intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số phương pháp giúp học sinh học tốt phần thơ hiện đại - Ngữ Văn 9

Chia sẻ: Lê Văn Nguyên | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:26

272
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm đề tài "Một số phương pháp giúp học sinh học tốt phần thơ hiện đại - Ngữ Văn 9" nhằm giúp học sinh học tốt trong giờ học Ngữ văn đi đôi với hiệu quả có tính giáo dục cao. Học sinh có thể có hứng thú nhưng hiệu quả giáo dục mới là mục đích mà người dạy cần đạt.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số phương pháp giúp học sinh học tốt phần thơ hiện đại - Ngữ Văn 9

                                                                        1                                                              <br /> <br /> 1.TÊN ĐỀ TÀI<br />  MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT PHẦN <br /> THƠ HIỆN ĐẠI ­  NGỮ VĂN 9.<br /> <br /> 2. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> 2.1.Tầm quan trọng của vấn đề được nghiên cứu:<br /> Có thể  nói, thơ  là loại hình tác phẩm được cấu trúc bởi một kiểu  <br /> ngôn ngữ  đặc biệt, khác hẳn ngôn ngữ  đời thường và ngôn ngữ  văn xuôi. <br /> Thơ thường bộc lộ ý thức tình cảm con người một cách trực tiếp; là tiếng  <br /> nói của tình cảm mãnh liệt, là sản phẩm của những rung động độc đáo ­ <br /> thơ  trữ  tình đến với người đọc tự  nhiên mà nồng nàn, giản dị  mà sâu sắc,  <br /> dễ dàng mà khó quên, bất chợt để trường tồn, một chút xôn xao để rồi sâu <br /> lắng. Một cái nhìn, một ánh mắt, một tiếng gọi trong thơ ta gặp một lần để <br /> rồi cứ ngân nga trong ta mãi không thôi. Cái “tôi” trữ tình luôn cảm xúc thật  <br /> sự, bộc lộ hẳn ra. Tiếng nói trữ tình trở thành tiếng lòng thầm kín của mọi  <br /> người. Quả thật nó là “lời gửi của nghệ sĩ với cuộc đời”. Nói như nhà thơ <br /> Tố  Hữu: “Thơ  là tiếng nói của người nào đó đến với những người nào đó <br /> dựa trên cơ sở đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí”.<br /> Tuy nhiên có những bài thơ  ta đọc một lần rồi sau đó để  trong quên  <br /> lãng nhưng có những bài thơ  ta đọc đi đọc lại mãi không muốn thôi. Hoặc <br /> lại cũng có bài thơ, người này đọc thấy hay, thấy xúc động, người khác  <br /> chẳng thấy gì là thích thú. Đấy là do sức hấp dẫn từ bản thân tác phẩm và <br /> một điều vô cùng quan trọng nữa là do hứng thú và khả  năng cảm nhận ở <br /> mỗi người khi đến với văn bản thơ. Năng lực cảm thụ  của mỗi người  <br /> không giống nhau, cũng không phải tự  nhiên vốn sẵn có mà phải qua quá <br /> trình tìm hiểu, được bồi dưỡng. Nhất là đối với các em học sinh, đặc biệt  <br /> là học sinh lớp 9 lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Để  các em có thể cảm  <br /> nhận tốt các văn bản thơ, làm được các bài nghị  luận hay, chính xác đồng <br /> thời trau dồi những nhận thức và tình cảm tốt đẹp, giúp các em tiếp tục <br /> nâng cao năng lực cảm thụ  khi học văn  ở  cấp Trung học phổ  thông, hay  <br /> những   kì   thi   vào   các   trường   chuyên,   lớp   chọn,   giáo   viên   cần   đổi   mới  <br /> phương pháp dạy học nhằm kích thích sự  hứng thú, phát huy tính tích cực, <br /> chủ động, sáng tạo của học sinh.<br /> 2.2 Những thực trạng liên quan đến vấn đề được nghiên cứu:<br /> Trong quá trình giảng dạy và dự giờ đồng nghiệp, tôi nhận thấy một <br /> số thực trạng sau:<br /> a. Về phía giáo viên:<br /> Giáo viên chưa phân biệt rạch ròi giữa phương pháp dạy học truyền  <br /> thống với phương pháp dạy học mới. Người thầy đóng vai trò chủ  động, <br /> tích cực trong việc dạy học, giờ  dạy học trên lớp giáo viên còn làm việc  <br /> nhiều, người thầy giảng bài, hướng dẫn, đưa ra các mẫu câu, học sinh tiếp  <br /> nhận chuyển thành kiến thức của mình, làm theo mẫu một cách thuần thục, <br />                                                                         2                                                              <br /> ít tư duy, sáng tạo, thầy giảng, trò nghe, ít thực hành, giao tiếp. Giờ học văn <br /> chỉ đơn thuần là thầy giảng, trò nghe.<br /> Giáo viên chưa phát huy tính tích cực chủ  động trong việc dạy học,  <br /> tiết học diễn ra không sinh động, học sinh không muốn tư duy, sáng tạo để <br /> tham gia tìm hiểu kiến thức mới. Trong giờ  học, học sinh còn thụ  động <br /> chưa mạnh dạn bày tỏ ý kiến, cách làm, cách hiểu, cách đánh giá của mình  <br /> về tác phẩm. Trong khi đó phương pháp dạy học mới, người thầy chỉ đóng <br /> vai trò dẫn dắt, hướng dẫn học sinh tự  khám phá tiếp nhận kiến thức mà  <br /> không đọc cho học sinh chép. Để đạt được điều đó người giáo viên phải có <br /> tâm huyết, lòng nhiệt tình, trang bị  kĩ năng  ứng dụng công nghệ  thông tin <br /> thật nhuần nhuyễn vào trong bài dạy của mình. Trong một năm học, giáo  <br /> viên Ngữ văn đăng kí dạy công nghệ  thông tin còn hạn chế. Giáo viên cần <br /> phải nhận thức rằng: Nếu trước đây giáo viên giảng cho hay, cho sâu, phân <br /> tích, cảm thụ hộ cho học sinh thì theo quan điểm đổi mới phương pháp dạy  <br /> học bây giờ đã đổi khác:<br />      “ Bài giảng của thầy, thầy giảng một nửa thôi<br />         Còn một nửa để cho học sinh làm lấy”<br />                                             ( Chế Lan Viên )<br /> Học sinh tham gia giờ học một cách sôi nổi, cởi mở, từ đó các em <br /> sẽ  cảm thấy thoải mái, tự  tin hơn trong quá trình chiếm lĩnh tri thức của <br /> mình tạo cho các em năng lực lắng nghe và thấu hiểu vấn đề một cách toàn  <br /> diện. Từ  đó, các em biết đưa ra ý kiến của mình chính xác, tự  tin, mạnh  <br /> dạn, phong phú và đúng đắn hơn. Lúc đó người thầy sẽ  kích thích tối đa <br /> năng lực tư  duy, sự  sáng tạo của học sinh, kích thích các em tự  khám phá  <br /> kiến thức mới, từ đó kiến thức mà các em tiếp nhận được từ bài học có tính <br /> sâu sắc và bền vững hơn.