SKKN: Xây dựng tập san chủ quyền của nước ta ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa góp phần giáo dục chủ quyền biển, đảo trong dạy học Địa lí 12
lượt xem 5
download
Mục tiêu của đề tài là đưa ra thực trạng sự hiểu biết của học sinh về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tìm ra nguyên nhân và hướng giải quyết vấn đề. Sáng kiến mà tôi đưa ra là tôi xây dựng cuốn tập san chủ quyền biển đảo nước ta tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ đó sử dụng trong một số bài học chương trình Địa lí 12 để học sinh dễ dàng nhận thức được những đặc điểm, chủ quyền của nước ta tại hai quần đảo này, phạm vi các bộ phận vùng biển nước ta thông qua Luật biển quốc tế, năm 1982 đồng thời nâng cao chất lượng dạy học môn Địa lí.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: SKKN: Xây dựng tập san chủ quyền của nước ta ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa góp phần giáo dục chủ quyền biển, đảo trong dạy học Địa lí 12
- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN I. LỜI GIỚI THIỆU Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ thiêng liêng, trọng đại và phức tạp. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã đấu tranh kiên cường không mệt mỏi để giữ vững chủ quyền quốc gia. Cuộc đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích của Việt Nam trên vùng biển, thềm lục địa và hải đảo là cuộc đấu tranh phức tạp về nhiều mặt đòi hỏi không chỉ các nhân tố nội lực truyền thống mà đòi hỏi người tham gia đấu tranh phải có tri thức toàn diện, có hiểu biết về lịch sử và ngoại giao, vận dụng luật pháp, công luận trong và ngoài nước. Để giữ vững chủ quyền biển, đảo thì trước hết phải giáo dục chủ quyền.Qua đó, chúng ta thêm tự hào hơn về dân tộc, thêm yêu quê hương đất nước, có mục tiêu sống, lí tưởng sống tốt đẹp, có định hướng đúng trong tương lai góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Hơn bao giờ hết, giáo dục chủ quyền biển, đảo đặc biệt giáo dục chủ quyền của nước ta tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Thời gian gần đây, Trung Quốc có những hành động và quan điểm sai trái về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc tuyên bố thành lập Tam Sa diễn ra sau khi Việt Nam thông qua Luật Biển vào tháng 6/2012. Việc thành lập trái phép cái gọi là “Thành phố Tam Sa” của Trung Quốc là một bước tiến mới nằm trong âm mưu lâu dài nhằm kiểm soát, khống chế tiến tới độc chiếm biển Đông của giới cầm quyền Trung Quốc – một ý đồ nhất quán, xuyên suốt trong nội bộ chính quyền và xã hội Trung Quốc. Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 nằm sâu trong vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2014, đã trở thành sự kiện thu hút sự quan tâm của thế giới, làm dấy lên những làn sóng dư luận phản đối mạnh mẽ cả ở trong và ngoài nước. Không dừng lại ở đó, Trung Quốc tiến hành xây dựng 1
- một cách trái phép các đảo nhân tạo bằng cách hủy hoại các rạn san hô tại bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Các đảo nhân tạo có diện tích bề nổi lớn gấp từ hàng chục, thậm chí hàng trăm lần so với trạng thái trước kia. Đồng thời với hoạt động đó trên thực địa, là việc một số quan chức Trung Quốc liên tiếp đưa ra những tuyên bố và phát biểu bát chấp những yêu cầu sơ đẳng của công pháp và những thỏa ước quốc tế cũng như khu vực mà Trung Quốc vốn là một thành viên tham gia. Đứng trước những hành động, những khó khăn này có rất nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học, nhà sử học,… cho ra đời những cuốn sách giúp người đọc hiểu hơn về chủ quyền biển đảo của nước ta tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ở lứa tuổi học sinh, không phải ai cũng nghiên cứu và tìm hiểu vì học sinh không biết, không đủ kiên nhẫn và không có nhiều thời gian đọc do kiến thức phải học nhiều hơn nữa nguồn thông tin rất đa dạng, học sinh không biết chọn lọc thông tin . Trên thực tế, học sinh chỉ được nghe mà không hiểu được bản chất của vấn đề, của những hành động sai trái đó. Thậm chí nhiều học sinh còn không biết vị trí của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong dạy học Địa lí, giáo dục chủ quyền biển đảo giữ vai trò rất quan trọng song song với đó là cần nâng cao chất lượng dạy học. Rõ ràng, điều này đáng báo động trong việc giáo dục chủ quyền biển đảo của nước ta không chỉ ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì vậy, tôi chọn sáng kiến kinh nghiệm: “ Xây dựng tập san chủ quyền của nước ta ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa góp phần giáo dục chủ quyền biển, đảo trong dạy học Địa lí 12”. Với đề tài này, tôi đưa ra thực trạng sự hiểu biết của học sinh về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tìm ra nguyên nhân và hướng giải quyết vấn đề. Sáng kiến mà tôi đưa ra là tôi xây dựng cuốn tập san chủ quyền biển đảo nước ta tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ đó sử dụng trong một số bài học chương trình Địa lí 12 để học sinh dễ dàng nhận thức được những đặc điểm, chủ quyền của nước ta tại hai quần đảo này, phạm vi các bộ phận vùng biển nước ta thông qua 2
