiểu học, môn Tiếng Việt có vai trò nền tảng cho học sinh trau dồi,   phát huy vốn ngôn ngữ, rèn cho học sinh kỹ năng sử dụng Tiếng Việt. Thực tế  cho thấy khả năng sử  dụng từ, đặt câu, viết văn của học sinh là  không đều nhau. Với chương trình giảng dạy hiện nay môn Tập làm văn được   đổi mới với nhiều thể loại: miêu tả, kể chuyện, thuật, tranh luận trao đổi, xây  dựng chương trình hoạt động, làm một số  văn bản hành chính (đơn từ), biên  bản. Điều này giúp học sinh tiến bộ về nhiều mặt, về khả năng vận dụng, sử  dụng ngôn ngữ Tiếng Việt. Tuy nhiên, việc dùng từ  ngữ đặt câu, viết văn của  các em còn nhiều hạn chế. Các em sử dụng dấu câu còn lúng túng, sai vị trí cho   nên khi đọc câu văn của các em trở  nên khó hiểu và tối nghĩa. Việc giao tiếp   của các em với thầy cô và bạn bè diễn ra tương đối tự  nhiên. Nhưng khi gặp   một vấn đề nào đó trong việc phải có từ ngữ, hình ảnh mới về một chủ đề nào  đó đang tìm hiểu thì các em lúng túng ngay. Đối với học sinh lớp Ba việc diễn   đạt ý, dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn của các em còn rất yếu do vốn từ  ngữ  còn hạn chế. Nhiều học sinh lo l ắng, s ợ s ệt khi h ọc ti ết T ập làm văn. Học sinh  không chủ động nắm bắt kiến thức, thiếu tự tin trong m ỗi ti ết h ọc,  ảnh h ưởng   đến quá trình học tập  ở  các lớp học cao hơn. Vấn đề  trên là mối trăn trở  của  tôi và rất nhiều giáo viên đứng lớp. Chính vì vậy mà tôi chọn đề  tài:  “Một số   kinh nghiệm giúp học sinh tích cực học môn Tập làm văn ở lớp Ba”.  Với hi  vọng giúp học sinh biết viết được các bài văn, đoạn văn có những từ ngữ, hình  ảnh sinh động, lưu loát và đúng theo chuẩn kiến thức kĩ năng của môn Tiếng   Việt, tự tin trong học tập, hoàn thành nhiệm vụ học tập, tiếp tục học tập  ở các   lớp cao hơn.  I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.  a. Mục tiêu của đề tài.          ­  Thực trạng việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh về  phân   môn Tập làm văn lớp 3 ở Trường Tiểu học hiện nay.        ­  Nghiên cứu tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giờ học tập   làm văn  ở  lớp 3  với dạng bài: Nghe­ kể  lại chuyện; kể  hay nói, viết về  một   chủ đề.         ­ Tìm hiểu các bài tập làm văn lớp 3 đã hình thành và rèn luyện cho học   sinh các kỹ  năng: quan sát các sự  vật, hiện tượng và trình bày lại kết quả  học  1
  2. tập bằng lời nói, bài viết,... vận dụng kiến thức  đã học vào cuộc sống,   góp  phần bồi dưỡng và phát triển  ở  học sinh kĩ năng sống như: ham học hỏi, tìm   hiểu, khám phá để biết về môi trường xung quanh các em; yêu thiên nhiên, con  người, quê hương đất nước; tôn trọng bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và văn hoá  gần gũi với cuộc sống xung quanh các em.            b. Nhiệm vụ của đề tài.       ­ Tìm hiểu thực trạng dạy và học phân môn tập làm văn lớp 3 hiện nay của  lớp 3C  trong trường tiểu học TH Tây Phong và tìm ra những  biện pháp tháo gỡ  những khó khăn của giáo viên và học sinh.      ­ Đưa ra những giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn để đạt được kết  quả tốt trong việc dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 3   I.3. Đối tượng nghiên cứu.    Đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 3C của Trường TH Tây Phong và  tập thể giáo viên khối 3 năm học 2014 – 2015   I.4. Phạm vi nghiên cứu.  ­ Đề  tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với việc: giúp  học sinh tích cực học môn Tập làm văn ở lớp Ba.  ­ Đề tài này tôi đã nghiên cứu và áp dụng qua thực tế giảng dạy tại các  lớp  khối 3 nơi tôi đang công tác hiện nay   I.5. Phương pháp nghiên cứu. Để thực hiện đề tài tôi đã sử dụng các phương pháp: + Phương pháp điều tra. + Phương pháp thu thập thông tin.       +  Phương pháp nghiên cứu tài liệu, lí luận.       +  Phương pháp phân tích, tổng hợp. PHẦN II : NỘI DUNG II.1. Cơ sở lí luận: Trong công cuộc đổi mới hiện nay, sự  phát triển Công nghiệp hoá­hiện  đại hoá đất nước cần phải có những con người năng động, sáng tạo, tự lực, tự  cường. Nhu cầu này đòi hỏi phải có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung Chương   trình, phương pháp giảng dạy ở bậc Tiểu học một cách phù hợp. Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặt ra là: “ giúp học sinh hình thành  những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ,  2