<br /> b. Về phía học sinh<br />  ­ Học sinh ngày nay rất lười đọc văn bản, không hiểu và không biết  <br /> được cách hành văn, nhiều em không thuộc thơ  mặc dù đó là bài thơ  rất <br /> ngắn như “Ánh trăng”, “Viếng lăng Bác”…<br /> ­ Nhiều em bị cuốn hút vào các trò chơi điện tử, game online, ham chơi, <br /> lười học không soạn bài, đến lớp nói chuyện, không phát biểu xây dựng  <br /> bài.  <br />   ­ Nhiều em khi thầy cô kiểm tra bài cũ thì trả lời không đắn đo “Thưa  <br /> cô, em không thuộc”, bên cạnh đó có em không đem vở, khi giáo viên hỏi thì  <br /> nói là quên ở nhà. <br /> ­ Học sinh không biết viết một đoạn văn cảm nhận, làm bài thì diễn  <br /> đạt ngô nghê. Ví dụ như em Nguyễn Anh Tài – học sinh lớp 9/6 (Năm học:  <br /> 2015­2016) viết đoạn phân tích về bài thơ  Viếng Lăng Bác: “Viễn Phương <br /> ra thăm Bác Hồ, Bác Hồ đã hy sinh trong một lần tham gia chiến dịch”. Khi  <br /> đọc câu văn như  vậy, người giáo viên không khỏi xót xa về  sự  thiếu hiểu  <br /> biết của học sinh về vị lãnh tụ  vĩ đại  của dân tộc Việt Nam. Thật là một  <br />                                                                         3                                                              <br /> lỗ hỏng kiến thức quá trầm trọng trong nhận thức và trình độ của một học  <br /> sinh lớp 9.<br /> ­ Khi tìm hiểu bài, tiếp thu bài, học sinh không tư  duy, sáng tạo, chủ <br /> yếu dựa vào sách tham khảo hoặc bài viết của anh chị lớp trước để lại để <br /> đối phó, không có khả  năng tự  học, không muốn suy nghĩ. Tóm lại đó là <br /> thực trạng đáng báo động về  tình hình học văn hiện nay, và là nỗi trăn trở <br /> lớn đối với chúng ta – những giáo viên dạy văn.<br /> * Nguyên nhân thực trạng:<br /> Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên như:<br /> ­  Phương pháp giảng dạy của đội ngũ giáo viên còn bộc lộ nhiều hạn  <br /> chế  và bất cập; việc  ứng dụng công nghệ  thông tin vào trong giảng dạy  <br /> chưa thực sự phổ biến, hợp lý và đồng bộ; bên cạnh đó trong mỗi tiết học <br /> vẫn còn tình trạng “đọc­chép” và “chiếu­chép” dẫn đến sự  nhàm chán  ở <br /> học   sinh,   nhiều   giáo   viên   còn   sa   vào   “độc   thoại”,   “độc   diễn”   trên   bục  <br /> giảng… Trong mỗi giờ dạy, giáo viên chưa hướng dẫn học sinh tìm hiểu, <br /> đánh giá về cách cảm thụ văn học, chưa đi sâu tìm hiểu tác phẩm bằng các  <br /> phương tiện, biện pháp hỗ  trợ như: làm việc nhóm, nêu tình huống có vấn  <br /> đề, sử dụng tư liệu, hình ảnh hay chiếu phim văn học. Bên cạnh đó, nhiều  <br /> phụ  huynh không muốn định hướng cho con em mình theo học môn Ngữ <br /> văn vì sau này ít có điều kiện thi được vào các trường kinh tế, tài chính, <br /> ngân hàng,… Vì thế, học sinh chỉ  chú trọng đầu tư  cho các môn học tự <br /> nhiên như: Toán, Lý, Hóa,…. Học sinh thích học những môn tự  nhiên hơn, <br /> thậm chí có nhiều em học đều tất cả  các môn, trong đó môn Ngữ  văn học  <br /> rất tốt nhưng khi giáo viên đặt vấn đề gợi ý cho em đi học bồi dưỡng và thi <br /> học sinh giỏi thì các em từ chối và chọn những môn tự nhiên như: Toán, Lý,  <br /> Hóa, Anh Văn … Bởi các em cho rằng học văn khó rồi, viết văn càng khó  <br /> hơn. Hơn nữa học sinh còn có quan niệm học lệch và học tủ.<br />  ­ Do không hiểu bài, các em sẽ thấy khó khăn, và khi thấy khó khăn thì <br /> học sinh sẽ  không thể nắm bắt được, vì không thể  nắm bắt được nên các <br /> em cảm thấy mọi thứ đều tù mù, không rõ ràng và vô hướng. Do đó, các em  <br /> đương nhiên không thể có hứng thú học và kết quả học tập luôn đi xuống  <br /> là điều dễ hiểu.<br /> ­ Đôi khi không có hứng thú học cũng bắt nguồn từ  công tác giảng  <br /> dạy. Chúng ta cần phải ý thức lại về việc giảng dạy. Giáo viên, trước hơn <br /> hết phải là người gợi mở, dẫn dắt và phải tạo được sự hứng thú trong việc <br /> tiếp thu kiến thức của học sinh. Một cô giáo nổi tiếng nghiêm khắc, thì <br /> đương nhiên khó có thể  tạo hứng thú học tập cho các em, mà thay vào đó  <br /> chỉ là tâm lý sợ  sai mà các em luôn phải duy trì trong suốt giờ học. Không <br /> những thế, ngày nay chúng ta còn mắc một lỗi phổ  biến khiến các em  <br /> không hứng thú học đó là thiếu tính sáng tạo trong giảng dạy. <br /> ­ Học sinh chưa có ý thức sưu tầm tư liệu có liên quan đến văn bản <br /> như tranh ảnh, văn thơ, video để bổ sung bài học thêm phong phú.<br />                                                                         4                                                              <br /> ­ Bước đầu còn gặp khó khăn khi vận dụng phương pháp tích hợp và <br /> việc gây hứng thú học tập cho học sinh .<br /> ­ Một số  học sinh có hoàn cảnh khó khăn, cha mẹ  đi làm ít quan tâm  <br /> đến việc học của con em, ảnh hưởng chất lượng học tập của học sinh.<br /> 2.3. Lý do chọn đề tài:<br /> Đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề đã được đề cập bàn luận và <br /> thực hiện trong nhiều năm qua, đặc biệt trong những năm gần đây với việc <br /> thực hiện giảng dạy theo chương trình sách giáo khoa mới thì  đổi mới  <br /> phương pháp dạy học càng được thúc đẩy và phát huy một cách có hiệu <br /> quả.<br /> Định hướng phương pháp dạy học đã được thống nhất theo tư tưởng <br /> tích cực hóa hoạt động của học sinh dưới sự  tổ  chức, hướng dẫn của giáo <br /> viên. Để  đạt được mục đích hoạt động đổi mới của phương pháp dạy học <br /> môn Ngữ văn cũng như các môn học khác là tích cực hóa hoạt động học tập  <br /> của học sinh, bản thân người giáo viên phải tự  tìm tòi phương pháp thích  <br /> hợp nhằm giúp học sinh học tốt môn Ngữ  văn. Đó là động cơ  khiến người <br /> thầy tâm huyết phải tích cực tìm tòi những phương pháp tối  ưu trong môn <br /> Ngữ văn nói riêng và các môn học nói chung.<br /> Vậy làm thế nào để học sinh say mê, hứng thú trong giờ học Ngữ văn?<br /> Làm thế  nào để  phát huy trí lực sáng tạo của học sinh trong giờ  Ngữ <br /> văn?