- Luật biển quốc tế, năm 1982 đồng thời nâng cao chất lượng dạy học môn Địa lí. II. TÊN SÁNG KIẾN “ Xây dựng tập san chủ quyền của nước ta ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa góp phần giáo dục chủ quyền biển, đảo trong dạy học Địa lí 12” III. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Vấn đề xây dựng tạp san khẳng định chủ quyền nước ta tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Giáo dục chủ quyền biển đảo cho học sinh. Nâng cao chất lượng dạy học Dạy bài 2: Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ, bài 8: Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển; bài 42: Vấn đề phát triển kinh tế an ninh quốc phòng ở biển Đông và các đảo, quần đảo.(Địa lí 12 – Ban cơ bản) 2. Vấn đề sáng kiến giải quyết Giúp học sinh biết đầy đủ các cơ sở để khẳng định chủ quyền của nước ta ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tích hợp kiến thức môn Lịch sử, Văn học, Giáo dục công dân Giúp học sinh thêm yêu biển đảo nước ta. Gây hứng thú học tập, kích thích tính tò mò, khả năng sáng tạo của học sinh, làm cho giờ học thêm sinh động, hạn chế việc ghi nhớ cho học sinh. IV. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU HOẶC ÁP DỤNG THỬ Ngày 20/9/2017 V. MÔ TẢ BẢN CHẤT SÁNG KIẾN 3
- PHẦN MỞ ĐẦU I. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 1. Mục đích nghiên cứu Đề tài sẽ tạo ra phong trào đọc, phong trào nghiên cứu trải nghiệm…cho các lớp học sinh. Học sinh biết xem tranh ảnh, đọc lược đồ, sơ đồ, biết sắp xếp nội dung kiến thức một cách hợp lí, khoa học. Thông qua tập san học sinh hiểu hơn về vị trí, địa chất địa hình đáy biển, những chứng cứ lịch sử, cơ sở pháp lí để khẳng định chủ quyền về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Học sinh nhận thấy vai trò của mình trong việc giữ vững chủ quyền biển đảo bằng các hành động như: ủng hộ phong trào “Góp đá xây Trường Sa”, tích cực học tập, nhiệt tình tham gia vào các phong trào, nâng cao hiểu biết xã hội,… Phần lớn người dân Việt Nam chỉ biết chung chung rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam mà không biết cụ thể những chứng cứ pháp lí chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa. Qua cuốn tập san này giúp tuyên truyền để đại bộ phận người dân hiểu được chủ quyền nước ta tại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. 4
- Giúp học sinh sống có mục đích, lí tưởng và không ngừng vận động, sáng tạo, tạo dựng ước mơ trở thành người có ích cho xã hội. Giúp học sinh thêm tự hào về dân tộc, thêm yêu biển đảo, yêu quê hương đất nước, bảo vệ môi trường vùng biển nước ta. Truyền đạt hiểu biết về biển, đảo nước ta có kĩ năng bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, kĩ năng ứng phó với thiên tai. Giúp học sinh có ý thức, trách nhiệm với biển cũng như tài nguyên, môi trường biển và có những hành động thích hợp để giúp mọi người xung quanh hiểu biết thêm về biển, có ý thức bảo vệ chủ quyền vùng biển của Tổ quốc, bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, phát triển kinh tế tổng hợp vùng biển theo hướng bền vững. Nâng cao chất lượng trong dạy học địa lí 12, một nội dung trong chương trình thi trung học phổ thông Quốc gia. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu Xây dựng tạp san chủ quyền nước ta ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tham khảo các tài liệu để xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài. Trao đổi, thảo luận với giáo viên môn Lịch sử, Văn học, Giáo dục công dân để đưa nội dung chọn lọc vào mỗi phần của tạp san và bài học. Thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính đúng đắn và khả thi của đề tài. II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Góp phần giáo dục chủ quyền biển đảo thông qua 3 bài học trong chương trình Địa lí 12 – Ban cơ bản: 1. Bài 2: Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ. 2. Bài 8: Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển. 3. Bài 42: Vấn đề phát triển kinh tế an ninh quốc phòng ở biển Đông và các đảo, quần đảo. III. PHƯƠNG PHÁP 1. Sử dụng phương pháp đồ dùng trực quan là cơbản 5