  3. phẩm chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học   cơ sở”. Tập làm văn là một trong những phân môn có vị  trí quan trọng của môn  Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những ki ến th ức   tổng hợp từ nhiều phân môn trong môn Tiếng Việt. Để  làm được một bài văn   không những học sinh phải sử dụng c ả b ốn k ỹ năng: nghe ­ nói ­ đọc ­ viết mà  còn phải vận dụng các kỹ năng về Tiếng Việt, về cuộc sống thực tiễn. Do đó  Tập làm văn là phân môn có tính ch ất tích h ợp c ủa các phân môn khác. Qua ti ết tập làm văn học sinh có khả năng xây d ựng m ột văn b ản đó là bài nói, bài vi ết. Nói và viết là những hình thức giao ti ếp r ất quan tr ọng, thông qua đó con ng ười thực hiện quá trình tư duy - chi ếm l ĩnh tri th ức, trao đổi t ư t ưởng, tình c ảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng h ợp tác trong cu ộc s ống lao động . Ngôn ngữ (dưới dạng nói - ngôn b ản và d ưới d ạng vi ết văn b ản) gi ữ vai trò quan trọng trong sự phát tri ển xã h ội. Chính vì v ậy h ướng d ẫn h ọc sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ n ặng n ề đó ph ụ thu ộc r ất lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn t ập làm văn nói riêng, cụ thể tìm hiểu ở đây là chương trình t ập làm văn l ớp 3.   II.1. Thực trạng Năm học 2014­ 2015 tôi được phân công dạy lớp 3C trường TH Tây Phong   với tổng số học sinh là: 21  em. Qua khảo sát đầu năm học phân môn Tập làm  văn các em đạt được như sau: ( Số bài đạt điểm giỏi: 0; khá: 2; TB: 5; yếu: 14)    Số  lỗi các em mắc phải thường là: câu văn chưa rõ ràng, dùng từ  chưa  chính xác còn lặp từ, vốn từ còn nghèo nàn, chấm câu chưa đúng vị trí.  Phân môn Tập làm văn dạy theo chương trình mới có nội dung phong phú   và đa dạng. Trong đó giáo viên chú trọng rèn luyện cho học sinh các kỹ  năng:  nghe, nói, đọc, viết. Nhằm phục vụ cho học tập và giao tiếp. Giáo viên cần có  biện pháp dạy học thích hợp nhằm phát huy tính chủ  động, sáng tạo của học  sinh trong hoạt động luyện tập thực hành, làm miệng, làm bài viết. Tuy nhiên  trong thực tế dạy học ở các trường giáo viên và học sinh còn có những hạn chế  sau: a. Thuận lợi, khó khăn. + Thuận lợi        ­ Giáo viên: Giáo viên luôn ý thức quan tâm, chăm chút học sinh trong từng tiết học.   Với mỗi loại bài tập, giáo viên đã nghiên cứu kĩ kế hoạch bài dạy để lựa chọn  và tổ chức những hình thức luyện tập sao cho phù hợp với đối tượng học sinh.   Với mỗi tiết dạy giáo viên ®· cã sù chuÈn bÞ chu ®¸o: Ph¬ng tiÖn, tµi 3
  4. liÖu, hÖ thèng c©u hái tõ dÔ ®Õn khã, ë nhiÒu møc ®é kh¸c nhau, cã nhiÒu d¹ng c©u hái kh¸c nhau. Giáo viên ®· nhÊn m¹nh ®îc thÓ lo¹i v¨n, kiÓu bµi, néi dung cña ®Ò bµi và chú ý khai thác có hiệu quả  ph¬ng ph¸p d¹y häc lÊy học sinh lµm trung t©m...          Bên cạnh đó, giáo viên luôn động viên khuyến khích, khen gợi ở học sinh   trí tưởng tượng, óc sáng tạo. Từ  đó kích thích được sự  tìm tòi ham học hỏi  ở  học sinh, hình thành thói quen học tập tốt phân môn Tập làm văn. Để giúp học   sinh viết được những bài văn hay, ý tưởng phong phú, sáng tạo giáo viên luôn   chú trọng rèn kĩ năng nói cho học sinh vì học sinh nói tốt sẽ  trình bày bài viết   tốt. Qua   các   phương   tiện  thông   tin  đại  chúng:   xem   đài,  đọc   sách   báo,   tài  liệu… giáo viên thường xuyên được tiếp cận với việc đổi mới phương pháp.       ­ Học sinh:  Nội dung chương trình môn Tiếng Việt nói chung và phân  môn Tập làm văn nói riêng rất phong phú; kênh hình Sách giáo khoa được trình  bày đẹp, phù hợp tâm sinh lí lứa tuổi các em.           Học sinh đã nắm vững kiến thức, kĩ năng  dùng từ  đặt câu, kĩ năng kể  chuyện, miêu tả  từ  các lớp dưới. Đây là cơ  sở  giúp các em học tốt phân môn   Tập làm văn lớp ba. + Khó khăn          Tập làm văn là phân môn khó so với các phân môn khác của môn Tiếng   Việt, vì vậy việc dạy – học ở phân môn này có những hạn chế nhất định. Trong việc rèn kĩ năng nói­viết cho học sinh, giáo viên có đầu tư  nghiên  cứu mục tiêu các tiết dạy để  lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ  chức  dạy học sao cho phù hợp từng đối tượng học sinh, nhưng sự đầu tư  chưa sâu   nên hiệu quả dạy học phân môn Tập làm văn chưa cao. Phần mở rộng vốn từ của giáo viên còn hạn chế. Khả năng diễn đạt ngôn  ngữ  chưa được trau chuốt: giáo viên còn “ bí từ” khi giảng; kiến thức bài còn  bó hẹp hoàn toàn trong sách giáo khoa và chỉ  biết hướng dẫn học sinh những   kiến thức có trong sách giáo khoa chưa chú trọng chốt nội dung khi dạy xong   một tiết học, một chủ  đề,...khi dạy cho học sinh về  một chủ  đề  nào đó giáo   viên chỉ có hướng dẫn học sinh hiểu nội dung các câu hỏi ở  sách giáo khoa và   trả  lời bằng miệng sau đó yêu cầu học sinh viết về  chủ  đề  đó. Do vậy mà  hiệu quả  của giờ  dạy chưa cao, học sinh ch ưa được rèn kĩ năng  nói, kĩ năng  viết, đặc biệt là những học sinh yếu. Đây là vấn đề  đòi hỏi giáo viên phải có  biện pháp thích hợp để tạo được hứng thú cho học sinh yêu thích học môn Tập  làm văn.    Học sinh  lớp 3 vốn ngôn ngữ  của các em chưa nhiều ,  các em  còn mải  chơi nhiều hơn học,việc tiếp thu bài còn thụ động, hơn thế nữa nội dung kiến   4