<br /> Làm thế nào để giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu truyền  <br /> đạt khối lượng khổng lồ  của tri thức và bên kia là số  lượng thời gian thực  <br /> học của học sinh ngày càng ít đi do sự chi phối bởi nhiều nhu cầu của cuộc  <br /> sống hiện đại?<br /> Phương pháp mới, sách giáo khoa mới ra đời đã bước đầu giải quyết <br /> được mâu thuẫn đó, khi chú ý đến việc tự học của học sinh tức là thông qua  <br /> tri thức học mà dạy cho các em có thể  tự  học, giúp các em tiếp thu được  <br /> nhiều hơn, nhớ kiến thức sâu sắc hơn. Cách học mới này sẽ  tránh được sự <br /> nhàm chán, đơn điệu, tránh được sự quay cóp, làm bài thiếu sự sáng tạo, cảm  <br /> xúc khô cứng, gượng gạo trong tâm hồn các em.<br /> Từ lý do trên, người giáo viên muốn dạy văn hay và học sinh học văn  <br /> được tốt thì người dạy và người học phải có những nỗ lực nhất định để phát <br /> huy khả  năng của chính mình. Với tư  cách là một giáo viên đứng lớp trực <br /> tiếp giảng dạy môn Ngữ  văn trong thời gian qua, bản thân tôi luôn trăn trở, <br /> tìm tòi phương pháp tích cực nhằm gây hứng thú cho học sinh để các em yêu <br /> thích, say mê với môn học.<br /> Từ  thực tiễn giảng dạy, tôi nhận thấy được sự  chán nản của học  <br /> sinh khi đến giờ Ngữ văn, các em không thích học văn đó là hệ lụy dẫn đến <br /> sự  tiếp thu kiến thức của học sinh còn nhiều hạn chế, còn lạm dụng quá  <br /> nhiều vào sách tham khảo, không muốn tư duy, sáng tạo, đa số dựa chủ yếu <br /> vào bài văn mẫu dẫn đến học thuộc lòng, thụ động, không có thói quen đọc  <br /> sách, không phát biểu xây dựng bài, lỗi chính tả  ngày càng phổ  biến ngay  <br />                                                                         5                                                              <br /> cả  học sinh giỏi và đặc biệt không hứng thú khi đến giờ  học văn vì thế <br /> kiến thức về văn học ngày càng nghèo nàn, diễn đạt câu văn ngô nghê, khô <br /> khan, không có hồn, không soạn bài  ở  nhà, tỏ  ra thờ   ơ  với công việc quan  <br /> trọng này. Sự  giảm sút hứng thú và ý thức học văn, sự  nghèo nàn về  kiến <br /> thức văn học là một trong những nguyên nhân gây ra nhiều vụ bạo lực học  <br /> đường, của những lời nói thô tục thường ngày  ở  học sinh. Các em chưa <br /> nhận thức rõ được tầm quan trọng của văn học là nhân học, học văn để <br /> học làm người, để hiểu cuộc đời và biết yêu đời, yêu người và sống có ích. <br /> Bên cạnh đó nhiều giáo viên chưa chú trọng đến   việc đổi mới phương  <br /> pháp dạy học dẫn đến thực trạng học sinh ngày càng xao nhãng việc học.  <br /> Điều này khiến tôi phải luôn trăn trở suy nghĩ và tìm mọi cách để học sinh <br /> hứng thú hơn, hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo hơn, có niềm say mê <br /> và thực sự bị hấp dẫn và lôi cuốn trong giờ học văn. Bên cạnh đó, tôi thấy <br /> học sinh ngày nay có đủ điều kiện học tập, cùng với sự phát triển của khoa  <br /> học kỹ  thuật và công nghệ  thông tin. Vì vậy, mỗi giáo viên chúng ta phải <br /> biết tự học, tự bồi dưỡng, tự trang bị cho mình kiến thức và phương pháp <br /> mới trong quá trình giảng dạy để  đáp  ứng nhu cầu học tập, để  giúp học <br /> sinh học tập tốt hơn. Ngoài việc  ứng dụng công nghệ  thông tin, chúng ta  <br /> cần tìm cách đổi mới phương pháp dạy học phù hợp. Vậy, việc học văn và  <br /> dạy văn trong nhà trường nếu làm thật tốt sẽ đem lại cho mỗi học sinh một  <br /> hành trang tinh thần quý giá, một đời sống tình cảm phong phú, một nhận  <br /> thức sâu sắc về con người và cuộc đời.<br /> Chính vì tầm quan trọng trên và để  nâng cao chất lượng bộ  môn nên <br /> trong quá trình dạy học, nghiên cứu phương pháp mới cùng với những ý <br /> kiến đóng góp của đồng nghiệp, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Một số  <br /> phương pháp giúp học sinh học tốt phần thơ hiện đại ­ Ngữ văn 9.”<br /> 2.4 Phạm vi đề tài: Học sinh lớp 9 Trường THCS Nguyễn Trãi – Đại Lộc <br /> – Quảng Nam.<br /> 3. CƠ SỞ LÝ LUẬN<br /> Theo các nhà nghiên cứu giáo dục thì hiệu quả trong việc gây hứng thú <br /> cho học sinh trong giờ  dạy Ngữ  văn nói lên trình độ  giáo dục văn học của <br /> nhà trường nói chung và của từng giáo viên nói riêng. Văn học dễ làm say mê <br /> người học nếu người dạy tạo được sự  hứng thú tự  thân nơi người học.  <br /> Người học văn cảm thụ  được cái hay, cái đẹp trong từ  ngữ, bố  cục, vần <br /> điệu ... khi có được sự hứng thú tìm hiểu và đưa đến cảm xúc khi cảm thụ. <br /> Cái khó của người dạy là làm thế nào truyền được cảm xúc của tác giả đến <br /> với người học. Trong nhà trường phổ thông, đối tượng học sinh do đặc điểm <br /> tâm sinh lý lứa tuổi thích tìm hiểu và sáng tạo nhưng chưa có phương pháp  <br /> đúng để cảm thụ văn học, chưa hiểu rõ cái hay, cái đẹp ẩn chứa trong từng <br /> câu thơ, câu văn, chưa có cảm xúc thực sự  đồng điệu với cảm xúc của tác <br /> giả... Chính những thiếu sót trên học sinh thường không thích học và đọc <br /> văn. Nhiệm vụ  của giáo viên dạy văn là phải tạo sự  hứng thú, phải khiến <br />                                                                         6                                                              <br /> cho những từ ngữ khô khan biết nhảy múa, biết vẽ ra những khung cảnh lúc  <br /> yên bình, lúc dữ  dội, phải đi vào tâm hồn các em những tình cảm yêu, ghét, <br /> nhớ  nhung, mơ  mộng, phải mở  ra những cánh cửa từ  lâu được khóa chặt  <br /> bằng sinh hoạt đời thường.