- Bảnđồ Atlat Địa lí Việt Nam Sơ đồ (giáo viên tựlàm) Tranh ảnh mà GV sưu tầmđược Đối với phương pháp này GV chuẩn bị đầy đủ và thực hiện theo phân phối chương trình. 2. Sử dụng máy chiếu Powerpoint GV không cần cần nhiều đồ dùng dạy học lên lớp nữa mà thay vào đó giáo viên chuẩn bị sẵn bài soạn máy chiếu Powerpoint Trong quá trình sử dụng hai cách trên, GV kết hợp sử dụng các phương pháp: thuyết trình, đàm thoại, đặt và giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm,… IV. KHÔNG GIAN CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Học sinh lớp 12, cụ thể hai lớp: 12A4và 12A5 trường THPT Phạm Công Bình – huyện Yên Lạc – tỉnh Vĩnh Phúc. Hai lớp đều chọn môn Địa để thi Trung học phổ thông Quốc gia, nhận thức của HS hai lớp tương đương. Trong đó lớp 12A2, ít được lồng ghép giáo dục chủ quyền biển đảo hơn lớp 12A3. Lớp 12A4: 31 họcsinh. Lớp 12A5: 32 họcsinh 6
- PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG TẬP SAN GIÁO DỤC CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO TRONG CHƯƠNG TRÌNH ĐỊA LÍ LỚP 12 I. CƠ SỞ LÍ LUẬN I.1. Giáo dục chủ quyền biển đảo I.1.1. Quan điểm giáo dục chủ quyền biển đảo Khái niệm về “giáo dục”: Theo từ điển Tiếng Việt phổ thông giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra. 7
- Khái niệm “chủ quyền” theo từ điển Tiếng Việt phổ thông “chủ quyền” là quyền làm chủ của một nước trong các quan hệ đối nội và đối ngoại Khái niệm về “chủ quyền biển, đảo” nằm trong khái niệm “chủ quyền lãnh thổ quốc gia”. Theo từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông “chủ quyền quốc gia” là “quyền cao nhất của một dân tộc, một quốc gia độc lập, tự mình quyết định vận mệnh của mình. Những nội dung này được khẳng định trong pháp luật mỗi nước trong văn bản pháp lí quốc tế, là nguyên tắc cơ bản cần tuân theo. Vì vậy, chủ quyền lãnh thổ quốc gia là quyền tối cao tuyệt đối, hoàn toàn và riêng biệt của quốc gia đối với lãnh thổ và trên lãnh thổ của mình.Quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ là quyền quyết định mọi vấn đề của quốc gia đối với lãnh thổ, đó là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm.Quốc gia có quyền đặt ra quy chế pháp lý đối với lãnh thổ. Với tư cách là chủ quyền sở hữu, Nhà nước có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với lãnh thổ thông qua hoạt động của các cơ quan Nhà nước như các hoạt động luật pháp, hành pháp và tư pháp. Hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển, vùng trời.” Theo công ước của Liên hợp Quốc về luật biển năm 1982 (United Nations Convention on Law of The Sea – UNCLOS), quy định các quốc gia ven biển có các vùng biển: Nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Chiều rộng của các vùng biển được tính từ đường cơ sở. I.1.2. Sự cần thiết giáo dục chủ quyền biển, đảo. I.1.2.1. Khái quát vị trí địa lí quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Quần đảo Hoàng Sa là một quần đảo san hô, phân bố rải rác trong phmj vi từ khoảng khin tuyến 1110 Đông đến 1130 Đông; từ vĩ tuyến 15045’ Bắc đến 17015’ Bắc, ngang với Huế và Đà Nẵng, phía ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, ở phía Bắc Biển Đông. Quần đảo Hoàng Sa gồm hơn 37 đảo, đá, bãi cạn, chia làm hai nhóm: nhóm phía đông có tên là An Vĩnh, gồm khoảng 12 đảo, đá, bãi cạn, trong 8
- đó có hai đảo đảo lớn là Phú Lâm và Linh Côn, mỗi đảo rộng khoảng 1.5 km 2; nhóm phía Tây gồm nhiều đảo xếp thành hình vòng cung nên còn gọi là nhóm Lưỡi Liềm. Quần đảo Trường Sanằm về phía Đông Nam của Biển Đông, cách Hoàng Sa 200 hải lý về phía nam, bao gồm hơn 100 đảo nổi, đảo chìm, bãi ngầm, bãi san hô trong khoảng từ 60 30’ đến 120 00’ Bắc và kinh độ 1110 30’ đến 1170 20’ nằm trải rộng trong một vùng biển khoảng 180 ngàn km 2 với 325 hải lý Đông – Tây và 274 hải lý Bắc – Nam. Đảo gần đất liền nhất là đảo Trường Sa cách Cam Ranh 250 hải lý, Vũng Tàu 305 hải lý, cách đảo Hải Nam Trung Quốc 600 hải lý. Quần đảo Trường Sa được chia thành 8 cụm đảo (Song Tử, Thị Tứ, Loại Ta, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa, Thám Hiểm và Bình Nguyên). Diện tích toàn bộ phần nổi của tất cả các đảo, đá, cồn, bãi ở quần đảo Trường Sa khoảng 3 km2 nhỏ hơn diện tích của quần đảo Hoàng Sa (10km2 ) nhưng lại trải ra trên một vùng biển rộng gấp hơn nhiều lần quần đảo Hoàng Sa. Đảo Ba Bình là đảo lớn nhất (0,735 km2 ), đảo Song Tử Tây là đảo cao nhất (khoảng 46 m so với mực nước biển). Các đảo trong quần đảo Trường Sa thấp hơn các đảo ở quần đảo Hoàng Sa. Độ cao trung bình trên mặt nước khoảng 3 – 5 m. Quần đảo Trường Sa chia thành 8 cụm: Song Tử, Thị Tứ, Loại Ta, Nam Yết, Sinh T ồn, Tr ường Sa, Thám Hiểm, Bình Nguyên. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và vùng biển phụ cận là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng về chủng loại, có thể khai thác với trữ lượng lớn, đặc biệt là dầu khí. Đó là nguồn nguyên, nhiên, vật liệu quan trọng cho sự phát triển ổn định, lâu dài đối với nền nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng và du lịch sinh thái của đất nước. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm án ngữ trên tuyến hàng hải quốc tế nhộn nhịp vào bậc nhất, nhì thế giới, là một trong hai khu vực có tuyến đường giao thông, vận tải biển sau eo biển Malaccca. 9
- Các tuyến đường biển chiến lược đi qua hai quần đảo nói trên là yết hầu cho giao lưu hàng hóa của nhiều nước châu Á (xuất khẩu hàng hóa của Nhật phải đi qua khu vực này chiếm 42%, các nước Đông Nam Á 55%, các nước công nghiệp mới 26%, Australia 40% và Trung Quốc 22%). Vị trí của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có thể khống chế, kiểm soát các tuyến hàng hải qua lại Biển Đông và phục vụ cho mục đích quân sự như đặt trạm ra – đa, các trạm thông tin, xây dựng các trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu bè… Với diện tích và độ sâu lí tưởng, vị trí chiến lược hiểm yếu và nguồn tài nguyên phong phú, Biển Đông có giá trị hết sức to lớn về mặt quân sự. Do nằm án ngữ giữa biển Đông nên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam có vị trí quan trọng về giao thông hàng hải và quốc phòng. Từ hai quần đảo này có thể kiểm soát việc đi lại nhiều loại tàu của các nước bởi tàu bè đi lại giữa nhiều nước châu Á hoặc đi từ châu Âu sang châu Á đều đi ngang qua hai quần đảo này. Từ Xingapo đi Hồng Kông (Trung Quốc), nếu không đi theo bờ biển Borneo thì nhất thiết phải đi qua quần đảo Trường Sa ở phía Nam và quần đảo Hoàng Sa ở phía Bắc Biển Đông. Từ đây có thể khống chế, phong tỏa các tàu biển ra vào vịnh Bắc Bộ và các cảng lớn như Đà Nẵng, Cam Ranh,… Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng là nơi dừng chân, trú bão của nhiều tàu bè trên thế giới thông thương theo đường hàng hải mỗi khi gặp bão tố. Từ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có thể kiểm soát vùng biển, vùng trời; cung cấp thông tin về tình hình gió, bão, thủy văn cho Việt Nam và các nước thuộc vùng Đông Nam Á thông qua đài khí tượng vô tuyến điện báo; kiểm tra và hỗ trợ các hoạt động của tàu thuyền, đảm bảo an ninh quốc phòng. Nhận thức được tầm quan trọng về vị trí chiến lược và nguồn tài nguyên phong phú cho phát triển kinh tế ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, từ xa xưa các thế hệ người Việt Nam đến đây khai phá, sinh sống và xem hai quần đảo này là một nhân tố đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Bằng chứng là việc dựng bia xác lập chủ quyền, 10
- đưa các loại thảo mộc từ đất liền ra trồng trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đo đạc vẽ bản đồ xác định vị trí địa lí, thành lập những đội quân ra khai thác trên các quần đảo này…. của các triều đại phong kiến Việt Nam. Các nhà chiến lược phương Tây cho rằng quốc gia nào kiểm soát được quần đảo Trường Sa sẽ khống chế được cả Biển Đông. Là một trong những điểm trọng yếu về chiến lược của khu vực và quốc tế nên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam đã trở thành đối tượng của những tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ với một số nước trong quá khứ và hiện tại đặc biệt là nước láng giềng Trung Quốc – một đất nước luôn ôm tham vọng bành trướng lãnh thổ ra biển và phát triển thành cường quốc biển. Như vậy, với vị trí, vai trò quan trọng của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa về kinh tế, giao thông và quốc phòng thì vấn đề giáo dục chủ quyền biển đảo cho thế hệ học sinh Việt Nam càng trở nên quan trọng, cần thiết hơn bao giờ hết1 I.1.2.2. Tài nguyên thiên nhiên ở biển – hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa Tài nguyên thiên nhiên ở biển quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa khá phong phú và đa dạng, bao gồm: tài nguyên địa chất khoáng sản (gồm: di sản địa chất, dầu khí, băng cháy, phân chim), tài nguyên sinh vật, tài nguyên khí tượng thuỷ văn và tài nguyên vị thế: a. Tài nguyên địa chất khoáng sản Các đảo thuộc quần đảo Trường Sa là những thực thể di sản địa chất. Nếu có những lỗ khoan địa tầng xuyên qua đảo, đến nền đá cứng mà san hô bám vào đó để phát triển, chúng ta sẽ xác lập được lịch sử tiến hoá của quần đảo Trường Sa hay các quá trình địa chất đã từng xảy ra ở đây. 1Xin xem thêm “Chủ quyền quốc gia Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa qua tư liệu Việt Nam và nước ngoài”, của tác giả Trương Minh Dục, NXB Thông tin và Truyền thông, 2013 11
