intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Song đề truyền thống - hiện đại trong điểm nhìn nghệ thuật của truyện giả cổ tích và truyện cũ viết lại thời đổi mới

Chia sẻ: Milu Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

162
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

1. Chặng đường văn học Đổi mới đã trải qua 20 năm. Cho đến nay, người ta đã không còn bàn cãi nhiều về sự tồn tại và giá trị nghệ thuật của một bộ phận không nhỏ các truyện ngắn theo phong cách "giả cổ tích" và "Truyện cũ viết lại"; ở đó, một lần nữa bài toán về mối quan hệ giữa hiện đại và truyền thống, kế thừa và cách tân, ảnh hưởng và sáng tạo,... của văn học đổi mới lại đặt nhà văn trước nhiều cơ hội và thách thức mới. ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Song đề truyền thống - hiện đại trong điểm nhìn nghệ thuật của truyện giả cổ tích và truyện cũ viết lại thời đổi mới

  1. Song đề truyền thống - hiện đại trong điểm nhìn nghệ thuật của truyện giả cổ tích và truyện cũ viết lại thời đổi mới 1. Chặng đường văn học Đổi mới đã trải qua 20 năm. Cho đến nay, người ta đã không còn bàn cãi nhiều về sự tồn tại và giá trị nghệ thuật của một bộ phận không nhỏ các truyện ngắn theo phong cách "giả cổ tích" và "Truyện cũ viết lại"; ở đó, một lần nữa bài toán về mối quan hệ giữa hiện đại và truyền thống, kế thừa và cách tân, ảnh hưởng và sáng tạo,... của văn học đổi mới lại đặt nhà văn trước nhiều cơ hội và thách thức mới. Công bằng mà nói, chính sự "hôn phối" ấy đã khiến cho thế giới nghệ thuật của văn xuôi đương đại đã có thêm những diện mạo, đặc trưng riêng ít hoặc không có trong văn học 1945-1985. Bài viết này sẽ tìm hiểu một vài đặc trưng của hai bộ phận văn học này từ phương diện điểm nhìn nghệ thuật. Giả cổ tích - như tên gọi của nó - không phải là truyện cổ đúng nghĩa; chính xác hơn, nó chỉ là một thứ truyện cổ của thời hiện đại, mang đầy hơi thở của cuộc sống hôm nay. Tính chất của truyện cổ làm giả đã tạo cho nhà văn có điều kiện thuận lợi để thể hiện cá tính đồng thời bộc lộ quan điểm, thái độ và trách nhiệm công dân của mình. Người đọc cũng không mấy khó khăn để nhận ra những kĩ thuật "gia công", "tái chế" của người viết trên những món đồ "giả cổ" này. Mười truyện ngắn trong chùm truyện Những ngọn gió Hua Tát (Nguyễn
  2. Huy Thiệp) hoặc các truyện Hồn Trinh nữ, Khát của muôn đời, Nàng tiên xanh xao, Tim vỡ... (Võ Thị Hảo) nằm trong trường hợp này. Khác với truyện giả cổ tích, truyện cũ viết lại phải có điểm tựa là một truyện dân gian truyền thống (của dân tộc hoặc của nhân loại). Trên cơ sở đó, tác giả truyện ngắn đương đại, bằng nhận thức và tình cảm cá nhân, sẽ có sự lựa chọn, đối thoại hoặc đối lập với truyền thống để có sự kế thừa hay sáng tạo, bổ sung cho phù hợp với sự thụ cảm nghệ thuật của độc giả. Điều này có thể nhận thấy trong nhiều truyện ngắn của Hoà Vang (Nhân Sứ, Sự tích những ngày đẹp trời, Bụt mệt), Lê Đạt (Lầu hạc vàng, Cây đàn Long Môn), Lê Minh Hà (Châu Long, An Dương Vương, Ngày xưa, cô Tấm..., Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Gióng), v.v... Nếu tiếng nói, quan điểm của người viết trong truyện giả cổ tích thường như một ẩn ngữ, một ý nghĩa hàm ẩn thì sự bộc lộ tư tưởng, tình cảm và quan niệm thẩm mĩ của tác giả trong truyện cũ viết lại thường thẳng thắn, tường minh hơn. Tuy nhiên, điểm chung mà người đọc dễ nhận thấy giữa hai nhóm truyện này là sự kết hợp tương đối hài hoà giữa hai mặt cổ xưa và mới mẻ trong điểm nhìn nghệ thuật song hành với khát vọng, nỗ lực đổi mới văn học của nhà văn. 2. Điểm nhìn (point of view) là một trong những vấn đề then chốt của kết cấu. Là thành tố quan trọng của văn học Đổi mới nên khác với