  5. thức của Tập làm văn tổng hợp các kĩ năng khó , nhiều em còn ngại đọc, viết,  nói, lười suy nghĩ, viết bài cho qua loa. Câu văn viết rời rạc, chưa liên kết, có  câu đã đủ  ý nhưng chưa có hình  ảnh, các từ  ngữ  được dùng về  nghĩa chưa rõ   ràng, viết đoạn còn nghèo ý. Một số  em còn mắc phải lỗi: lạc đề, chính tả,  dùng từ, viết câu, lỗi trình bày,... điều đó đã làm cho một số em không tích cực  khi học tiết Tập làm văn.  b. Thành công, hạn chế. ­ Thành công Sau khi thực hiện xong đề  tài, tôi nhận thấy thành công lớn nhất là học   sinh đã có hứng thú học tập làm văn, bước đầu có kĩ năng quan sát, tìm ý, dùng  từ, đặt câu. Đa số  học sinh xác định được trọng tâm của đề  bài. Học sinh khá,   giỏi nói, viết lưu loát, mạch lạc, dùng từ sắp xếp ý, nối kết các đoạn văn thành  một bài văn hoàn chỉnh. Các em đã hứng thú trao đổi với bạn về  bài văn của   mình, thích học và khám phá phân môn Tập làm văn ­ Hạn chế. Một số học sinh do vốn sống còn hạn chế nên việc tìm ý để phục vụ cho  đặt câu, viết đoạn còn hạn chế  dẫn đến còn ngại học môn tập làm văn. Môn   Tập làm văn là một môn khó, nhiều em ngại học, lười suy nghĩ nên  ở  các giờ  học các em còn ngại phát biểu, vốn từ  ít nên viết bài qua loa cho xong, vì vậy  mà viết đoạn văn còn nghèo ý. Học sinh một số em còn nhút nhát chưa mạnh dạn tự tin trong học tập. c. Mặt mạnh, mặt yếu ­ Mặt mạnh. Học sinh đã có hứng thú trong các tiết học  tập làm văn góp phần nâng  cao chất lượng môn Tiếng Việt nói chung. Không khí lớp học sôi nổi, các nhóm học tập trao đổi tích cực, tự giác, kĩ  năng nói, viết của học sinh tiến bộ  rõ rệt, các em mạnh dạn, tự  tin khi giao  tiếp với mọi người. ­ Mặt yếu. Sự chuyển biến của học sinh sau khi th ực hi ện đề tài chưa đạt ở mức độ  tuyệt đối. Một số  em vẫn mắc phải các lỗi như: vèn tõ cßn nghÌo nµn, cha n¾m ®îc nghÜa cña tõ; diÔn ®¹t cha râ ý; chưa tích cực trao đổi với bạn  trong nhóm.          d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.       Giáo viên còn thụ động với kiến thức ở sách giáo khoa. Đôi khi tổ chức các  hoạt động trong giờ học chưa phân định được hoạt động nào là trọng tâm; hình   thức tổ chức dạy học chưa phong phú và đa dạng, chưa thực sự chú trọng đến  5
  6. việc sử  dụng đồ  dùng dạy học cho các hoạt động dạy học.  Một số  giáo viên  chưa đầu tư  cho kế  hoạch bài dạy do vậy  những tiết học được tổ  chức theo  hình thức  nhóm, trò chơi học tập, sắm vai …,  còn mang tính hình thức “  Tổ  chức cho có hình thức chứ phát huy hết hiệu quả”.        Giáo viên chưa chú trọng đến việc cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh  ở các   phân môn khác để học sinh vận dụng vào học môn phân môn Tập làm văn.        Học sinh có xu hướng học lệch, thích học Toán hơn học Tiếng Việt; một   số  em còn hạn chế  về  vốn từ  nên ngại học phân môn Tập làm văn.  Việc học  của học sinh tất nhiên là phải phụ  thuộc vào khâu tổ  chức của giáo viên, giáo  viên tổ  chức dạy thế  nào thì học sinh học theo thế  đó. Với việc tổ  chức đàm  thoại, vấn đáp,  học sinh lên lớp chỉ  ngồi nghe – ghi nh ớ  ki ến th ức mà thầy   truyền đạt.  Chính vì điều đó mà học sinh rất rụt rè, nhút nhát trong các hoạt  động, nhàm chán trong việc học tập, kết quả học tập không cao, khả  năng tự  bộc lộ  bản thân yếu, tư  duy chậm...     Lên lớp chỉ  cần truyền thụ  hết khối  lượng kiến thức trong sách giáo khoa, chú ý đến nhiều về  việc trình bày kiến  thức của mình. Các kĩ năng sư phạm chủ yếu là giảng giải. Học sinh tập trung  vào việc ghi nhớ luyện tập và làm theo. Học sinh thường làm việc đơn lẻ. Giáo  viên chỉ tập trung vào việc dạy theo chương trình, sách giáo khoa ít chú ý tới sự  tiếp thu của học sinh.        Vấn đề kinh nghiệm trong dạy học là vấn đề tạo nên sự thành công, mang  lại chất lượng giáo dục cao. Đòi hỏi phải có thâm niên dạy học nhiều, học hỏi   nhiều. Không có kinh nghiệm dạy học tức là chưa có kĩ năng tổ chức, xử lí các  tình huống sư  phạm. Điều này  ảnh hưởng không nhỏ  tới chất lượng học tập   của học sinh.          Thông qua các  hoạt động dạy, giáo viên có thể hỗ trợ các đối tượng học  sinh theo nhu cầu khác nhau đồng thời tạo cho các em tính mạnh dạn, tự  tin   trong quá trình giao tiếp. Hơn 50 % học sinh có vốn từ vựng còn nghèo nàn, sự  rụt rè thiếu tự  tin khi giao tiếp diễn ra còn phổ  biến.Học sinh còn lúng túng,  nhút nhát, ít nói, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động  nhất là các em học  sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ học tập.        Cơ sở vật chất: M Trang thi ết b ị d ạy h ọc còn ít, không đồng bộ,tài liệu về  bồi dưỡng nghiệp vụ, rèn kĩ năng dạy học vẫn chưa đồng bộ, nội dung còn   chung chung. e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.         Tập làm văn là phân môn thực hành và rèn luyện tổng hợp bốn kỹ năng, có  tính chất tích hợp các phân môn khác trong môn Tiếng Việt. Qua tiết Tập làm  văn, học sinh có khả  năng xây dựng một văn bản nói hoặc viết và từng bước  nâng cao chất lượng giáo dục theo chương trình của Bộ. Bản thân tôi đã áp  6