- Phân chim: theo kết quả khảo sát của các nhà địa chất, tổng tài nguyên dự báo quặng phốt phát từ phân chim có thể lên tới 2.780.000 tấn. Quặng này đã được dùng làm phân bón trực tiếp cho cây xanh trên các đảo thuộc quần đảo Trường Sa và có thể đáp ứng nhu cầu trồng trọt của các tỉnh phía Nam trong nhiều thập kỷ. Điều đáng nói ở đây là theo kết quả phân tích mẫu phân phốt phát lấy được từ khu vực quần đảo Hoàng Sa của Phòng thí nghiệm Viện Khảo cứu Bộ Nông nghiệp Sài Gòn và các chuyên gia phân bón, thành phần phốt phát trong mẫu phân lấy từ khu vực quần đảo Hoàng Sa chứa đến 20,51% (trong khi đó chỉ càn chứa 16% trong trọng lượng phân thì phân đã có hiệu quả và chất lượng tốt) và có chứa thêm một lượng pootat nên phân sản xuất tại Hoàng Sa rất tốt. Đã vậy giá thành của phân Hoàng Sa chỉ bằng phân từ các nước ngoài vào thời gian trên2 Tài nguyên dầu khí: Trong những năm gần đây, các công ty dầu khí củ các nước phương Tây đã nhiều lần thăm dò và phát hiện xung quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhất là Trường Sa có một trữ lượng dầu khí khá lớn3 Theo từ điển Bách khoa mở Wikipedia, vùng biển Đông đã được xác định có trữ lượng dầu mỏ khoảng 1,2 km3 (7,7 tỉ thùng), với ước tính khối lượng là 4,5 km3 (28 tỉ thùng). Trữ lượng khí tự nhiên được ước tính khoảng 7500 km3 Số liệu công bố của cơ quan thông tin năng lượng Mỹ (EIA) cho biết tiềm năng dầu khí ở Biển Đông 11 tỉ thùng dầu và 190.000 tỷ m3 khí đố tự nhiên. Riêng vùng quần đảo Trường Sa của Việt Nam có trữ lượng khoảng 800 – 5,4 tỉ thùng dầu. Báo cáo cũng cho biết khó có thể xác định được trữ lượng chính xác 23Thông tin này được tác giả tham khảo từ bài “Tài nguyên thiên nhiên ở quần đảo Trường Sa” trên trang quydisan.org và cuốn Chủ quyền quốc gia Việt nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của tác giả Trương Minh Dục, NXB Thông tin và truyền thông, 2013 3 12
- của dầu và khí đốt ở Biển Đông vì lý do điều kiện thăm dò và những vấn đề tranh cháp chủ quyền. Tuy số liệu công bố có khác nhau, nhưng theo cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA), trữ lượng dầu khí ở Biển Đông nói chung và vùng biển hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nói riêng vượt xa so với dự báo trước đây và có thể nhiều hơn cả nguồn tài nguyên của Châu Âu cộng lại. Ngoài dầu khí, trong các bể trầm tích ở thềm lục địa Việt Nam còn có trữ lượng than đáng kể. Bao quanh vùng quần đảo Trường Sa, trên sườn lục địa – chân lục địa, ở độ sâu 2000 m đến 4000 m và đáy biển sâu có tiềm năng về kết hạch sắt – mangan, bùn đa kim. Tài nguyên “băng cháy”: theo các chuyên gia Nga thì khu vực biển Việt Nam nói chung và vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa nói riêng chứa đựng tiềm năng rất lớn về tài nguyên băng cháy. Đây là nhiên liệu mới, không gây ô nhiễm môi trường, là nguồn năng lượng thay thế dầu khí trong tương lai gần. Băng cháy là một khí hydrate tồn tại dưới dạng hỗn hợp rắn, trông bề ngoài giống băng hoặc cồn khô, có thể trong suốt hay mờ đục, dạng tinh thể màu trắng, xám hoặc vàng. Băng cháy bao gồm khí hydrocarbon và nước, được hình thành trong điều kiện áp suất cao và nhiệt độ thấp nên có khả năng bay hơi trong điều kiện bình thường như băng phiến. Khi nguồn năng lượng truyền thống như than đá, than bùn, dầu khí,..ngày càng cạn kiệt thì băng cháy với trữ lượng lớn gấp hơn hai lần trữ lượng năng lượng hó thạch đã biết được xem là nguồn năng lượng có hiệu suất cao, sạch và là năng lượng thay thế tiềm tàng trong tương lai. Chính vì thế, băng cháy đã thu hút sự chú ý của nhiều quốc gia biển, quốc đảo trên thế giới. Ở Việt Nam, gần đây mới có một số công trình nghiên cứu tổng quan về băng cháy trên cơ sở hồi cố các tài liệu đã có. Thông qua các tài liệu địa chất – địa vật lý, địa hóa khí các trầm tích và các tiền đề khác ở thềm lục địa và vùng biển sâu củ Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác nhiều năm với nước ngoài (chủ yếu với Nga, Mỹ), các nhà địa chất đã nhận định biển biển nước ta cũng có 13