<br /> Trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy các môn học nói chung và <br /> môn Ngữ văn nói riêng, việc lấy học sinh làm trung tâm thúc đẩy tư duy học  <br /> sinh, mở  cho các em hướng nghiên cứu và tự  mình giải quyết những thắc  <br /> mắc, những khó khăn trong việc tìm hiểu phân tích. Người giáo viên không <br /> còn giảng giải một cách say sưa khi không có phản hồi từ học sinh, các em  <br /> được làm quen với những câu hỏi gợi mở, những gợi ý cho một đề  tài thảo <br /> luận, các em có quyền nêu những nhận xét, những cảm nhận cá nhân về đề <br /> tài, về  nhân vật, về  tác giả... Từ  những cảm nhận đôi khi chưa chính xác,  <br /> gây tranh cãi góp phần rất lớn trong việc điều chỉnh nhận thức, gây hứng thú <br /> cho các em và văn học không xa lạ, không đóng khung trong Tháp ngà mà  <br /> thật sự gần gũi biết bao.... <br /> Học tốt môn Ngữ  văn sẽ  có tác động tích cực đến kết quả  của các <br /> môn khác, toát lên yêu cầu tăng cường thực hành, gắn với đời sống, góp <br /> phần hình thành những con người có trình độ  học vấn phổ  thông cơ  sở, <br /> chuẩn bị cho lớp trẻ  ra đời hoặc tiếp tục học lên cao hơn. Đó là những con  <br /> người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương, quý trọng gia đình, bạn bè, có <br /> lòng yêu nước, yêu chủ  nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư  tưởng, tình <br /> cảm tốt đẹp, có lòng nhân ái, tôn trọng lẽ phải, công bằng, có lòng căm ghét  <br /> cái ác, cái xấu, có tư duy sáng tạo. Đó là những người biết cảm thụ cái hay, <br /> cái đẹp, biết hướng tới những giá trị của chân, thiện, mỹ …<br /> 4. CƠ SỞ THỰC TIỄN<br /> Trường   THCS   Nguyễn   Trãi   là   một   ngôi   trường   được   tách   ra   từ <br /> trường Trung học Đại Lộc sau năm 1975, trường cấp 1& 2 Đại phước là cơ <br /> sở của trường Trung học Đại lộc cũ ở Khu 7 Thị Trấn Ái Nghĩa. Đến năm  <br /> 1991, do nhu cầu phát triển của giáo dục huyện nhà và thực hiện đề  án <br /> trường Liên xã, trường Trung học cơ sở Nguyễn Trãi được thành lập  theo <br /> QĐ số  816/ QĐ­UB ngày 01tháng 8 năm 1991 của  Ủy ban nhân dân Huyện <br /> Đại lộc. Địa điểm trường đặt tại Khu 4 Thị Trấn Ái Nghĩa. Đến năm 1997  <br /> do sự phát triển về số lượng học sinh nên phải chia tách số học sinh xã Đại <br /> Hiệp về trường mới <br /> ( THCS Trần Phú). Hiện nay nhà trường chỉ còn học sinh của Thị Trấn Ái <br /> Nghĩa   và   một   bộ   phận   học   sinh   của   xã   Đại   Nghĩa.  <br />  <br /> Trong những năm qua, nhà trường đã từng bước khẳng định được uy <br /> tín, chất lượng của trường  so với các trường trong  địa bàn huyện. Nhà  <br /> trường đã xây dựng được đội ngũ giáo viên tương   Đội ngũ thầy cô giáo <br /> trong nhà trường tương đối đồng đều về  chuyên môn, nghiệp vụ.   Hằng <br /> năm, trường đều có giáo viên tham gia Hội thi giáo viên giỏi cấp trường và  <br /> huyện đạt thành tích cao. Nhiều cán bộ, giáo viên được công nhận danh <br />                                                                         7                                                              <br /> hiệu chiến sĩ thi đua các cấp. Đặc biệt, trong nhiều năm qua, nhà trường <br /> luôn có học sinh đạt giải HS giỏi các cấp; tỷ  lệ  học sinh được công nhận  <br /> xét tốt nghiệp THCS luôn đạt từ 98% trở lên.<br /> Không những thế, nhà trường có được đội ngũ giáo viên đoàn kết, <br /> nhiệt tình, năng nổ, yêu nghề  và dày dạn kinh nghiệm. Chính vì thế  mà <br /> trong những năm học 2014­2015; 2015­2016 trường  đã đạt được  những <br /> thành tích vượt bậc trong dạy và học, đặc biệt là phong trào học sinh giỏi  <br /> mũi nhọn đạt giải nhất năm học 2015­2016, chất lượng giáo dục và học <br /> tập ở trường khá cao và có uy tín trong cả huyện. <br />  Riêng tổ Ngữ văn năm học vừa qua đạt thành tích khá cao trong công <br /> tác bồi dưỡng học sinh giỏi cấp huyện – giải III toàn đoàn.<br /> Bên cạnh những thành tích kể trên, trong những năm học trước chất  <br /> lượng học sinh giỏi Ngữ văn 9 và học sinh đỗ vào trường chuyên chưa cao. <br /> Nhiều học sinh thi tuyển vào lớp chọn cũng không đạt bởi trong trường <br /> vẫn còn  nhiều học sinh chưa ngoan, chưa có ý thức tự giác trong học tập,  <br /> mải chơi, bị  lôi cuốn vào các trò chơi điện tử, bị  lôi kéo tham gia vào các  <br /> hoạt động làm mất trật tự trong trường học gây không ít phiền hà cho gia <br /> đình và nhà trường. Đặc biệt là  ở  học sinh khối 9, điều đó đã làm  ảnh <br /> hưởng đến chất lượng học tập của các em.<br /> <br /> 5. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU<br /> Vấn đề giúp học sinh học tốt trong giờ học Ngữ văn đi đôi với hiệu  <br /> quả  có tính giáo dục cao. Học sinh có thể có hứng thú nhưng hiệu quả giáo <br /> dục mới  là mục đích mà người  dạy cần  đạt. Tôi xin trình bày một số <br /> phương pháp đã áp dụng khi hướng dẫn học sinh tiếp xúc, tìm hiểu với văn <br /> bản thơ hiện đại như sau:<br /> 1. Phương pháp 1: Đảm bảo nguyên tắc dạy học văn theo hướng  <br /> tích hợp, tích cực; phát huy năng lực của người học; giúp các em nắm  <br /> vững kiến thức tiếng Việt để vận dụng phân tích văn bản thơ trữ tình.<br /> Phát hiện và phân tích bình giá các dấu hiệu nghệ  thuật, sử  dụng hệ <br /> thống câu hỏi hướng dẫn phân tích bình giá, sử  dụng phương pháp gợi tìm, <br /> phương pháp nghiên cứu để giúp học sinh làm tốt các bài nghị luận về đoạn <br /> thơ, bài thơ trong chương trình Ngữ văn 9.<br /> Về  chủ  quan, các văn bản thơ  trữ  tình được đưa vào chương trình <br /> trong thời điểm cụ thể từng bài, từng tuần đã đảm bảo tính tích hợp bởi đó <br /> là nguyên tắc xây dựng chương trình giáo dục. Tích hợp giữa Văn ­ Tiếng <br /> Việt ­ Tập làm văn (tích hợp ngang) và tích hợp dọc các nội dung, các kiểu <br /> văn bản đã học từ  lớp 6 đến lớp 9. Thực tế  dạy ­ học tiếng Việt từ  lớp 6  <br /> đến lớp 9 đã cung cấp cho học sinh tri thức về các dấu hiệu nghệ thuật trong <br /> văn bản, nhất là văn bản thơ. Các kiểu từ loại, các kiểu câu, cấu tạo câu, các  <br /> biện pháp tu từ, tất cả đều có giá trị sử dụng khi phân tích một văn bản thơ.  <br /> Ứng dụng các kiến thức tiếng Việt, các em sẽ phát hiện và phân tích bình giá <br />                                                                         8                                                              <br /> các tín hiệu nghệ  thuật  ấy để  cảm thụ  bài thơ  sâu sắc hơn. Song các kiến <br /> thức tiếng Việt học đã lâu các em sẽ  dễ  dàng quên. Vì thế  trong các tiết <br /> “Tổng kết từ vựng” các em cần được ôn tập kĩ càng để khắc sâu kiến thức.  <br /> Sau mỗi bài dạy ­ học văn bản thơ  cần có bài tập viết đoạn trình bày cảm  <br /> nhận để  học sinh luyện về  kiểu bài nghị  luận về  đoạn thơ, bài thơ. Thông <br /> thường, phần luyện tập của mỗi bài đều có, song không nhất thiết phải làm <br /> ngay trên lớp mà giáo viên có thể ra về nhà cho học sinh làm. Từ đó, các em  <br /> có thời gian nghiên cứu, tìm hiểu kỹ hơn và cảm nhận sẽ sâu sắc hơn. <br /> Phần vì đảm bảo thời gian, phần vì để học sinh có độ “ngấm” sâu hơn <br /> nên cho các em về nhà làm bài viết đoạn vào giấy và kiểm tra lại bằng cách  <br /> yêu cầu các em nộp lại cho giáo viên. Để  làm được điều này giáo viên cần  <br /> phải chịu khó chấm bài để nắm được trình độ hiểu biết, mức độ hiểu bài và <br /> khả  năng thực hành của học sinh. Đồng thời để  khuyến khích các em, giáo  <br /> viên có thể cho điểm thưởng với những em chăm làm, viết hay và có thể đọc  <br /> trước lớp thay cho phần kiểm tra bài cũ. <br /> Phương pháp dạy học tích cực chỉ ra rằng: người học – chủ thể hoạt <br /> động – phải tự  mình tìm ra kiến thức, với cách tìm ra kiến thức thông qua  <br /> hành động của chính mình. Chỉ có bằng hành động tự tìm hiểu khi các em tự <br /> nói ra những điều mình cảm nhận được thì bài thơ  sẽ  sống mãi, và lúc đó <br /> quá trình cảm thụ mới thật sự thành công.<br /> Có một nhà sư  phạm ví lớp học là một dàn nhạc, thầy giáo là nhạc <br /> trưởng. Nhạc trưởng chỉ  huy cả  dàn nhạc cùng hoạt động, nhạc trưởng <br /> không chơi đàn thay cho nhạc công. Sách giáo khoa hay văn bản, tác phẩm <br /> văn học, học sinh đọc tìm hiểu văn bản là nguồn kiến thức mà  giáo viên  <br /> hướng dẫn.<br /> Học sinh được giáo viên hướng dẫn sẽ  hình thành kiến thức mới trên <br /> cơ  sở  sách giáo khoa. Giáo viên có thể  phát huy được năng lực trí tuệ  của  <br /> học sinh, việc dạy văn thực sự là hoạt động rèn luyện con người một cách <br /> sáng tạo.<br /> Từ  nhận thức trên, tôi đưa ra một số  kinh nghiệm tích hợp trong việc  <br /> dạy văn bản thơ như sau:<br /> a. Quan điểm tích hợp:<br /> Tích hợp là quan điểm dạy học hiện đại đang được vận dụng rộng rãi <br /> trên thế giới. Ở nước ta cũng đang trên con đường vận dụng quan điểm tích  <br /> hợp vào việc xây dựng chương trình sách giáo khoa, bồi dưỡng giáo viên,  <br /> đổi mới phương pháp dạy học, dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả  học <br /> tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Môn Văn, Tiếng Việt, <br /> Tập làm văn gọi chung là môn Ngữ  văn. Ba môn này đều nhằm vào mục  <br /> đích hình thành cho học sinh năng lực phân tích, bình giá, cảm thụ văn học  <br /> nghệ thuật một cách chủ động, hình thành bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. <br /> Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích, bình giá và cảm thụ  văn học. Đó  <br /> chính là hướng phấn đấu theo quan điểm dạy theo hướng tích hợp, lấy học  <br /> sinh làm trung tâm của quá trình dạy học. Dạy như  thế  nào để  phối hợp  <br />                                                                         9                                                              <br /> được các tri thức, kỹ  năng thuộc từng phân môn. Tích hợp có thể  xem là <br /> nguyên tắc tổng quát để  xây dựng chương trình, định hướng phương pháp  <br /> giảng dạy cho người giáo viên.<br /> Vậy quan điểm tích hợp là phương hướng phối hợp một cách tối  ưu <br /> các quá trình học tập của các môn học, phân môn khác nhau để  đáp  ứng  <br /> mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể.<br /> b. Mức độ, phạm vi tích hợp:<br /> Theo tôi, người giáo viên cần xác định được mức độ tích hợp và phạm  <br /> vi tích hợp. Vấn đề là phải biết chọn nội dung gì, ở phần nào để tích hợp là  <br /> điều  không đơn giản. Chúng ta cần phải chú ý đến nội dung từng bài học  <br /> trong sách giáo khoa để  vận dụng vào bài dạy. Chúng ta thấy các tác giả <br /> soạn sách giáo khoa đã sắp xếp bài học có ý đồ tích hợp, nhưng không phải <br /> bài học nào cũng có. Vì vậy, chúng tôi phải dựa vào chương trình, sách giáo  <br /> khoa và thực tiễn, trình độ  học sinh, lượng thời gian…để  xác định mức độ <br /> phạm vi tích hợp, cần chọn nội dung, khía cạnh thích hợp, không được gò <br /> ép hoặc chăm chú vào tích hợp. Nghĩa là ta phải tích hợp đúng lúc, đúng <br /> chỗ, đúng mức.<br /> c. Quá trình tích hợp:<br /> c.1: Tích hợp thông qua việc kiểm tra bài cũ:<br /> Kiểm tra bài cũ là bước đầu tiên trong tiến trình tổ chức các hoạt động <br /> dạy học. Mục đích của hoạt động này là kiểm tra lại việc học bài ở nhà và  <br /> mức độ tiếp thu kiến thức, hiểu bài của học sinh. Đây cũng là hoạt động có  <br /> tính chất kết nối giữa bài cũ và bài mới. Nên kiểm tra bài cũ là cần thiết và <br /> thuận lợi cho việc dạy bài mới.<br /> Ví dụ: Dạy bài “Đồng chí” (tiết 2) tôi  tiến hành kiểm tra bài cũ như <br /> sau: <br /> + Đọc thuộc lòng 7 dòng thơ đầu bài thơ “Đồng chí” ­ Chính Hữu?<br /> + Nêu nội dung chính của đoạn thơ vừa đọc?<br /> + Cơ sở  nào hình thành tình đồng chí cao đẹp?<br /> + Biện pháp nghệ thuật  nào chủ yếu được sử dụng? Tác dụng?<br /> ( Tích hợp Văn học ­ Tiếng Việt)<br /> c.2: Tích hợp thông qua việc giới thiệu bài mới:<br /> Giới thiệu bài mới là thao tác đầu tiên giúp học sinh hiểu được tên bài <br /> học, chiếm một lượng thời gian nhỏ khoảng 2 ­ 3 phút nhưng không phải <br /> bài học nào ta cũng giới thiệu. Công việc này có ý nghĩa trong việc chuẩn bị <br /> hứng thú trước khi học bài mới cho người học.<br /> Ví dụ 1:  Khi dạy bài thơ “Bếp lửa” ­ Bằng Việt.