truyện cổ đích thực, điểm nhìn nghệ thuật trong truyện giả cổ tích và truyện cũ viết lại cũng thể hiện rõ tính chất của văn xuôi hiện đại. Biểu hiện đầu tiên là sự ngưng kết trong thời gian hiện tại mà Những ngọn gió Hua Tát là một trường hợp điển hình. Trong chùm truyện này, tính chất của thời gian cổ tích thể hiện ở việc xuất hiện và trôi nhanh của những sự kiện đặc biệt trong những thời khắc đặc biệt. Đó là một mùa đông khắc nghiệt chưa từng có, "cây cỏ chết vì sương giá, nước đóng băng lại" (Trái tim hổ); là dịp "rừng Hua Tát củ mài nhiều vô kể" (Nàng Bua); khi trời đại hạn, "tất cả các mó nước đều đã cạn khô" (Tiệc xoè vui nhất); giữa một cơn giông dữ dội kèm theo mưa như trút (Đất quên); thời khắc "Then trừng phạt" gây ra nạn động rừng, nạn đói khủng khiếp cho dân làng (Con thú lớn nhất); lúc thiên nhiên xảy ra điều lạ lùng: "Trời mưa to giữa lúc mặt trời đang nắng chói chang" (Nạn dịch)... Cùng với chúng là hàng loạt các môtíp cổ tích: thi tài kén rể, khắc phục tai hoạ, cô gái mồ côi xấu xí thoắt trở nên xinh đẹp và trở thành vợ vua, người đàn bà nghèo, nhân hậu bỗng được của và trở nên giàu có, chàng trai mồ côi nghèo khó, dị dạng diệt hổ dữ cứu người đẹp tật nguyền... Tất cả hợp nhất thành một thế giới của quá khứ hoang đường, thế giới mà như tác giả khẳng định ngay từ đầu, ở đó các nhân vật giờ đã "hoá thành đất bụi và tro than cả". Nhưng thật bất ngờ, giữa lúc người đọc đang phiêu diêu trong thế giới huyền thoại này, người viết lại
  3. đột ngột kéo họ trở về với hiện tại bằng cách cho hiển thị trong hầu hết các truyện bóng dáng người dẫn truyện (trong đó đa phần là hiện diện ngay từ đầu tác phẩm) với những quan điểm, đánh giá, lí giải... đầy tính triết lí của con người hiện đại lấy hệ quy chiếu không phải là cái "ngày xửa ngày xưa" mà là cái "bây giờ". Việc làm này dường như là một thông báo ngầm của người viết với người đọc rằng: Đây không phải là cổ tích chính hiệu mà là cổ tích của riêng tôi, một con người đang sống trong những thập kỉ cuối cùng của thế kỉ XX. Chẳng hạn: "Đời người ta, ai đã chẳng từng săn đuổi bao điều phù du" (Trái tim hổ); "Lớp trẻ bây giờ không thể suy nghĩ bằng nước lã được, đã đành..." (Tiệc xoè vui nhất); "Đằng nào thì sống ở đời gan ruột chẳng phải cào xé nhiều lần" (Nạn dịch), v.v... Thêm vào đó là những đối thoại, những cật vấn của người kể chuyện với độc giả ẩn tàng mà xuất phát điểm của nó cũng từ những "tình huống có vấn đề" trong hiện tại: "Bọn trẻ chúng ta cũng hay cười khẩy với những người già như thế. Ta không biết rằng lời nói của những người già đôi khi giống như những lời tiên tri. Người già biết sợ, có điều sợ không phải là điều đáng thích thú gì" (Sói trả thù)... Mọi cố gắng của người kể chuyện trong việc tăng cường diện tiếp xúc tối đa với người đọc nhằm hướng tới một dụng ý là hiện tại hoá và thực tại hoá quá khứ. Vậy là cái lằn ranh mỏng manh giữa chuyện đời xưa - đời nay, giữa cõi hư và cuộc đời thực tại đã hoàn toàn bị xoá bỏ bởi hệ thống những lời bình luận trữ tình ngoại đề, những câu triết lí vặt vãnh "chiêm nghiệm cuộc đời" ngỡ vô thưởng vô phạt đối với sự phát triển của cốt truyện này. Điều đó khiến cho quá khứ đột ngột ngưng kết ở hiện tại, tiếng ngày xưa trở thành tiếng nói của hôm nay và mai sau, giống "như những ngọn gió" rong ruổi mãi giữa bao la vũ trụ để không ngừng thầm thì với con người những vấn đề không bao giờ xưa cũ, khiến họ có cảm giác bồng bềnh trôi nổi giữa bất tận thời gian mà chiêm nghiệm về cái vô cùng vô tận của cuộc sống, của tình người... Sự tham gia của thời gian hiện tại đã đem lại những ý nghĩa sâu sắc, bất ngờ cho cái hiện thực cổ xưa, nâng cao giá trị và sức sống của nó. Chuyện đã qua không còn gói trọn trong khung thời gian tĩnh tại, khép kín; ngược lại, mang một chiều sâu và chiều rộng của hiện tại, tương lai. Chính vì thế, khác với cổ tích truyền thống, 50% truyện trong Những ngọn gió Hua Tát có kết thúc không có hậu. Tình hình cũng diễn ra tương tự đối với Ngày xưa, cô Tấm..., Nàng tiên xanh xao, Hồn trinh nữ, Trương Chi, Tim vỡ... Dường như các tác giả muốn nói, sự hoàn thiện, viên mãn chỉ tồn tại trong huyền thoại; còn cuộc sống, bao giờ cũng vậy, nó đa dạng, phức tạp hơn nhiều bởi những quy luật nghiệt ngã của nó. Sự độc đáo trong điểm nhìn nghệ thuật đã giúp nhiều nhà văn (Nguyễn Huy Thiệp,
  4. Võ Thị Hảo, Lê Minh Hà, Nguyễn Minh Sơn, Hoà Vang, Lê Đạt...) làm mới hoá cổ tích để từ đó nêu bật lên những vấn đề vĩnh cửu về cái thiện và cái ác, về số phận... đang dằn vặt con người hiện đại, giúp họ sống nhân hậu, hạnh phúc hơn như chính khát vọng mà tác giảNhững ngọn gió Hua Tát gửi gắm qua những dòng giáo đầu của chùm truyện ngắn này: "Có thể những truyện cổ ấy nói nhiều đến nỗi đau khổ con người, nhưng chính hiểu rõ những đau khổ ấy mà ở trong ta nảy nở ra sự sáng suốt đạo đức, lòng cao thượng, tính người". Thêm vào đó, khi miêu tả tâm trạng, dẫu câu chuyện có thể thuộc về thời quá khứ song vẫn luôn được kể dưới điểm nhìn của thời hiện tại để có thể diễn tả được giây phút nội tâm hữu hiệu nhất của nhân vật: "Một mình nàng quằn quại với nỗi đau. Nỗi đau của cả giới đàn bà. Vậy mà nàng phải chứa chấp nó trong trái tim nhỏ bé" (Tim vỡ - Võ Thị Hảo); "Chết nỗi, thiên hạ bây giờ khác quá rồi (...) Người lắm thì khổ đau càng lắm. Mà với những nỗi khổ bây giờ thì cái loại đau đớn như cô Tấm ngày ấy chẳng thấm tháp vào đâu" (Bụt mệt - Hoà Vang). Đó là lúc điểm nhìn của tác giả hoà nhập với điểm nhìn nhân vật, cùng sống với giây phút biểu hiện của nhân vật: "Chữ nghĩa là cái gì mà có thể giữ tay chàng bao nhiêu đêm chỉ vịn vào khung cửa buồng nàng rồi dừng ở đó. Là cái gì mà có thể trói chàng trên ghế lúc nàng dội nước ùm ùm ngoài giếng, dưới ánh trăng rười rượi, mong dập đi hơi nóng hừng hực bồn chồn thiêu đốt thân nàng. Chữ nghĩa là cái gì mà buộc nàng phải ngần ấy năm cơ cực?" (Châu Long - Lê Minh Hà). Hệ quả là, dù truyện viết về quá khứ hoặc về đề tài lịch sử với những nhân vật lịch sử nhưng cái nhìn, lập luận, quá trình tâm lí nhân vật vẫn được soi sáng dưới góc độ hiện tại. Chỉ có những đối thoại, địa danh, chức danh, thế giới đồ vật, quần áo, nhà cửa... mới được miêu tả bằng ngôn ngữ mang màu sắc quá khứ thuộc thời điểm câu chuyện xảy ra, còn thế giới nội tâm, dòng ý thức được khám phá quy chiếu dưới cái nhìn hiện tại (Huyền thoại Rồng, An Dương Vương, Khát của muôn đời, Đoạn trường thảo, Một huyền thoại đạm bạc,...). Từ hiện tại, dòng hồi ức của các nhân vật Thuỷ Tinh, Bụt, Sa Tăng... đưa dắt ta trở lại với quãng đời đã qua của họ: Cái ngày đầu tiên biết Mị Nương, hội thi kén rể, trận thuỷ chiến kinh người, những chuyến công du trần gian và những sai lầm ấu trĩ của Bụt, những sự kiện khó xoá nhoà trong hành trình Tây Trúc thỉnh kinh... Ở đây, thời gian có thể ví như một lực đẩy khổng lồ làm bùng nổ những mảnh không gian, làm xáo trộn tâm trạng nhân vật. Điều này giống như con tàu đang đi về quá khứ nhưng gia tốc lại hướng vào hiện tại vì thế không tránh khỏi giọng quan hoài, day dứt, khắc khoải về một thuở vời xa đã một đi
  5. không trở lại. Khoảng cách của chuyện và truyện được rút ngắn tối đa; câu chuyện chuyển động theo hướng hiện tại hoá. 3. Truyền thống tự sự phương Đông cũng như truyền thống tự sự dân tộc luôn chấp nhận quan điểm của chủ thể kể trong việc triển khai điểm nhìn trần thuật. Tình hình này thường bắt gặp trong truyện cổ dân gian, các truyện thần kì chích quái. Đấy là cách đặt điểm nhìn trần thuật chìm đắm vào quan điểm của chủ thể kể. Đối với những thể tự sự này, chủ thể kể căn bản là chủ thể kể vô hình cho nên khi điểm nhìn trần thuật đặt nơi đối tượng này thì khoảng cách trần thuật giữa chủ thể kể với nhân vật và câu chuyện kể thường khá lớn. Với truyện ngắn theo phong cách giả cổ tích và truyện cũ viết lại, tình hình đã có nhiều đổi khác. Ở những truyện này, cách tổ chức điểm nhìn trần thuật chủ yếu là đặt nơi tâm trạng nhân vật. Trong khi đó, truyện cổ truyền thống, do đặc trưng thi pháp và chức năng thể loại, nên thường chú trọng mô tả sự kiện và hoạt động của nhân vật mà ít hoặc không nương vào tâm trạng của họ. Đọc bất cứ truyện cổ dân gian nào chúng ta cũng bắt gặp sự kiện và sự kiện. Sức hấp dẫn của các tác phẩm này thường là ở chỗ lựa chọn chi tiết, xây dựng hình tượng nhân vật theo kiểu "ngoại hiện". Chủ tâm của người viết là sự li kì của cốt truyện, những biến xảo trong hành động nhân vật, sự bất ngờ của tình huống, sự đắt giá của chi tiết... Với truyện ngắn đương đại, tình hình đã có nhiều biến đổi. Các tác giả hiện nay quan tâm nhiều hơn đến việc tổ chức điểm nhìn trần thuật theo lối đắm chìm vào thế giới nội tâm của nhân vật khi phản ánh hiện thực. Việc làm này có thể ví như một "chiếu tâm kính" dẫn đến một đặc điểm nổi bật trong thi pháp dựng truyện: Truyện nương vào tâm trạng con người mà vận động. Những lúc người kể hướng vào thế giới bên ngoài thường cũng do sự thúc đẩy từ cuộc sống bên trong. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, có đến 97% truyện có điểm nhìn trần thuật đặt ở tâm trạng con người. Việc xuất hiện điểm nhìn tâm lí ở nhiều truyện như Trương Chi, Tim vỡ, Áo độc, Bụt mệt, Nhân Sứ, Câu hát, Khát của muôn đời, Sự tích những ngày đẹp trời... là một cách tân đáng ghi nhận của văn xuôi đổi mới. 4. Sự luân phiên, phối hợp nhiều điểm nhìn cũng là đặc trưng thường gặp trong nhiều truyện ngắn theo phong cách mới mẻ này. Ở đó, góc nhìn, trường quan sát của người kể chuyện không cố định mà luôn thay đổi theo mọi chiều kích: xa - gần, quá khứ - hiện tại, chủ quan và khách quan, bên ngoài và bên trong nhân vật... làm tăng sự linh hoạt trong tiếp nhận và tính đa nghĩa của tác phẩm. Việc thay đổi điểm nhìn như thế tạo nên những ô cửa sổ khác nhau nhìn vào thế giới nhằm đem lại cho tác phẩm sự phức điệu đa âm. Đây cũng là chiếc "chìa khoá vàng" để người viết dần hé mở bức màn nội tâm của các nhân vật và là
  6. nhân tố thể hiện rõ nét tính hiện đại của văn xuôi hôm nay: "Di động điểm nhìn từ người kể chuyện sang nhân vật là một khuynh hướng nổi bật của thế kỉ XX, mà độc thoại nội tâm và dòng tâm tư chính là một phương tiện góp phần vào sự đổi mới ấy"(1). Trước hết là sự xuất hiện với tần số cao của điểm nhìn thời gian. Do sự chi phối của hệ thống nhân vật thần thoại, cổ tích, siêu thực, hệ thống thời gian vì thế cũng mang một vài đặc trưng của kiểu thời gian huyền thoại. Đó có thể là thời gian tĩnh tại, ngưng đọng không thể phân biệt rõ ràng các mốc ngày đêm, sáng tối như trong Những ngọn gió Hua Tát, hoặc đó là thời gian vĩnh cửu khi nhân vật đứng ngoài sự vận động của tạo hoá như trong Sự tích những ngày đẹp trời, cũng có khi thời gian trôi nhanh bằng những bước dài đột biến có tính chất biểu trưng như loài hoa ba mươi năm mới nở một lần trong Muối của rừng, với hành động kể vắn tắt của nhân vật như: "Sa La Hán đã nói hết lòng mình với Như Lai" (Nhân Sứ),... Khách quan mà nói, kiểu thời gian này chỉ là đường viền, là chất phụ gia để câu chuyện thêm phần quyến rũ, còn cái lõi của nó vẫn là dòng thời gian gắn chặt với từng khoảnh khắc đổi thay trong tâm lí nhân vật mà đặc trưng thường thấy là nhu cầu hồi tưởng, tự nhận thức, sám hối... Hồi tưởng là tiêu chí quan trọng để phân biệt nhân vật thần thoại, cổ tích đời mới với những người anh em trong quá khứ của nó. Trong truyện dân gian, nhân vật chưa có nhu cầu sống với cái đã qua, thời gian quá khứ là chuyện một đi không trở lại. Còn trong văn xuôi hôm nay, chân dung nhân vật này thường gắn với nhận thức, đánh giá lại cái ngày hôm qua của mình. Có thể đó là những kỉ niệm, những kí ức về một tình yêu nhiều uẩn khúc "sau biết bao năm rồi" vẫn tươi nguyên, sống động (Sự tích những ngày đẹp trời), là những ăn năn, sám hối về một thời lầm lỗi của bản thân (Bụt mệt, Ngày xưa, cô Tấm..., An Dương Vương) hoặc những vui buồn trần thế giờ đã xa vời vợi (Nhân Sứ). Dòng hồi tưởng đã hướng cái nhìn vào bên trong nhân vật, khắc hoạ một thế giới nội tâm phong phú khiến nhân vật trở nên hết sức chân thật, gần gũi với người đọc bởi nỗi niềm của họ là "nỗi niềm của một con người thường". Việc hồi tưởng, nhận thức lại quá khứ đã làm thay đổi đáng kể khung thời gian tự sự do sự chủ quan hoá thời gian khách quan của truyện. Ở đó thời gian không chủ yếu được cấu thành bởi hệ thống sự kiện mà cơ bản là phức hợp của những dòng tâm trạng rối rắm của nhân vật. Với Sự tích những ngày đẹp trời, một ngày dẫu vẫn có sáng, tối, nhưng đó là những thời khắc nhuốm đầy tâm trạng của Thuỷ Tinh. Tấm lòng chàng chẳng có chút gì là của một vị Chúa Biển mà là của một thanh niên trần thế lần đầu tiên choáng váng trước
  7. tiếng sét ái tình. Điều này tiếp tục được khẳng định khi cuộc kén rể kết thúc. Thuỷ Tinh đã trở thành vị thần đầu tiên và có lẽ là duy nhất không vượt qua những thử thách của người đời. Như một chàng trai thất tình thực sự, Thuỷ Tinh cứ bâng khuâng, da diết giữa hai cực "ngày ấy - bây giờ"; "năm năm", "tháng tháng", thậm chí từng "phút giây" của vị thần nước lúc này được tính bằng nỗi hoài nhớ Mị Nương. Để rồi cuối cùng, như một hệ quả tất yếu của tình cảm, Thuỷ Tinh đã "rời bỏ tất cả", ngược Phong Châu tìm gặp lại người xưa. Rõ ràng, bỏ đi cái vỏ thần thoại, truyện của Hoà Vang cũng là một câu chuyện tình yêu trần thế với đầy đủ những đặc trưng và biến thái sống động của nó. Tâm trạng và chân dung con người đời thường của Thuỷ Tinh càng lộ rõ khi người viết đặt nhân vật trong thế đối sánh với một thần nhân khác - Sơn Tinh, đối thủ nặng kí của chàng. Vị thần núi này không hề có thời gian tâm trạng. Việc cưới xin đối với Thuỷ Tinh quan trọng và thiêng liêng là thế nhưng với Sơn Tinh nó chẳng khiến nhân vật mảy may động lòng. Suốt câu chuyện, mọi thứ diễn ra trong con người của vị thần núi Tản đều mơ hồ, không để lại một chút ấn tượng nào về mặt tâm lí. Chàng chỉ "nghe nói" vua Hùng kén rể, lại cũng "nghe nói cô con gái vua ngoan lắm, đẹp lắm", thế thôi; rồi "chàng đi ngủ, thật thanh thản, đàng hoàng, dáng nằm thật thư thái uy nghi". Cuộc trăm năm đối với vị Sơn thần này không phải xuất phát từ trái tim mà bị chi phối bởi bộ óc toan tính chi li và tỉnh táo: "Người thần mà lấy con vua, thực là một việc hợp lẽ". Chính vì thế, cũng như Hùng Vương, Sơn Tinh cũng "trọng việc hơn trọng tình". Thêm vào đó, cách duy trì tình yêu, hạnh phúc của nhân vật cũng thật khác người: "Đừng để nàng (Mị Nương) thiếu ánh sáng chỉ có thể chiếu ra từ mắt ta, từ tâm não ta, ánh sáng chưa bao giờ vẩn đục, chưa bao giờ mờ ám". Tóm lại, trước sau Sơn Tinh cũng chỉ là một vị thần nhân "trầm tư, chắc chắn, đầy khôn ngoan" mà thôi. Như vậy, sự thiếu vắng thời gian tâm lí đã trở thành tiêu chí quan trọng để phân định chân dung, tính cách nhân vật, góp phần bộc lộ rõ quan niệm nghệ thuật về con người của các cây bút văn xuôi hôm nay. Hồi tưởng thường gắn với hành vi tự nhận thức lại của nhân vật. Lúc này nhân vật chủ động làm cái việc tự phân tích, mổ xẻ thời quá khứ của mình. Cũng như trong thực tế, hành động tự nhận thức lại chỉ diễn ra một khi bản thân đã ít nhiều mắc những sai lầm đáng tiếc, chính vì thế, nó thường gắn với tâm trạng ăn năn, thậm chí sám hối của người trong cuộc. Với Bụt, cái gọi là "thức ngộ" chỉ đến khi nhân vật được mệnh danh là "Nhân Từ Hỉ Xả Vô Biên" này trở về Thiên đình sau một phen hút chết ở hạ giới, sau khi trung thực, nghiêm túc kiểm điểm cái "khuyết điểm không thể tha thứ của chính mình" - một "giai đoạn
  8. xót đắng" hình thành bởi hàng loạt sai phạm liên tiếp mà nguyên nhân của nó không gì khác là sự non nớt, cảm tính trong nhận thức (Bụt mệt). Còn Tấm, từ sau cái chết rùng rợn của Cám, thường sống trong mặc cảm tội lỗi với những đêm dài mất ngủ gặm nhấm nỗi cô đơn khủng khiếp; bởi hơn ai hết, Tấm thấy rõ rằng "nàng đã giết người mà còn buộc người phải làm cái việc đến cầm thú cũng không làm" (Ngày xưa, cô Tấm...). Giống như Tấm, An Dương Vương, người đứng đầu nhà nước Âu Lạc xưa, cũng "tự dày vò cả ngàn năm nay" vì cái tội để mất nước, lại nhẫn tâm giết Mị Châu - đứa con gái yếu đuối và quá đỗi ngây thơ trong trò chơi chính trị của ông. Sa Tăng thì nhận thấy cả cuộc đời đã qua của mình chỉ như là "một chuỗi dài đáp lại". Đây là sự chuẩn bị kĩ càng về mặt tâm thế để nhân vật tự chọn lựa lẽ sống, tự quyết định đời mình: Từ bỏ cõi cực lạc xuống trần gian làm một người trần thế. Với sự di chuyển hành động cơ bản vào bên trong ý thức nhân vật, sự thống nhất của thời gian và địa điểm bị phá vỡ do các lối mở vào quá khứ và tương lai; đồng thời khía cạnh chủ quan của thời gian, sự lệ thuộc vào cảm xúc xâm chiếm nhân vật được nhấn mạnh. Đây cũng chính là sự vật chất hoá những xung động tâm hồn nhờ cách kể đầy cảm giác chủ thể, không giống cách kể thiên về hành động, sự kiện của truyện truyền thống: "Trong mơ, Tấm tê liệt vì kinh hoàng và căm giận. Và giọng Cám, ai oán, ảm đạm sẽ như tiếng tinh nứa siết vào nhau làm Tấm choáng váng, đau buốt suốt cả ngày sau. Đó là một cảm giác thuần tuý thể chất. Nó làm Tấm rã rời. Từng đêm..." (Ngày xưa, cô Tấm...). Chính những cảm giác của hiện tại là điểm quy tụ của những dòng ý thức, những hình ảnh và sự kiện của câu chuyện ở cả mọi chiều kích của thời gian từ đó làm xuất hiện một không khí huyền thoại bàng bạc trong tác phẩm. Điều này đặt người đọc vào tình thế đồng thời với hiện tượng đang diễn ra để sống hết mình với những gì đang vận động trong thế giới nghệ thuật của nhà văn. Đồng thời lối dẫn thẳng từ người kể chuyện sang độc thoại nội tâm của nhân vật bỏ hẳn những quy tắc chuyển tiếp như trong truyện truyền thống (mở ngoặc kép, gạch ngang đầu dòng, lời dẫn chuyện "thần nghĩ", "Bụt nghĩ rằng", "Sa Tăng nhớ lại"...) khiến cho dòng chảy của suy nghĩ trào ra, tự nhiên giống như thật. Việc xác định toạ độ thời gian bằng cách đưa trực tiếp người kể vào hoạt động và dòng tâm trạng của nhân vật khiến khoảng cách thời gian và không gian giữa người kể và thế giới chuyện kể hoà nhập làm một: "Châu Long bước mải. Bóng xiêu xiêu theo chiều nắng hắt. Cái thúng cắp bên hông nhẹ tênh. Còn nhẹ hơn cả cái ngày nàng từ nơi ấy ra đi" (Châu Long). Tất cả những yếu tố
  9. ấy góp phần làm hiển hiện tính chất tại đây - bây giờ của câu chuyện. Ở đó, trong dòng chảy thời gian, hiện tại, quá khứ, tương lai gần như không có một sự chuyển tiếp nào. (Đó là hiện tượng mà người ta vẫn gọi là thời gian đồng hiện). Nghĩa là truyện đã xoáy vào thời hiện tại. Xuất phát của cả quá khứ và tương lai vẫn là từ một điểm của hiện tại, nhờ những cảm giác sống động, tươi mới của hiện tại. Có thể nói như Đặng Anh Đào, với những truyện này, "nếu ví quá khứ như những vòng tròn đồng tâm do viên đá ném xuống trên mặt nước, thì tâm điểm chỗ viên đá ném xuống, chính là hiện tại"(2). Hành vi tự nhận thức lại bản thân, tâm trạng ăn năn, sám hối là những biểu hiện ở mức độ cao của con người tâm lí trong văn học và là "một đặc điểm phổ biến của văn học hiện đại"(3). Đó là những ngấn nước cuối cùng để nhân vật cởi bỏ nốt những mảnh y trang huyền thoại còn sót lại để khoác lên mình bộ quần áo vải nâu nồng hương đồng cỏ nội. Nghĩa là cái khoảng cách giữa nhân vật và người đọc đã hoàn toàn triệt tiêu bởi nhân vật cũng như vừa mới bước ra từ cuộc sống, và vì sự hạnh phúc của cuộc sống trần gian mà cất lên tiếng nói của mình. Nói một cách khái quát thì chuyện hôm qua đã thành chuyện hôm nay, không còn thấy đâu cái bóng dáng "ngày xửa ngày xưa" nữa, tất cả tan hoà giữa dòng chảy ấm nóng của cuộc đời. Có khi sự thay đổi điểm nhìn cũng diễn ra ngay trong chính bản thân nhân vật. Chẳng hạn, sự khác nhau giữa điểm nhìn của Bụt khi ở hạ giới và lúc trở về thiên đình, của Sạ lúc còn ở làng (trẻ) và sau khi phiêu bạt giang hồ (già), của Tấm, Châu Long, An Dương Vương trong quá khứ và hiện tại, v.v... Sự di động này thường chia làm hai dạng: Hình tuyến (Những ngọn gió Hua Tát, Khát của muôn đời, Nàng tiên xanh xao, Bụt mệt) và xen kẽ (Ngày xưa, cô Tấm, Châu Long, Sự tích những ngày đẹp trời...). Nhờ vậy quá khứ của nhân vật phơi bày một cách đầy đủ, chân thật, tính cách tâm lí phức tạp của nhân vật biến chuyển qua thời gian đối lập gay gắt với hiện tại trước mắt của họ. Cái nhìn chủ quan của người trần thuật cũng thay đổi. Từ cái nhìn một chiều thường thấy trong truyện truyền thống, người viết đã tạo ra một cái nhìn gần gũi, phi quan phương và cởi mở, dân chủ của thời hiện đại. Tổ chức cùng một lúc nhiều điểm nhìn đã dẫn đến hiện tượng: sự vận động những quan điểm nhân vật khác nhau bên cạnh sự dịch chuyển các điểm nhìn trần thuật. Sức hấp dẫn của cách tổ chức cùng một lúc nhiều cái nhìn là người đọc bắt gặp nhiều cách đánh giá hiện thực khác nhau trong tác phẩm. Một cái nhìn nhiều chiều, một quan điểm đan xen nhiều ý thức có mặt đã tạo nên sự phức điệu nghệ thuật vốn là một đặc điểm của văn xuôi
  10. hiện đại. Nét đặc sắc thứ hai là các nhà văn không chỉ trao cho một nhân vật một điểm nhìn trần thuật mà cùng một lúc trao cho nhiều nhân vật nhiều điểm nhìn trần thuật. Đi xa hơn nữa, trong nhiều tác phẩm, các tác giả còn trao cái nhìn khi thì cho nhân vật này, lúc thì cho nhân vật khác, và có khi cùng một lúc phân phát nhiều cái nhìn vừa cho chủ thể kể vừa cho tác giả, vừa cho nhân vật. Với cách làm này, điểm nhìn nghệ thuật không chỉ được gia tăng mà còn thường xuyên xê dịch, đổi ngôi nhờ đó nó phá vỡ được lối kể đơn điệu, nhuốm màu sắc chủ quan của truyện truyền thống. Cũng nhờ đó mà bớt đi tính giáo huấn, áp đặt một chiều, tạo điều kiện thuận lợi cho tinh thần đối thoại và tự đối thoại cởi mở, dân chủ của tư duy văn xuôi mới. Tiếng nói chủ thể kể chỉ ở chỗ đưa câu chuyện vào mạch tự sự, sau đó "trao" hẳn cho nhân vật khiến thế giới điểm nhìn của truyện giống như một kính vạn hoa và lúc này tác phẩm chỉ có tiếng nói chủ yếu của nhân vật. Trong Tiếng đàn đáy (Nguyễn Thị Ấm), người kể chuyện xưng “Tôi” lần lượt nghe bốn nhân vật kể về vụ án Lệ Chi Viên. Người thứ nhất - ông ngoại Tôi, kể theo những gì đã được lưu truyền trong dân gian. Ba nhân vật còn lại là những người trong cuộc: Nguyễn Thị Lộ, Lê Thái Tôn và Nguyễn Trãi. Truyện quy tụ nhiều điểm nhìn, nhờ thế được soi sáng từ nhiều góc độ, tính chất đa âm thể hiện khá rõ nên gần gũi và tăng tính thuyết phục đối với người đọc. Bi kịch thảm khốc về chính trị qua cái nhìn của ba nhân vật lại hóa thành bi kịch tình yêu. Nguyễn Thị Ấm đã có cái nhìn khá mới mẻ về một vấn đề chìm sâu trong lớp bụi thời gian. Chị muốn đánh lên một khúc đàn với những cung bậc liêu trai để ngợi ca một báu vật đã trở thành bất tử của con người. Đó là tình yêu - “cái quý nhất trên thế gian hay trên thượng giới này”; cũng giống như ánh sáng của máu, của đau thương, của biệt ly, “nó vĩnh hằng như bầu trời xanh vậy”. Có khi cùng một sự vật nhưng lại tồn tại nhiều điểm nhìn với cách nhận xét, bình giá khác nhau góp phần tạo ra sự dân chủ trong văn học (cách nhìn của người già và trẻ con về ngôi mộ của Lù, Hếnh trong Nạn dịch, cách nhận xét về những nhân vật trong bộ tứ đi Tây Trúc thỉnh kinh của những bậc trưởng lão và lũ trẻ...). Phương thức này đã dẫn đến một hệ quả đặc biệt - đó là sự liên tục di chuyển điểm nhìn của văn xuôi hôm nay. Có thể đó là sự thay đổi theo không gian: nhảy cóc giữa hai cõi thủy cung, thiên đàng - hạ giới (Bụt mệt, Nàng tiên cá, Khát của muôn đời, Trận hồng thủy thứ hai, Những nghịch lý của thần Ai-rét); sự luân phiên giữa hai cực quá khứ và hiện tại (Châu Long, Tim vỡ, Ngày xưa, cô Tấm...) và nhiều nhất là sự dịch chuyển điểm nhìn nhân vật, đặc biệt là xoáy vào thế giới nội tâm phong
  11. phú. Cái lối tác giả - người kể chuyện như một vị quan tòa phán xét tất cả không ít lúc làm người đọc chán ngấy. Có cái gì đó cực đoan và phiến diện. Nhiều khi trong một truyện ngắn bây giờ có đến mấy giọng kể, từ nhiều phía, tự nhiên câu chuyện sinh sắc hẳn lên và có vẻ thật hơn, hay hơn (Tiếng đàn đáy, Nhân Sứ, Gióng, An Dương Vương...). Tính chất đa thanh của tác phẩm càng được gia tăng nhờ sự quy tụ nhiều điểm nhìn. Đây là nét “tiêu biểu cho các văn bản tân huyền thoại” (Lại Nguyên Ân). Về tâm lý, một sự việc xảy ra, nếu ta được nghe nhiều người kể lại, sẽ có cảm giác đầy đủ và tin cậy hơn. Dễ thấy điều này trong Nhân Sứ của Hòa Vang. Ở truyện này, mỗi lời nói, mỗi hành động của các nhân vật đều thể hiện tâm lí, tính cách riêng: Sa Tăng nghi ngờ cuộc sống Tây thiên, muốn tìm hạnh phúc nơi trần thế; Phật Tổ Như Lai: lời của đức Thống phụ chí tôn đầy quyền uy; Tôn Ngộ Không và Bát Giới - dù đã qua 81 khổ nạn, lên chốn Tây thiên mà cốt cách chẳng khác những ngày đi Tây Trúc thỉnh kinh, với cái “nhún mình, khẹt khẹt” của Mỹ Hầu Vương và cái bệnh “thích ngủ ngày” của lão Trư. Còn bọn trẻ con trong đám thường dân thì tâm lí đặc trẻ thơ: thích Tôn Ngộ Không và không ưa Đường Tam Tạng (vì cho rằng ông ta là con người lừa dối), v.v... Sự xuất hiện điểm nhìn cùng với nó là ngôn ngữ nhân vật đã khắc hoạ chân thực, sinh động đời sống tâm lí của con người hiện đại (khát khao hạnh phúc, tình yêu; những băn khoăn, tự vấn trên hành trình mưu cầu hạnh phúc; những khắc khoải nội tâm trong sự lựa chọn chỗ đứng của mình trong vòng xoay của lịch sử, thời đại, v.v...). Điều này tạo ra nét khu biệt quan trọng của nhân vật với những người anh em trong truyện cổ dân gian. Hệ thống các cách thức tổ chức điểm nhìn trần thuật trên đây chứng tỏ sự song hành giữa hai đặc tính kế thừa và cách tân của truyện ngắn hôm nay. Sự xuất hiện của mảng truyện này trong văn xuôi Đổi mới không phải là sự "lại giống", sự "cổ hoá" nền văn học, mà chính là một trong những động lực quan trọng của quá trình hiện đại hoá, đặc biệt là trên bình diện tiếp nhận và đổi mới thi pháp. Đây một bằng chứng sinh động cho thấy bộ phận văn học này đã góp phần tích cực vào việc tạo ra cú tăng tốc ngoạn mục của văn xuôi hôm nay, tạo đà để văn học dân tộc dần bắt kịp và hoà nhập với đại dương văn chương nhân loại
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2