- triển vọng lớn về băng cháy. Vì thế các, Chính phủ rất quan tâm và năm 2010 Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 796/QĐ – TTg phê duyệt “Chương trình nghiên cứu, điều tra cơ bản về tiềm năng khí hydrate ở các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam”. Tổng cục biển và hải đảo Việt Nam phối hợp với Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam thực hiện chương trình thông qua hợp tác với các nước có kinh nghiệm và công nghệ tiên tiến. Trên các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa còn có các tài nguyên khác như: cát, vỏ sò, ốc,… các loại này có thể xay thành bột rồi nung lên (hoặc ngược lại) dùng để trị phèn rất hữu hiệu cho các vùng đất phèn hoặc trộn theo một tỉ lệ nhất định làm thức ăn cho gia súc. b. Tài nguyên sinh vật Tài nguyên sinh vật ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa rất phong phú và đa dạng, mang tính đặc trưng của quần thể sinh vật đảo rạn san hô nhiệt đới, gồm: sinh vật phù du, động vật đáy, rong biển, cá, san hô… . Ngoài tôm, cá mực có trữ lượng lớn, vùng biển hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có nhiều loại hải sản dùng làm thực phẩm quý như: hải sâm, vích, đồi mồi, rau câu, yến,... Tài nguyên sinh vật biển ở Hoàng Sa rất phong phú và đa dạng. Nơi đây là ngư trường với nhiều loại hải sản, một trong những địa điểm quen thuộc cho hoạt động đánh bắt của ngư dân các tỉnh miền Trung. Sinh vật biển ở quần đảo Trường Sa rất đa dạng. Do sở hữu hàng trăm rạn san hô rải rác khắp một vùng biển rộng lớn nên nơi đây là nơi có đa dạng sinh học cao. Tại vùng biển Trường Sa có khoảng 10 nghìn loài sinh vật. Riêng các rạn san hô là tập hợp của 329 loài san hô thuộc 69 chi và 15 họ.Các rạn san hô là nơi trú ngụ lí tưởng cho các lòi sinh vật biển, là nơi nuôi dưỡng nguồn lợi hải sản cho toàn vùng biển Đông. Sinh vật biển ở đây rất phong phú, trong đó có nhiều loài quý hiếm với giá trị kinh tế cao như cá ngừ vây vàng, cá thu ngàng, tôm hùm rùa biển,… Các họ cá đa dạng với các họ: cá thìa, bàng chài, cá mó, cá hồng, cá 14
- mú, cá đuôi gai,…Trên đảo có nhiều loài chim biển. Ở đảo Ba Đình có gần 60 loài chim khác nhau4 c. Tài nguyên khí tượng thuỷ văn Tài nguyên khí tượng thuỷ văn gồm có: nắng, gió, sóng, thủy triều (nguồn năng lượng sạch) và nước. Ở quần đảo Trường Sa, năng lượng mặt trời, năng lượng gió, nước ngầm và nước mưa đang được khai thác rất hiệu quả. d. Tài nguyên vị thế Tài nguyên vị thế của biển đảo Trường Sa là vị trí các đảo, quần đảo, các cảnh quan địa mạo, vũng vịnh biển, các mũi nhô của địa hình bờ đảo, mặt bằng và độ cao của đảo, đá ngầm, các rạn san hô đang sống hay ám tiêu san hô, các thềm san hô, các hang hốc trong các rạn san hô ngập nước, các luồng lạch sâu và rãnh ngầm ven đảo… đều là những tài nguyên vị thế. I.2.3. Di sản văn hóa Ngày 13/6/2014, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng các bia chủ quyền tại đảo Song Tử Tây, xã Song Tử Tây và đảo Nam Yết, xã đảo Sinh Tồn, thuộc huyện đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa là "Di tích lịch sử cấp quốc gia". Cụm bia chủ quyền này được hoàn thành tháng 8/1956 nhằm khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại biển Đông. Ngoài ra, trên đảo Trường Sa Lớn còn có chùa, Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và đài tưởng niệm liệt sĩ tạo nên một quần thể các công trình văn hóa và đã trở thành chốn linh thiêng trên đảo giữa biển khơi của Việt Nam. Trong chùa ở đảo Trường Sa Lớn có bức tượng Phật ngọc màu xanh ngự trên Tam Bảo là do Liên đoàn Phật giáo Thế giới tặng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và đã được Thủ tướng tặng lại chùa Trường Sa Lớn với lời cầu chúc: 4Thông tin về sinh vật biển ở quần đảo Trường Sa, người đọc có thể xem thêm trong cuốn: Kể chuyện biển đảo Việt Nam tập 3 – các huyện đảo miền Trung – của nhóm tác giả Lê Thông , Lưu Hoa Sơn , Đỗ Văn Thanh, Lê Mỹ Dung , Nguyễn Thanh Long: Kể chuyện biển đảo Việt Nam tập 3 – các huyện đảo miền Trung –NXB giáo dục Việt Nam, 2014 15