<br /> Giáo viên hỏi: Trong chương trình Ngữ  văn Trung học cơ  sở, em đã được <br /> học bài thơ nào viết về hình ảnh người bà? Của tác giả nào? Nội dung của  <br /> bài thơ đó? Sau đó giáo viên chốt nội dung và đặc sắc nghệ thuật, dẫn vào <br /> bài mới. (Tích hợp ngang ­ dọc)<br /> Ví dụ 2: Khi dạy bài thơ “Ánh trăng” ­ Nguyễn Duy.<br />                                                                         10                                                            <br /> <br /> Giáo viên tổ chức trò chơi “Đuổi hình bắt chữ” (Nhìn hình đoán tục ngữ, <br /> thành ngữ) để  tạo hứng thú cho học sinh trước khi học và sau đó hỏi các <br /> em: Tục ngữ, thành ngữ nào nói lên được đạo lý sống ân nghĩa thủy chung  <br /> cao quý của dân tộc ta? (Uống nước nhớ nguồn). <br /> Giáo viên động viên các em bằng cách cho các em trả  lời đúng chọn <br /> phần thưởng. Giáo viên chuẩn bị ba phần thưởng ứng với ba hộp quà: điểm <br /> 10, hộp kẹo và tràng pháo tay.<br /> Giáo viên chốt dẫn vào bài mới: Tại sao tác giả    trong bài thơ  hôm <br /> nay chúng ta học lại nhắc nhở với chính mình và với mọi người như  vậy, <br /> các em sẽ được tìm hiểu trong bài học hôm nay.<br /> c.3: Tích hợp thông qua tìm hiểu chú thích, bố cục:<br /> Đây là phần dễ  dàng nhất cho tích hợp ngang, liên hệ  kiến thức <br /> Văn ­ Tiếng Việt ­ Tập làm văn thông qua các dạng câu hỏi:<br /> ­ Xác định giọng điệu văn bản.<br /> ­ Xác định thể loại văn bản, xác định ngôi, trình tự  văn bản (Tích hợp <br /> Tập làm văn)<br /> ­ Giải thích từ khó (Tích hợp tiếng Việt)<br /> ­ Câu hỏi về tác giả, tác phẩm có liên quan (Tích hợp ngang, dọc)<br />           c.4: Tích hợp thông qua câu hỏi tìm hiểu bài:<br /> Trong dạy học Ngữ  văn hình thức nêu câu hỏi ­ đáp đóng vai trò  <br /> quan trọng, thể hiện tính tích cực chủ động của người học cũng như vai trò <br /> chủ động của giáo viên. Đây là hoạt động mang tính linh hoạt, nghệ  thuật. <br /> Tôi đã lồng ghép thông qua hệ  thống câu hỏi tích hợp Văn ­ Văn, Văn ­  <br /> Tiếng Việt, Văn ­ Tập làm văn.<br /> Ví dụ: Dạy bài Mùa xuân nho nhỏ ­ Tiết 116 (Ngữ văn 9). Tôi đã tích <br /> hợp Văn ­ Tiếng Việt thông qua các câu hỏi.<br /> ­ Hình  ảnh mùa xuân thiên nhiên được phác họa bằng những chi  <br /> tiết nào? Cấu tạo ngữ pháp trong hai câu đầu có gì đặc biệt? Tác <br /> dụng?<br /> ­ Ở hai câu tiếp theo tác giả sử dụng kiểu câu gì? Cảm xúc của tác <br /> giả?<br /> ­ Trong hai câu cuối của khố thơ đầu, em hiểu “giọt long lanh” ở <br /> đây là giọt gì?<br /> ­ Hãy xác định biện pháp nghệ thuật trong hai câu đó? Tác dụng?<br /> ­ Bức tranh mùa xuân hiện lên như thế nào?<br /> ­ Trong chương trình, em đã cảm nhận bức tranh xuân trong bài  <br /> thơ nào? So sánh để thấy sự khác nhau?<br /> Thông qua hệ  thống câu hỏi tích hợp, giáo viên đã cùng học sinh cảm <br /> nhận được bức tranh mùa xuân thiên nhiên của bài thơ, đảm bảo đặc trưng <br /> của một văn bản nghệ  thuật qua những biểu hiện nghệ thuật để  thể  hiện <br /> nội dung văn bản, hơn nữa còn góp phần mở rộng cho học sinh những kiến <br /> thức văn học có liên quan khi các em cảm nhận thơ văn.<br />                                                                         11                                                            <br /> <br /> c.5: Tích hợp thông qua tiểu kết từng phần hay tổng kết giờ học:<br /> Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu khám phá kiến thức, tích hợp <br /> qua lời giảng, có ý nghĩa khái quát lại vấn đề hoặc chuyển tiếp nếu là tiểu <br /> kết, nếu hết bài thì tổng kết. Tôi có thể liên hệ so sánh, đối chiếu.<br /> c.6: Tích hợp thông qua bài tập:<br /> Để đánh giá kiến thức đã tiếp thu bài học, giúp học sinh nắm chắc <br /> kiến thức, nhớ lâu bằng cách làm các bài tập trong sách giáo khoa. Giáo viên <br /> gọi học sinh lên bảng làm, học sinh  ở dưới nhận xét bổ  sung, nếu câu khó <br /> cho các em cùng thảo luận tổ và cử đại diện lên bảng ghi kết quả trả lời.<br /> Giáo viên nhận xét và chốt lại ý đúng.<br /> Ví dụ: Viết đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về  ước nguyện của  <br /> nhà thơ Thanh Hải trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, trong đó có khởi ngữ,  <br /> gạch dưới khởi ngữ (Tiết 93). Tích hợp Văn ­ Tiếng Việt ­ Tập làm văn.<br /> c.7: Tính tích h ợ p liên môn:<br />   D ạ y h ọ c tích h ợp liên môn là hình th ức tìm tòi nh ững n ộ i dung  <br /> giao thoa gi ữa các môn họ c, là con đ ườ ng tích h ợ p nh ững n ộ i dung t ừ <br /> mộ t s ố  môn h ọ c liên quan v ới nhau. Đây là m ộ t nguyên t ắ c quan tr ọ ng  <br /> trong d ạ y h ọc Ng ữ  văn nói chung và phân môn văn h ọ c nói riêng, đây <br /> là m ộ t quan đi ể m d ạ y h ọ c hi ện đ ạ i, nh ằ m phát huy tính tích c ự c c ủ a  <br /> họ c sinh đ ể  nâng cao ch ấ t l ượ ng giáo d ụ c. D ự  án d ạ y các văn b ả n th ơ <br /> hiệ n đ ạ i Ng ữ  văn 9 có sự  tích h ợ p r ộ ng rãi v ớ i các môn họ c GDCD,  <br /> Nh ạ c, H ọ a, L ị ch s ử, Đị a lý...<br /> <br /> ­Môn GDCD:<br /> +GDCD 6:  Bài  Bi ế t   ơn (Liên quan đ ế n các bài:   Ánh trăng;  B ế p  <br /> lử a; Vi ếng lăng Bác; Con cò; Nói v ớ i con)<br />   +GDCD 8:  Tình b ạ n trong sáng, lành m ạ nh (Liên quan  đế n các <br /> bài: Đ ồ ng chí; Bài th ơ  v ề  ti ể u đ ộ i xe không kính )<br /> <br />              + GDCD 9: Lý t ưở ng s ố ng c ủa thanh niên; Trách nhi ệ m c ủ a  <br /> thanh niên trong s ự  nghi ệ p công nghi ệ p hóa, hi ệ n đ ạ i hóa đ ấ t n ướ c;  <br /> nghĩa v ụ  b ả o v ệ  T ổ  qu ố c ( liên quan đ ế n các bài:  Đ ồ ng chí; Bài th ơ  <br /> v ề   ti ểu   đ ộ i   xe   không   kính;   Đoàn   thuy ề n   đánh   cá;   Khúc   hát   ru  <br /> nh ữ ng em bé trên lư ng m ẹ; Mùa xuân nho nh ỏ; Nói v ớ i con  ).