  7. dụng vào lớp 3C Trường Tiểu học Tây Phong và chia sẻ kinh nghiệm của mình  tới đồng nghiệp.           Thông qua trao đổi, tranh luận các em có thể chia sẻ cho nhau những gì   mình biết được, học được và cách học của mình cho bạn bè. Để  thực hiện   được điều đó thì giáo viên cần phải biết hình thức đặc trưng   của môn học.  Biết được tầm quan trọng và ích lợi của  môn Tiếng Việt cùng các môn học   khác có nhiệm vụ  cung cấp cho học sinh b ốn k ỹ  năng: “Nghe ­ Nói ­ Đọc ­   Viết” . Tập làm văn là phân môn thực hành và rèn luyện tổng hợp bốn kỹ năng  đó, có tính chất tích hợp các phân môn khác trong môn Tiếng Việt, là giúp học  sinh tích cực tham gia ý kiến và có cơ  hội trao đổi với các bạn khác để  cùng   học, khám phá và phát triển tư  duy.   Các kĩ năng giao tiếp về  mặt xã hội và  một số kĩ năng sống được phát triển.  Thông qua  các hoạt động  học các em có  thể  tự  diễn đạt bằng lời và chia sẻ  các ý tưởng của mình với những người   khác trong việc phát triển các kĩ năng ngôn ngữ, qua đó các em có thể giúp đỡ  lẫn nhau.           Thông qua hoạt động nhóm, giáo viên có thể  hỗ  trợ  các đối tượng học  sinh theo nhu cầu khác nhau  đồng thời tạo cho các em tính mạnh dạn, tự  tin   trong quá trình giao tiếp. Học sinh được làm việc nhiều dần dần tự  tin hơn.   Điều quan trọng nhất vẫn là làm thế nào để có hiệu quả, biến những lý thuyết   trên thành các hoạt động cụ thể, mang tính thường xuyên.             Khuyến khích, động viên học sinh tự học, tự tìm tòi, giúp các em chiếm   lĩnh tri thức và tự  rút ra kết luận phù hợp với bài học để  vận dụng kiến thức  đã học vào nói, viết khi giao tiếp trong th ực t ế cu ộc s ống .            Giáo viên phải  hiểu rõ tính tích hợp giữa các phân môn trông môn Tiếng  Việt như: tập đọc, kể  chuyện, chính tả, luyện từ  và câu, tập viết,... để  giảng  dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân môn Tập làm văn. Qua hệ  thống câu hỏi, giáo viên giúp học sinh bày tỏ  được thái độ, tình  cảm, ý   kiến nhận xét, đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Song   song với quá trình đó, giáo viên cần hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về  câu  trả lời của bạn để học sinh rút ra câu trả lời đúng nhất phù hợp với tình huống  đó, và tạo cho học sinh cách  ứng xử  hay. Giao viên lưu ý dạy tập làm văn là  dạy tích hợp lồng ghép phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn Tập Làm  Văn lớp 3. Dạy học theo quan điểm giao tiếp. Dạy học theo quan điểm giao tiếp là  hình thành cho học sinh kĩ năng diễn đạt thông qua các bài học, hình thành thói   quen  ứng xử  trong giao tiếp hàng ngày với thầy, cô, cha mẹ, bạn bè, và mọi   người xung quanh. Vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm này, giáo  viên tạo cho học sinh nhiều cơ h ội th ực hành, luyện tập, không quá nặng về lý  thuyết như phương pháp dạy truyền thống. Do vậy học sinh hào hứng tham gia   7
  8. vào các hoạt động học tập, tích cực sáng tạo trong làm văn. Việc hình thành và  rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh thông qua phân môn Tập  Làm Văn đảm bảo đạt được hiệu quả  tối  ưu. Giáo viên chú trọng về  lời văn  kể và nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Giáo viên cần hướng cho các em cách chon   lựa, sử  dụng từ  ngữ, hình  ảnh diễn đạt sao cho dễ  hiểu, sinh động. Có như  vậy người nghe đọc sẽ  dễ  dàng hình dung, tưởng tượng, nắm bắt  được sự  việc, nhất là tình cảm của các em muốn thể  hiện qua bài nói, bài viết. Người   nghe, người đọc tuy không trực tiếp nhìn diện mạo của nhân vật, xem bối   cảch của sự việc qua hình ảnh miêu tả, so sánh cùng với những tình cảm, thái  độ, sự đánh giá của các em.  Giáo viên biết tổ chức tốt cho học sinh cách quan sát tranh, cách dùng từ,   giọng kể, lời nhân vật, nói viết thành câu. Động viên khuyến khích học sinh tự  học, học theo phương pháp tự  tìm tòi.  Giáo viên tổ  chức, phối hợp linh hoạt   các hình thức và phương pháp dạy học theo hướng đổi mới. Dạy học hướng  tập trung vào học sinh, học sinh coi học là chủ thể hoạt động, tổ chức các hoạt  động giúp các em chiếm lĩnh tri thức và rút ra kết luận phù hợp với bài học.             Như  vậy qua tiết học này, học sinh mở  rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt  mạch lạc, lôgíc, câu văn có hình  ảnh, cảm xúc. Trên cơ  sở  đó, bài luyện nói   của các em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc, đồng thời hình thành cho các   em cách  ứng xử linh hoạt trong cuộc sống. H ọc sinh rèn kĩ năng quan sát, nói­ viết, rút ra những nét điển hình, đặc trưng của từng vùng miền, thấy được vẻ  đẹp đáng yêu, đáng tự  hào của mỗi vùng miền, từ  đó hình thành nuôi dưỡng  tình cảm gắn bó, yêu thương, ý thức giữ  gìn, xây dựng quê hương đất nước.  Ngoài ra, mỗi giáo viên cần chú trọng vận dụng phương pháp dạy học theo   quan điểm giao tiếp, khơi dậy  ở các em những cảm xúc, đánh thức tiềm năng  cảm thụ  văn học và có nhu cầu thể  hiện, bày tỏ  cảm thụ  đó với người khác.  Như vậy mỗi bài nói bài viết sẽ chính là tâm hồn tình cảm của các em, các em  sẽ thêm yêu văn, yêu cái hay cái đẹp, yêu Tiếng Việt, giữ gìn sự trong sáng của  Tiếng Việt.  Qua đó các em đã tiến bộ  rất nhanh, hứng thú tích cực hơn khi vào tiết   học tập làm văn, đến cuối kì I  98% học sinh của lớp đã nói viết được hoàn   chỉnh một đoạn, một bài văn lớp 3 đạt chuẩn kiến thức kĩ năng. Học sinh năng  khiếu văn ngoài viết văn tốt các em còn làm thơ, sáng tác những mẩu chuyện   ngắn vui, hóm hỉnh ( 3 em). Để  đạt được kết quả  trên bản thân tôi đã tận tụy, gần gũi và quan tâm,  chú ý đến tất cả các đối tượng học sinh. Đặc biệt chú ý đến đến học sinh còn   mắc nhiều lỗi trong một tiết học, một bài văn để sửa cho các em kịp thời đồng   thời luôn động viên khích lệ  các em khi các em tiến bộ, chú trọng rèn kĩ năng  8