- “nước Việt Nam hòa bình, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bên cạnh đảo Trường Sa Lớn, trên đảo Đá Tây có bài thơ thần của Lý Thường Kiệt được khắc trong một Ban thờ tuy đơn sơ nhưng rất trang trọng, một lần nữa khẳng định chủ quyền lãnh thổ vô cùng thiêng liêng của đất nước ở khu vực quần đảo Trường Sa này với lòng tự hào dân tộc sâu sắc5 I.1.3. Những tranh chấp ở biển Đông hiện nay I.1.3.1. Những tranh chấp đang tồn tại ở biển Đông hiện nay. Hiện tại, trong Biển Đông đang tồn tại hai loại tranh chấp chủ yếu: Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Tranh chấp trong việc xác định ranh giới các vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa các nước có bờ biển liền kề hay đối diện nhau ở xung quanh Biển Đông. Như vậy, vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vẫn đề còn tồn tại và là vấn đề nóng hiện nay. I.1.3.2. Thực trạng tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và vị trí chiếm đóng của các bên tranh chấp đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. a, Đối với quần đảo Hoàng Sa: Trung Quốc đã tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ XX (năm 1909), mở đầu là sự kiện Đô đốc Lý Chuẩn chỉ huy 3 pháo thuyền ra khu vực quần đảo Hoàng Sa, đổ bộ chớp nhoáng lên đảo Phú Lâm, sau đó phải rút lui vì sự hiện diện của quân đội viễn chinh Pháp với tư cách là lực lượng được Chính quyền Pháp, đại diện cho nhà nước Việt Nam, giao nhiệm vụ bảo vệ, quản lý quần đảo này. 5Toàn bộ phần di sản văn hóa ở Trường Sa, tác giả tham khảo từ bài viết “Tài nguyên thiên nhiên ở Trường Sa” đăng trên trang quydisan.org. 16
- Năm 1946, lợi dụng việc giải giáp quân đội Nhật Bản thua trận, chính quyền Trung Hoa Dân quốc đưa lực lượng ra chiếm đóng nhóm phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Khi Trung Hoa Dân quốc bị đuổi khỏi Hoa lục, họ phải rút luôn số quân đang chiếm đóng ở quần đảo Hoàng Sa. Năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội Pháp phải rút khỏi Đông Dương theo quy định của Hiệp định Giơnevơ và trong khi chính quyền Nam Việt Nam chưa kịp tiếp quản quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc đã đưa quân ra chiếm đóng nhóm phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Năm 1974, lợi dụng quân đội Việt Nam Cộng hòa đang trên đà sụp đổ, quân đội viễn chinh Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, Trung Quốc lại huy động lực lượng quân đội ra xâm chiếm nhóm phía Tây Hoàng Sa đang do quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ. Mọi hành động xâm lược bằng vũ lực nói trên của Trung Quốc đều gặp phải sự chống trả quyết liệt của quân đội Việt Nam Cộng hòa và đều bị Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, với tư cách là chủ thể trong quan hệ quốc tế, đại diện cho Nhà nước Việt Nam quản lý phần lãnh thổ miền Nam Việt Nam theo quy định của Hiệp định Giơneve năm 1954, lên tiếng phản đối mạnh mẽ trên mặt trận đấu tranh ngoại giao và dư luận. Trung Quốc hiện đang chiếm giữ toàn bộ Hoàng Sa kể từ sau trận Hải chiến Hoàng Sa 1974 ngày 19 tháng 1 năm 1974, và chiếm đóng một phần của Trường Sa từ sau ngày 14 tháng 3 năm 1988 sau khi bắn chìm 3 tàu, làm chết 74 chiến sĩ của Hải quân Việt Nam trong trận Hải chiến Trường Sa 1988. Tháng 4 năm 1988, Trung Quốc đã thông qua một nghị quyết để thành lập tỉnh Hải Nam, trong đó bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa mà Việt Nam đã khẳng định chủ quyền. Tháng 11 năm 2007, Quốc vụ viện Trung Quốc lại phê chuẩn việc lập thành phố Tam Sa, nhằm trực tiếp quản lý các quần đảo trên biển Đông, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa mà họ gọi là Tây Sa và Nam Sa. Năm 2007, đã có vài cuộc biểu tình diễn ra ở Việt Nam để phản đối việc Trung Quốc chiếm đóng Hoàng Sa, Trường Sa cũng như thành lập Tam Sa. 17
- b ,Đối với quần đảo Trường Sa: * Trung Quốc: Đã tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa từ những năm 30 của thế kỷ trước, mở đầu bằng một công hàm của Công sứ Trung Quốc ở Paris gửi cho Bộ Ngoại giao Pháp khẳng định “các đảo Nam Sa là bộ phận lãnh thổ Trung Quốc”. Năm 1946, quân đội Trung Hoa Dân quốc xâm chiếm đảo Ba Bình.Năm 1956, quân đội Đài Loan lại tái chiếm đảo Ba Bình. Năm 1988, CHND Trung Hoa huy động lực lượng đánh chiếm 6 vị trí, là những bãi cạn nằm về phía tây bắc Trường Sa, ra sức xây dựng, nâng cấp, biến các bãi cạn này thành các điểm đóng quân kiên cố, như những pháo đài trên biển. Năm 1995, CHND Trung Hoa lại huy động quân đội đánh chiếm đá Vành Khăn, nằm về phía Đông Nam quần đảo Trường Sa. Hiện nay họ đang sử dụng sức mạnh để bao vây, chiếm đóng bãi cạn Cỏ Mây, nằm về phía Đông, gần với đá Vành Khăn, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Như vậy, tổng số đá, bãi cạn mà phía Trung Quốc đã dùng sức mạnh để đánh chiếm ở quần đảo Trường Sa cho đến nay là 7 vị trí. Đài Loan chiếm đóng đảo Ba Bình là đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa và mở rộng thêm 1 bãi cạn rạn san hô là bãi Bàn Than. * Philíppin Bắt đầu tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa bằng sự kiện Tổng thống Quirino tuyên bố rằng quần đảo Trường Sa phải thuộc về Philíp pin vì nó ở gần Philíppin. Từ năm 1971 đến năm 1973, Philíppin đưa quân chiếm đóng 5 đảo; năm 19771978, chiếm thêm 2 đảo; năm 1979, công bố Sắc lệnh của Tổng thống Marcos ký ngày 11 tháng 6 năm 1979 gộp toàn bộ quần đảo Trường Sa, trừ đảo Trường Sa, vào trong một đơn vị hành chính, gọi là Kalayaan, thuộc lãnh thổ 18