<br /> <br /> ­Môn Nh ạ c:  <br />                                                                         12                                                            <br /> <br /> Đối với những văn bản thơ  đã được phổ  nhạc như  Đồng chí  của <br /> Chính Hữu, Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận, Khúc hát ru những em  <br /> bé trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm, Mùa xuân nho nhỏ của Thanh <br /> Hải, Viếng lăng Bác của Viễn Phương nếu cho học sinh thưởng thức sẽ <br /> có tác dụng rất lớn trong việc tạo nên những xúc động mạnh mẽ  của học  <br /> sinh về văn bản mà mình được học. Công việc này cùng với việc đọc diễn <br /> cảm văn bản thơ  có khả  năng đánh thức cảm xúc về  nhịp điệu, giai điệu <br /> cho học sinh và cũng từ đó các em cảm nhận những cung bậc của tâm hồn <br /> đang hát lên trong những giai điệu đó.<br /> C ụ  th ể :<br /> <br />         + Đ ồ ng chí. ( Liên quan đế n bài  Đ ồ ng chí .)<br /> <br />         + Bài ca ng ườ i lái xe ( Liên quan đ ế n bài  Bài th ơ  v ề  ti ểu đ ộ i xe  <br /> không kính)<br /> <br />         + Bà tôi (Liên quan đế n bài  B ế p l ử a) <br /> <br />                +  Khúc hát ru nh ững em bé trên l ư ng m ẹ  (Liên quan đế n bài <br /> Khúc hát ru nh ữ ng em bé trên l ư ng m ẹ)<br /> <br /> + Mùa xuân nho nh ỏ  ( Liên quan đế n bài  Mùa xuân nho nhỏ)<br /> <br /> + Vi ế ng lăng Bác ( Liên quan đ ế n bài  Vi ế ng lăng Bác )<br /> <br /> ­Môn H ọ a :<br /> <br />                V ận d ụng ki ến th ức, kĩ năng c ủ a môn H ọ a đ ể  vẽ  tranh c ả m  <br /> nh ậ n v ề  hình  ả nh ng ườ i lính trong hai cu ộc kháng chi ế n ch ố ng Pháp <br /> và ch ố ng M ỹ ; c ả m nh ậ n v ề  v ẻ  đẹ p củ a bi ể n và hình  ả nh ng ườ i lao <br /> độ ng trên bi ể n;  c ả m nh ận v ề  hình  ả nh ng ườ i  bà, ng ườ i  m ẹ , ng ườ i <br /> cha th ể  hi ện qua các bài th ơ  mà các em v ừa h ọ c, c ả m nh ậ n v ề  b ức <br /> tranh thiên nhiên c ủ a mùa xuân, c ả m nh ậ n v ề  b ức tranh giao mùa t ừ <br /> h ạ  sang thu, v ề hình  ả nh đoàn ng ườ i vào viế ng lăng Bác.<br /> <br /> ­ Môn L ị ch s ử :<br /> <br /> M ộ t tác ph ẩ m văn h ọ c th ườ ng ph ả n ánh m ộ t s ự  ki ệ n, m ộ t b ố i <br /> c ả nh, m ộ t giai đo ạ n l ị ch s ử  nh ấ t đị nh và thông qua đó tác gi ả  nói lên <br /> suy nghĩ, tình c ảm, quan đi ể m c ủ a mình. Ki ế n th ức l ịch s ử  góp ph ầ n <br />                                                                         13                                                            <br /> làm cho bài gi ả ng thêm h ấ p d ẫ n, sinh  đ ộ ng, nâng cao h ứ ng thú họ c  <br /> t ậ p cho h ọ c sinh.  Ở  m ột tác ph ẩ m, gi ữa văn h ọ c và l ị ch sử  có  mố i  <br /> liên   quan   ch ặt   ch ẽ   v ới   nhau   nên   vi ệ c   tích   h ợ p   văn   h ọ c   v ớ i   l ị ch   s ử <br /> trong d ạ y h ọ c văn là c ầ n thi ế t.<br /> <br /> C ụ  th ể : <br /> <br /> +L ị ch   s ử   l ớp   9:   Nh ững   năm   đ ầ u   c ủ a   cu ộ c   kháng   chi ế n   toàn <br /> quố c  ch ố ng th ực  dân Pháp (1946 – 1950)  (Liên quan  đế n bài   Đ ồ ng  <br /> chí)<br /> <br /> + L ị ch s ử  9: Xây d ựng ch ủ  nghĩa xã h ộ i  ở  mi ề n B ắ c, đấ u tranh <br /> ch ố ng   đ ế   quố c   Mĩ   và   chính   quy ề n   Sài   Gòn   ở   miề n   Nam   (   1954   –  <br /> 1965) (Liên quan đế n bài  Đoàn thuy ề n đánh cá )<br /> <br /> + L ị ch s ử  9: C ả  n ướ c tr ực ti ếp chi ến đấ u ch ố ng Mĩ, cứ u n ướ c  <br /> (1965 – 1973) (Liên quan đ ế n bài  Bài th ơ  v ề  ti ểu đ ộ i xe không kính,  <br /> Khúc hát ru nh ữ ng em bé trên l ư ng m ẹ)<br /> <br /> +   L ị ch   s ử   9:   Vi ệ t   Nam   sau   cu ộc   chi ến   tranh   ch ống   M ỹ <br /> (Liên quan đ ế n bài  Ánh trăng, Mùa xuân nho nh ỏ, Sang thu, Nói v ớ i  <br /> con, Vi ế ng lăng Bác )<br /> <br /> ­ Môn Đ ị a lý:<br /> <br /> D ạ y   văn   không   ch ỉ   tích   h ợ p   ki ế n   th ức   v ới   môn   GDCD,   nh ạ c,  <br /> họ a,  l ị ch  s ử  mà  còn  có th ể   kế t h ợ p   đượ c   v ớ i  môn  đị a  lý. Việ c  xác <br /> đ ị nh v ị  trí đ ị a lý trên b ả n đ ồ  và tìm hi ể u về  đị a danh cũng góp ph ầ n <br /> làm  cho  phong phú   ti ế t  h ọ c,  h ướ ng   các  em nên  tìm  đ ế n  t ậ n n ơ i   để <br /> c ả m   nh ậ n   sâu   s ắ c   và   đ ầ y   đủ   h ơ n   hình   t ượ ng   và   ý   nghĩa   c ủ a   hình  <br /> t ượ ng th ơ  trong tác ph ẩ m.<br /> <br /> C ụ  th ể :<br /> <br /> +   Đ ị a   lý   l ớ p   8:   Đ ị a   hình   Vi ệ t   Nam   (Liên   quan   đ ế n   bài   Đ ồ ng  <br /> Chí, Bài th ơ  v ề  ti ể u đ ộ i xe không kính, Khúc hát ru nh ữ ng em bé  <br /> trên l ư ng m ẹ , Mùa xuân nho nh ỏ)<br />                                                                         14                                                            <br /> + Đ ị a lý l ớ p 9: Trung du và mi ề n núi phía B ắ c (Liên quan đ ế n  <br /> bài Đoàn thuy ề n đánh cá )<br /> <br /> 2. Phương pháp 2:  Ứng dụng công nghệ thông tin hiệu quả trong  <br /> tiết học thông qua cách thiết kế trò chơi, sử dụng tranh ảnh, video. <br />  Để thực hiện phương pháp dạy học hiện đại là phải nói đến phương <br /> pháp trò chơi học tập như: Đối đáp; đoán ô chữ; nhận biết tranh; kim tự <br /> tháp; ai nhanh hơn; trắc nghiệm vui; trò chơi đổi chỗ; mật thư; thi sắp xếp  <br /> từ ngữ...<br /> Tác dụng lớn nhất của phương pháp trò chơi là kích thích nhu cầu học  <br /> tập, tạo hứng thú, không khí sôi nổi trong giờ học, khắc sâu kiến thức hướng <br /> đến mục tiêu cao nhất là nâng cao hiệu quả  học tập. Đồng thời đây là hoạt  <br /> động quan trọng trong dạy học Ngữ văn giúp học sinh dễ  tiếp thu, giờ  học  <br /> sinh động, các em cảm thụ văn học tốt hơn. <br /> Muốn   có   phương   tiện   dạy   học,   giáo   viên   tìm   tòi,   nghiên   cứu,  <br /> chuẩn bị trước, công phu, biết đầu tư tri thức, công sức, vật chất, vận dụng <br /> một cách thích hợp.<br /> Ví  dụ  :   Tổ  chức  trò chơi  sau  khi  dạy văn  bản: “Mùa xuân nho  nhỏ” <br /> (Thanh Hải)<br /> ­ Câu 1: Thanh Hải quê ở đâu?<br /> ­ Câu 2: Thái độ của tác giả thể hiện qua động từ “hứng” là gì?<br /> ­ Câu 3: Hãy nêu cảm xúc của nhà thơ ở khổ thơ thứ nhất?<br /> ­ Câu 4: Trong khổ 4, khung cảnh thiên nhiên như thế nào?<br /> ­ Câu 5: Ước nguyện của nhà thơ được biểu hiện ra sao?<br /> ­ Câu 6: Ước nguyện của nhà thơ được ghi lại qua từ nào?<br /> ­ Câu 7: Làn điệu dân ca xứ Huế được viết trong bài là gì?<br /> ­ Câu 8: Vì sao bài thơ dễ đi vào lòng người?<br /> Ô chữ  bí mật: Tên nhạc sĩ phổ  nhạc bài thơ  “Mùa xuân nho nhỏ” – Thanh <br /> Hải?<br /> Tìm ô chữ hàng dọc được 10 điểm. Với mỗi hàng ngang, giáo viên đưa ra từ <br /> khóa quan trọng. Và trả lời đúng ô chữ hàng ngang sẽ được một phiếu chọn <br /> hộp quà may mắn.<br /> Qua đây, tôi cũng đã giúp học sinh vừa khắc sâu kiến thức, vừa cảm <br /> thấy giờ học bớt nặng nề hơn, hứng thứ sôi nổi, hoạt động tích cực hơn.<br />  Ngoài ra, để  tiết dạy thực sự  sôi động, học sinh thực sự  bị  lôi cuốn,  <br /> trong giờ dạy các văn bản thơ, tôi chuẩn bị chân dung các nhà thơ giúp học  <br /> sinh có cái nhìn sâu hơn khi cảm nhận hồn thơ của mỗi tác giả. Bên cạnh  <br /> đó việc sử dụng tranh ảnh, video đã có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao <br /> năng lực cảm thụ  ở học sinh và đặc biệt những văn bản thơ trong chương  <br /> trình Ngữ văn 9 thật sự là những tác phẩm có giá trị lớn cả về nội dung lẫn <br /> nghệ thuật và trở thành bài ca đi cùng năm tháng. Tuy nhiên, để một bài dạy <br /> thực sự có hiệu quả giáo viên cần phải đầu tư, biết phân bố  thời gian hợp <br />                                                                         15                                                            <br /> lý, không nên đưa quá nhiều tranh  ảnh làm cho giờ  dạy bị  loãng, không <br /> trọng tâm.<br /> Ví dụ  1: Khi dạy bài “Đồng chí” ­ Chính Hữu, tôi đã cho các em quan sát <br /> một số hình ảnh thể hiện tình đồng chí, đồng đội của những người chiến sĩ  <br /> để từ đó giúp các em thấy được những phẩm chất tốt đẹp của người lính ở <br /> mọi thời đại. Đồng thời các em cũng cảm phục, mến yêu và biết ơn những <br /> anh bộ  đội cụ  Hồ  đã quên mình, đem lại độc lập tự  do cho dân tộc Việt  <br /> Nam.<br /> Ví dụ  2:  Khi dạy bài thơ  “Bài thơ  về  tiểu đội xe không kính” ­ Phạm <br /> Tiến Duật, tôi cho học sinh quan sát hình  ảnh những chiếc xe không kính <br /> khi phân tích khổ  1 để  từ  đó các em sẽ  thấy được sự  trần trụi, biến dạng  <br /> của những chiếc xe.<br /> Qua những hình  ảnh này các em sẽ  cảm nhận tốt hơn và từ  đó sẽ <br /> hiểu rõ hơn về  phẩm chất hiên ngang, dũng cảm, trẻ  trung, sôi nổi của  <br /> người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn rực lửa. Với những hình  <br /> ảnh ấy, các em phần nào hiểu được sự ác liệt ở chiến trường, từ đó không <br /> những giáo viên khắc sâu kiến thức cho học sinh mà chúng ta còn giáo dục <br /> cho các em lòng cảm phục, nhớ  ơn các anh hùng đã ngã xuống vì nền độc  <br /> lập dân tộc. Đồng thời các em còn cảm nhận được trong gian khổ  ác liệt  <br /> ấy, tình đồng đội, đồng chí càng gắn bó keo sơn và họ  vẫn lạc quan, yêu <br /> đời ­ một phẩm chất tốt  đẹp của người lính, sức mạnh làm nên chiến  <br /> thắng.<br />  Ví dụ  3: “Viếng lăng Bác” ­ Viễn Phương, tôi đưa vào một số  hình  ảnh <br /> từng dòng người vào viếng Bác sau khi phân tích khổ  thơ  thứ  hai. Thông  <br /> qua hình ảnh này giúp học sinh thấy được tấm lòng của dân tộc Việt Nam <br /> luôn luôn ghi  nhớ   ơn  Người.  Từ   đó  giáo  dục  cho các em truyền thống <br /> “Uống nước nhớ nguồn” và tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện phong trào “ <br /> Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.<br />              Bên cạnh việc sử  dụng chân dung tranh  ảnh, tôi còn sử  dụng video  <br /> trước hoặc sau khi kết thúc bài học. Bởi đối với những văn bản thơ  đã  <br /> được phổ  nhạc như  “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, “Đồng chí” của <br /> Chính Hữu, “Bài thơ  về  tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, <br /> “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương, “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận,  <br /> nếu cho học sinh thưởng thức sẽ  có tác dụng rất lớn trong việc tạo nên  <br /> những cảm xúc mạnh mẽ của học sinh về văn bản. <br />  Vì tầm quan trọng ấy cho nên  tôi đã tự trang bị thêm đĩa CD chép lại <br /> các bài nhạc để sử dụng hoặc lên mạng tải bài hát, đoạn phim liên quan để <br /> soạn giảng trình chiếu powerpoint khi dạy bài học có liên quan. Nội dung <br /> của các phần trình chiếu có liên quan được sắp xếp theo trình tự  bài học:<br />             <br /> 1. “Đồng chí” và đoạn video bài hát “Chúng tôi là chiến sĩ Bác Hồ”.<br /> 2. “Bài ca người lái xe” hoặc “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”.<br />                                                                         16                                                            <br /> 3. “Đoàn thuyền đánh cá”.<br /> 4. “Mùa xuân nho nhỏ”.<br /> 5. “Viếng lăng Bác”.<br /> 6.Video ngày ra đi của Bác Hồ.<br />   Với các nội dung cần trình chiếu có liên quan, tôi có thể cho học sinh  <br /> thưởng thức trước hoặc sau khi học. Khi dạy “Bài thơ về tiểu đội xe không <br /> kính” tôi cho học sinh xem đoạn phim việc Mỹ  ném bom trên dải đường  <br /> Trường Sơn. Hay với thước phim tư  liệu về  ngày Bác mất, khi phân tích <br /> khổ thơ thứ 3 bài thơ “Viếng lăng Bác”, nói về nỗi đau của tác giả trước sự <br /> ra đi của Người… tôi sẽ chiếu cho học sinh xem những đoạn đó.<br /> 6. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br /> Qua thực hiện các phương pháp đã nêu, tôi nhận thấy các em học sinh  <br /> có nhiều tiến bộ  rõ rệt khi tìm hiểu những đặc sắc về  nội dung và nghệ <br /> thuật của tác phẩm, học sinh khắc sâu các kiến thức về  tiếng Việt, biết  <br /> cách áp dụng kiến thức tiếng Việt vào làm bài nghị  luận văn b
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2