  9. nói, viết câu đúng, có cảm xúc, hình  ảnh trong tất cả  các môn học, với những   học sinh có năng khiếu tôi đã phát hiện và bồi dưỡng vốn từ, kĩ năng dùng từ,   viết câu,… cho các em ngay trong từng hoạt động của tiết học và dành thời gian  soạn thảo thêm các đề  bài mở  rộng để  bồi dưỡng kiến thức nâng cao cho các   em.         II.3. Giải pháp, biện pháp a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp           Trang bị kiến thức cho học sinh luôn chú trọng việc lồng ghép kiến thức   giữa các phân môn Tiếng Việt:            Khích lệ học sinh tích cực sáng tạo, chủ động trong học tập, biết diễn   đạt suy nghĩ của mình thành một bài văn hoàn chỉnh đáp ứng yêu cầu đạt chuẩn  kiến thức kĩ năng môn học.   Phân môn Tập làm văn là phân môn khó trong môn Tiếng Việt. Trong   quá trình tham gia vào các hoạt động học tập học sinh với vốn kiến thức hạn  chế, phạm vi giao tiếp hẹp nên các em còn rụt rè, nhút nhát ngại giao tiếp,   ngại nói vì sợ  sai. Vì vậy để  khắc phục được các tình trạng trên tôi xin nêu ra  một số giải pháp để  khắc phục những hạn chế trong khi dạy Tập làm văn để  tiết Tập Làm Văn ở lớp ba thực sự đạt hiệu quả.         b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp: b.1. Dạy học chú trọng : Tích hợp ­ lồng ghép. Khi dạy Tập làm văn tôi luôn tìm hiểu để  rõ tính tích hợp kiến thức giữa  các phân môn; Tập đọc, Kể  chuyện, Luyện từ  và câu, Chính tả, Tập viết để  giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tốt môn Tập làm văn. Các bài được biên   soạn theo chủ điểm ở tất cả các phân môn. Ví dụ: Dạy chủ điểm “Tới trường” khi dạy các môn Tập đọc kể  chuyện,   Luyện từ và câu, Tập viết, Chính tả tôi chú trọng hướng học sinh theo chủ đề.   Khai thác nội dung các bài học để cung cấp cho học sinh vốn t ừ v ề ch ủ đề tới   trường, rèn cho học sinh tính cẩn thận khi viết bài. Cụ thể khi dạy bài Tập đọc  “Nhớ lại buổi đầu đi học” tôi khai thác nội dung bài theo các câu hỏi sau: + Điều gì khiến tác giả nhớ đến kỷ niệm của buổi tựu trường?         + Trong ngày đến trường đầu tiên vì sao tác giả thấy cảnh vật xung quanh   đang có sự thay đổi lớn? + Những hình  ảnh nào trong bài nói lên sự  bỡ  ngỡ  rụt rè của đám học trò  mới tựu trường?          + Em hãy kể  ngắn gọn về  ngày đầu tiên đi học của em. Qua đó tôi định  hướng cho học sinh thấy ý nghĩa của ngày đầu tiên đi học, nhớ  lại ngày đầu  9
  10. tiên đi học của mình từ đó có cơ sở để chuẩn bị cho tiết Tập làm văn “ Kể lại   buổi đầu em đi học” cùng với chủ  đề  này thì phân môn Luyện từ  và câu cũng  cung cấp cho các em những từ ngữ về trường học, hi ểu nghĩa các từ ngữ. Qua   đó học sinh có thêm vốn từ  để  trao đổi giao tiếp trong học tập và trong cuộc   sống.  Khi dạy các phân môn: Tập đọc, Chính tả, Tập viết Luyện từ và câu có   nội dung phù hợp tiết Tập làm văn sắp học; giáo viên cần dặn dò hướng dẫn  học sinh quan sát tìm hiểu kĩ đối tượng cần nói đến và ghi chép cụ  thể  hình  ảnh, hoạt động ấy vào vở ghi chung ...; với những sự vi ệc ho ặc ho ạt động các   em không được chứng kiến hoặc tham gia, giáo viên khuyến khích các em quan  sát qua tranh  ảnh, sách báo, trên tivi,…hoặc hỏi những người thân hay trao đổi  với bạn bè.  Ngoài ra  ở  các chủ  điểm tôi còn rèn luyện cho học sinh cách sử  dụng dấu câu, giúp học sinh hiểu cấu tạo câu và sử  dụng trong quá trình giao   tiếp. Khi được trang bị những kiến thức cơ bản như th ế, học sinh s ẽ có những   ý tưởng độc lập từ  đó các em có thể  trình bày được bài văn chân thực, sinh   động và sáng tạo. Trong việc trang bị  kiến thức cho học sinh, giáo viên không nên áp đặt  các em vào một khuôn mẫu nhất định, như: chỉ định học sinh phải quan sát một  bức tranh, một sự  vật, con người hay m ột công việc cụ  thể  như  thế  sẽ  hạn   chế năng lực sáng tạo của các em. Như vậy việc dạy tích hợp tất cả  các phân   môn sẽ tạo đà cho học sinh học tốt phân môn Tập làm văn. b.2. Tạo không khí lớp học sôi động, hào hứng. Tổ chức trò chơi học tập Tổ chức hoạt động theo nhóm Tổ chức dạy học ngoài trời Tạo hứng thú học tập bằng việc xây dựng môi trường thân thiện giữa  thầy và trò, trò và trò. Ở  tất cả  các tiết dạy nói chung và tiết Tập làm văn nói riêng tôi luôn  chuẩn bị  kỹ  bài trước khi lên lớp, thuộc lòng nội dung, câu chuyện cần kể  có  điệu bộ, cử chỉ hấp dẫn lôi cuốn học sinh ngay từ những phút đầu.    Khi lập kế  hoạch bài dạy tôi luôn trăn trở, tìm tòi để  sáng tạo ra hình   thức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh của lớp nhằm cuốn hút học sinh   vào các hoạt động học tập một cách chủ  động tích cực.  Có thể  tổ  chức các   hình thức dạy học linh hoạt tạo không khí học tập thoải mái như  : thảo luận   nhóm, đôi bạn học tập, tiếp sức, đóng vai, vận dụng các trò chơi trong tiết  học, các cuộc thi  để  học sinh có cơ  hội thi đua cạnh tranh lành mạnh qua đó  học sinh lĩnh hội kiến thức tích cực, tự  giác theo hình thức “ Học mà chơi ­  chơi mà học”.  Ví dụ 1: Đề bài: Nói về quê hương em (BT2­TV3 ­Tập1­ Tr 92) 10
  11. 1. Chuẩn bị: Phiếu học tập a..Hoàn thành bảng dưới đây Tên bài đọc Quê hương là... Chi tiết làm em xúc động nhất Giọng   quê  ...................................... .............................................................. hương ...................................... .............................................................. Quê hương  ..................................... ............................................................... ..................................... .............................................................. Đất   quý,   đất  ..................................... ............................................................. yêu ..................................... ............................................................. Vẽ   quê  ..................................... ............................................................... hương ..................................... .............................................................. Chõ   bánh  ..................................... .............................................................. khúc   của   dì  ..................................... .............................................................. tôi          b.Đánh dấu X trước mỗi câu nếu em đồng ý, đánh XX trước mỗi câu  nếu em rất đồng ý.   Qua các bài đọc trên em thấy quê hương: + Là tất cả những gì gần gũi, thân thương đối với mình. + Là nơi mình sinh ra và lớn lên. + Là những điều mình có thể nghe, có thể thấy, có thể sờ,  có thể nếm. + Là cái gì đó mà khi xa mình thấy nhớ thương. c. Các em hãy nghĩ về quê hương mình:        Quê em ở đâu? Em yêu nhất cảnh vật gì ở quê hương? Cảnh vật đó có gì  đáng nhớ? Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào?         2. Cách tiến hành: Hoạt động 1: Giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu của đề  bài và chuẩn bị  thông tin ý tưởng để  nói. Trước hết giáo viên phát phiếu học tập cho học sinh  và dẫn dắt học sinh hoàn thành bài tập a, b trên phiếu (theo nhóm)         Giáo viên treo bảng phụ có ghi các bài tập a, b trên bảng. Cho các nhóm  tự  nêu kết quả  bài làm của mình, các nhóm khác nhận xét, giáo viên bổ  sung   hoàn thành bài tập.          Hoạt động 2: Học sinh tập trung động não nghĩ về  quê hương đã xác  định trong khung chủ đề  và viết ra bất kì những từ  ngữ  nào liên quan đến quê  hương mà mình đang nghĩ tới. 11
  12.      Giáo viên treo bài tập c (ghi sẵn  ở bảng phụ) lên bảng kèm với lời dẫn   dắt để kích thích học sinh hồi tưởng.      Học sinh làm vào giấy nháp; Giáo viên đồng thời gọi hai em làm vào bìa  phụ  ghi vào khung chủ  đề  cụm từ  “Quê hương em” rồi sau đó ghi ra bất kì ý  tưởng nào của mình có được xung quanh chủ đề ấy (lưư  ý HS chỉ  ghi từ  hoặc  cụm từ)   Ví dụ:                                           ngôi nhà                  vườn bách thú                thành phố                                                   con sông                      Quê hương em              cây đa, giếng nước                                                                                                    nông thôn                  đường phố              nhà cao tầng                Hoạt động 3: Học sinh đánh số thứ tự các ý mình vừa tìm được, giáo viên   hướng dẫn các em sắp xếp các ý bằng số thứ tự 1,2,3.        Giáo viên bao quát lớp đặc biệt là chú ý học sinh trung bình và yếu để  giúp các em điều chỉnh.         Hoạt động 4: Học sinh nhìn sách của mình và nói : Cho hai em nói mẫu   trước lớp   Ví dụ: Em sinh ra và lớn lên ở nông thôn. Quê hương em thật là đẹp. Ở đó có  cây đa cổ  thụ  che bóng rợp cả  một vùng. Giếng nước trong veo. Trước mặt   ngôi nhà em là con sông quê hương. Em rất thích tắm mình dưới con sông  ấy   khi mùa hè đến. Em yêu quê hương của mình.  Hoặc: Em và gia đình sống  ở thành phố.  Ở đó em thấy có nhiều ngôi nhà cao  tầng. Trên  đường phố, mọi  người và xe  cộ   đi lại tấp nập. Ngày nghỉ, em  thường được bố  mẹ  dẫn đi xem vườn bách thú, được ngồi trên lưng chú voi  con. Cảm giác của em lúc đó rất là thích. Em yêu quý nơi này.        Cả lớp nhận xét, giáo viên bổ sung. Hoạt động 5: Học sinh nói theo cặp (hoặc nhóm 4). Giáo viên bao quát   lớp đặc biệt lưu ý giúp học sinh yếu. Hoạt động 6: Học sinh nói thể hiện trước lớp:      Giáo viên gọi đại diện các nhóm lên nói trước lớp .Nếu là học sinh yếu,   giáo viên cho học sinh nhìn sách để nói. 12
  13.      Tổ  chức cho học sinh thể  hiện mở  rộng c ảm xúc về  quê hương mình.   Khuyến khích học sinh tự tìm đặt  thêm  câu hỏi mở  rộng. Giáo viên nhận xét  chung. Học tiết Tập làm văn trong không khí lớp học sôi nổi, thoải mái, khiến  học sinh mạnh dạn tự tin, khi nói. Từ đó rèn cho các em có khả năng diễn đạt,  phát biểu ý kiến, đánh giá trước đông người thể  hiện suy nghĩ, cảm xúc, thái   độ  yêu ghét, trân trọng hay phê phán để  các em trở  nên mạnh dạn tự  tin trong   học tập và giao tiếp. b.3. Tăng cường luyện tập thực hành Học sinh được học hai buổi trên ngày nên những tiết luyện Tiếng Việt ,tôi  luôn tăng cường cho học sinh học phân môn Tập làm văn để  các em có cơ  hội  thể hiện mình. Trong những tiết học này tôi luôn hướng dẫn và tạo điều kiện   cho tất cả  học sinh rèn kĩ năng nói trong nhóm, nói trước lớp, đặc biệt là học  sinh yếu được nói cho cô, bạn khá giỏi nghe. Các em sẽ  nói về  các bài học  thuộc chủ  đề  đã học. Tôi luôn tạo không khí gần gũi để  học sinh được thể  hiện những hiểu biết bằng lời nói một cách tự nhiên. Từ đó tôi sẽ có kế hoạch  sửa chữa những lỗi sai của học sinh ngay khi nói. Khen ngợi kịp thời để  học  sinh yếu cảm thấy không mặc cảm khi tham gia nói trước lớp.   Do vậy học   sinh nắm vững kiến thức và làm tốt dạng bài tập viết. Ví dụ: khi giới thiệu về tổ em, học sinh nói: ‘ Tổ  em bạn nào cũng chăm   ngoan, riêng  bạn Lan học giỏi Toán lại hát hay như chim Sơn ca” ; hoặc nói về  người lao động trí óc, học sinh nói: “Cô giáo em có mái tóc dài, đen mượt như   nhung”. Trí tưởng tượng, liên tưởng  ở  học sinh lứa tuổi này rất hồn nhiên ngây  thơ và ngộ nghĩnh, cho nên để rèn luyện kĩ năng này cho học sinh, giáo viên có  thể  chuẩn bị  những câu, đoạn văn hay cho học sinh tham khảo, học hỏi làm  phong phú thêm vốn kiến thức cho các em.         Khi học sinh viết bài ở lớp và ở nhà, tôi dành thời gian chữa bài viết của  học sinh ngay tại lớp giúp học sinh có cơ  hội nhận xét bài của bạn và tự  rút  kinh nghiệm  sửa chữa bài viết của mình.     b.4. Sử dụng tranh ảnh và đồ dùng dạy học  Trong dạy học  ở tiểu học , sử dụng tranh  ảnh và đồ  dùng dạy học là rất   cần thiết không thể  thiếu. Chính vì vậy trong mỗi tiết học, tôi chuẩn bị   đầy   đủ các đồ dùng, nắm vững nội dung của từng tranh, cách sử dụng từng loại đồ  dùng. Khai thác triệt để  nguồn tranh trong sách giáo khoa và tranh được cấp  phục vụ cho giảng dạy.  Ví dụ: Khi dạy tiết Tập làm văn “ Nghe – kể: Dại gì mà đổi. Điền vào  giấy tờ in sẵn” Bài tập 1: Nghe và kể lại câu chuyện Dại gì mà đổi.  13
  14. b.5. Tổ chức trò chơi học tập   Tôi cho học sinh quan sát tranh minh họa sách giáo khoa và hỏi:   Bức tranh vẽ gì? ( Hai mẹ con một cậu bé đang ngồi nói chuyện).   Giáo viên kể chuyện           Sau khi tôi kể chuyện, cho học sinh tìm hiểu truyện theo các câu hỏi gợi   ý. Tôi cho học sinh nhìn tranh kể lại câu chuyện theo nhóm như  vậy học sinh   sẽ có điểm tựa để nhớ nội dung câu chuyện.…   Ngoài ra tôi còn sưu tầm thêm tranh  ảnh, làm đồ  dùng  phục vụ tiết dạy  đặc biệt là các mẫu đơn từ, bảng phụ ghi các câu hỏi gợi ý. Như  vậy tôi mới  làm chủ  được thời gian, học sinh có thời gian luyện tập thực hành thể  hiện  mình trong mỗi tiết học.          c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp Giáo viên có năng lực chuyên môn, nắm chắc các phương pháp và hình  thức tổ  chức dạy học, thường xuyên tìm tòi nghiên cứu khi lập kế  hoạch bài  dạy. Ở mỗi đề  tài của loại bài Tập làm văn, giáo viên cần cho học sinh tự xác  định rõ yêu cầu các bài tập. Giúp học sinh tự xác định đúng yêu cầu bài tập để  khi thực hành các em sẽ  không chệch hướng, đảm bảo đúng nội dung đề  tài  cần luyện tập.  Với những kinh nghiệm mà tôi nêu trên, tôi đã áp dụng có hiệu quả  rõ  rệt  ở  trường Tiểu học Tây Phong và đều có thể  áp dụng được để  dạy học  phân môn Tập làm văn ở các trường Tiểu học.          d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Các giải pháp, biện pháp trên đều có mối quan hệ thống nhất biện chứng   với nhau, do vậy cần được phối kết hợp sử  dụng thì mới giúp học sinh chủ  động, tích cực học môn Tập làm văn  ở  lớp Ba. Với mỗi chủ  đề  của bài Tập   làm văn nếu học sinh trình bày đủ  nội dung theo gợi ý đã cho thì bài văn của   các em xem như  hoàn chỉnh. Nhưng để  có một đoạn văn mạch lạc rõ ràng, ý  tưởng liên kết chặt chẽ  nhau thu hút được người đọc; giáo viên cần giúp các  em biết viết đoạn văn có mở  và kết đoạn, biết dùng từ  liên kết câu, dùng câu  liên kết đoạn một cách hợp lí và sáng tạo.           e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Nhờ  áp dụng các biện pháp hợp lý, phù hợp với đặc điểm tình hình của  lớp, trường của địa phương nên chất lượng giáo dục của lớp 3C trong năm học   này không ngừng được nâng cao, cả  về  chất lượng mũi nhọn (HS năng khiếu   môn Tiếng  Việt) và chất lượng đại trà. Tôi xin   thống kê kết quả  thu được   qua các năm học và cuối học kì I như sau: Nội dung khảo sát Kết quả đạt được  (tỉ lệ %) 14
  15. 2014­2015  2012­2013 2013­2014 (Học kì I) Biết viết câu, dùng từ hợp lí 68.7 % 70.5% 74.2% Biết nói, viết thành câu 67.5% 68.8% 68.9% Biết   dùng   từ,   câu   văn   có   hình  48,6% 49.4% 50.20% ảnh Biết trình bày đoạn văn 64.5% 65.7% 69.8% Bài viết đạt trung bình trở lên 83.7% 85.4% 92.4%       4 . Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn đề  nghiên cứu.  Kết quả thu được sau khi khảo nghiệm: Khi thực hi ện đề  tài vào giảng  dạy tôi nhận thấy  bản thân mỗi giáo viên có nhận thức cao hơn trong công tác  của mình, chất lượng của học sinh có tiến bộ  rõ rệt. Khi thực hiện đề  tài đã  được các đồng nghiệp hỗ trợ và đồng tình thực hiện. Giá trị  khoa học: Đề  tài được áp dụng cho công tác giảng dạy  ở  trường   tiểu học nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và chất lượng giáo dục  toàn diện học sinh. Vì vậy mỗi giáo viên phải đổi mới, tạo ra những hình thức   và phương pháp dạy học mới cho các tiết học Tập làm văn nói riêng và các tiết   học khác thu hút các em thích học và tự  giác học, thật sự  ham mê học tập, tự  tin, mạnh dạn trước đông người. Học sinh lĩnh hội kiến thức nhanh và chắc  đem lại một chất lượng dạy học mới. Trong môi trường dạy học lấy học sinh   làm trung tâm, năng lực của giáo viên sẽ  được nhân lên nhiều lần song trong   môi trường đó cũng đòi hỏi giáo viên phải cố  gắng cao, phải có những kiến   thức và kỹ  năng mới, phải tự  học, tự  nghiên cứu nhiều tài liệu bổ  sung kiến   thức hiểu biết cho mình. PHẦN III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1.  Kết luận:  Để  giúp học sinh tích cực học môn Tập làm văn chúng ta   cần: Dạy học Tập làm văn theo phương pháp tích hợp các phân môn trong  môn Tiếng Việt; Biết kết hợp mối quan h ệ  ch ặt ch ẽ  v ề yêu cầu kiến thức   phân môn Tập làm văn của các khối lớp.           Trong giảng dạy giáo viên có đầu tư  nghiên cứu sâu, phối hợp tổ  chức  linh hoạt các hình thức và phương pháp dạy học theo hướng đổi mới. Giáo viên có ý thức tự  học tự  rèn; tham khảo các tài liệu, tạp chí, văn  bản có liên quan đến chuyên môn và các dạng bài khó.  15
  16. Giáo viên dành thời gian bồi dưỡng và phụ  đạo cho học sinh môn Tiếng  Việt. Động viên, khuyến khích học sinh tự  học, tự  tìm tòi; tận tâm sửa chữa   sai sót cho học sinh, hướng dẫn học sinh ghi chép vào sổ tay vở nháp. Học sinh có thói quen đọc sách báo, truyện phù hợp lứa tuổi, tập ghi chép  sổ tay những từ ngữ, câu văn hay các em đọc được.          Học sinh tự tin, mạnh dạn phát biểu trong các hoạt động học tập, có kĩ  năng trong giao tiếp  ứng xử. Đề  tài là cơ  sở  để  giáo viên nghiên cứu và thực  hiện trong giảng dạy phân môn Tập làm văn. Giúp giáo viên từng lúc san bằng  trình độ  học sinh trong lớp học; giúp học sinh tự  tin hơn trong học tập, trong   giao tiếp để các em hoàn thành nhiệm vụ học tập và tiếp tục học tập ở các lớp  cao hơn.  Đây là cơ sở làm nền tảng cho các em học tốt phân môn Tập làm văn  ở các lớp cuối cấp Tiểu học Dưới sự  tổ  chức và hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự  giác học tập,  tự  chiếm lĩnh kiến thức mới. Vận dụng kiến thức cũ để  chiếm lĩnh kiến thức  mới. Với sự  gần gũi nhiệt tình của giáo viên, học sinh sẽ  yêu trường, yêu lớp   hăng say học tập. Từ  đó chất lượng dạy và học được nâng cao góp phần xây  dựng một nền giáo dục thân thiện và hiệu quả.   2. Kiến nghị        Đối với giáo  viên: Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học môn  Tiếng việt  ở Tiểu học nói riêng, giáo viên cần có ý thức nghiên cứu, tìm hiểu,   vận dụng nhiều biện pháp, thủ  thuật để  nâng cao hiệu quả  học tập cho học   sinh.         Đối   với   Tổ   chuyên   môn   của   nhà   trường   cần   có   các   buổi   sinh   hoạt  chuyên môn có chất lượng để  giáo viên có thể  học hỏi, trao đổi kinh nghiệm,   nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.    Trên đây là một kinh nghiệm nhỏ  mà tôi đã thử  nghiệm thành công tại   đơn vị  để  góp phần nâng cao chất lượng dạy, học phân môn Tập làm văn lớp  3. Rất mong ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp để  tôi tiếp tục hoàn thiện  bản thân và giảng dạy tốt hơn nữa trong những năm tiếp theo. Xin chân thành   cảm ơn.                                                                                                    Băng ADRênh, ngày 30  tháng 01 năm   2015                                                                                                                                                                                              Ng ười vi ết                                                                                       16
  17.                                                                              Dương Thị Liên                                                                                                 TÀI LIỆU THAM KHẢO             1. Tiếng Vi ệt l ớp 3 t ập 1, 2             2. Bồi dưỡng năng lực Tiếng Việt lớp 3. Tác giả: Võ Thị Hoài Tâm.             3.Bồi dưỡng văn Tiếng Việt 3. Tác giả: Nguyễn Thị Kim Dung                      Nhà xuất bản tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh             4. 35 bộ đề văn Tiếng Việt 3. Tác giả: Nguyễn Thị Kim Dung                     Nhà xuất bản tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh 17
  18. NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN …………………………………………………………………………… ………...................................................................................................... .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0