- Philíppin. Năm 1980, Philíppin chiếm đóng thêm 1 đảo nữa nằm về phía Nam Trường Sa, đó là đảo Công Đo... Đến nay, Philippin chiếm đóng 9 đảo, đá trong quần đảo Trường Sa. * Mailaixia Mở đầu bằng sự việc Sứ quán Mailaixia ở Sài Gòn, ngày 03 tháng 02 năm 1971, gửi Công hàm cho Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa hỏi rằng quần đảo Trường Sa hiện thời thuộc nước Cộng hòa Morac Songhrati Mead có thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa hay Việt Nam Cộng hòa có yêu sách đối với quần đảo đó không? Ngày 20 tháng 4 năm 1971, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa trả lời rằng quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam, mọi xâm phạm chủ quyền Việt Nam ở quần đảo này đều bị coi là vi phạm pháp luật quốc tế. Tháng 12 năm 1979, Chính phủ Malaixia xuất bản bản đồ gộp vào lãnh thổ Malaixia khu vực phía Nam Trường Sa, bao gồm đảo An Bang và Thuyền Chài đã từng do quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ. Năm 19831984 Malaixia cho quân chiếm đóng 3 bãi ngầm ở phía Nam Trường Sa là Hoa Lau, Kiệu Ngựa, Kỳ Vân. Năm 1988, họ đóng thêm 2 bãi ngầm nữa là Én Đất và Thám Hiểm. Hiện nay, Malaixia đang chiếm giữ 5 đảo, đá, bãi cạn trong quần đảo Trường Sa. * Brunây Tuy được coi là một bên tranh chấp liên quan đến khu vực quần đảo Trường Sa, nhưng trong thực tế Brunây chưa chiếm đóng một vị trí cụ thể nào. Yêu sách của họ là ranh giới vùng biển và thềm lục địa được thể hiện trên bản đồ có phần chồng lấn lên khu vực phía Nam Trường Sa. I.1.3.3 Yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc Yêu sách “đường lưỡi bò” bao phủ trên 80% diện tích biển Đông “nuốt” trọn hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam và nhiều đảo đá, bãi cạn, bãi ngầm khác, không chỉ xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà còn xâm phạm nghiêm 19
- trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (bao trùm 2/3 thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam ở miền Trung và phía Nam). Bằng yêu sách phi lý này, Trung Quốc đã trắng trợn coi phần lớn vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam là “vùng biển của Trung Quốc”, là “vùng chồng lấn”, “vùng có tranh chấp” và đòi “cùng khai thác” ở trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Mối nguy hại nghiêm trọng củ yêu sách “đường lưỡi bò” là phủ nhận chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như quyền chủ quyền của Việt Nam đối với phần lớn vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa đã được UNCLOS của Liên Hợp quốc ghi nhận. Từ tháng 1 năm 2013, Philipines đã chính thức kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài quốc tế và tháng 3 năm 2014 đã nộp hồ sơ chi tiết, tuy rằng Trung Quốc đã từ chối tham dự phiên tòa quốc tế này. Sáng kiến này của Philippines đã được sự ủng hộ của Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ, nhưng các quốc gia ASEAN lại không đồng nhất ủng hộ. Ngày 12/7/2016, Tòa án Trọng tài thường trực theo Phụ lục VII của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 tuyên bố Trung Quốc thua kiện với lý do "không có căn cứ pháp lý cho việc Trung Quốc nêu quyền lịch sử với các tài nguyên nằm trong vùng biển trong Đường Chín Đoạn" . I.1.4. Giải quyết tranh chấp Các quốc gia Đông Nam Á có tranh chấp trên Biển Đông đã dựa vào ASEAN như là một trung gian để giải quyết tranh chấp giữa Trung Quốc và các thành viên của ASEAN. Các thỏa thuận giữa các quốc gia ASEAN và Trung Quốc bao gồm các cam kết thông báo cho nhau về bất kỳ động thái quân sự tại khu vực tranh chấp, và tránh xây dựng thêm công trình mới trên các hòn đảo Trong đầu thế kỷ 21, là một phần của chính sách đối ngoại của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trỗi dậy hòa bình (Hán Việt: Hòa bình quật khởi), Trung Quốc đã hạn chế sử dụng vũ lực ở quy mô lớn trong khu vực Biển Đông, chuyển sang hiện thực hóa tuyên bố chủ quyền của mình qua các vụ bắt 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn