intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sông Gianh

Chia sẻ: Milu Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

100
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Lịch sử biết đến dòng sông Gianh (Quảng Trạch - Quảng Bình) như là một đường biên giới ở đồng bằng và là ranh giới chia cách đất nước trong nhiều thế kỷ, từ thời hai quốc gia Đại Việt và Chiêm Thành giao chiến, thời Trịnh - Nguyễn phân tranh...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sông Gianh

  1. Sông Gianh Lịch sử biết đến dòng sông Gianh (Quảng Trạch - Quảng Bình) như là một đường biên giới ở đồng bằng và là ranh giới chia cách đất nước trong nhiều thế kỷ, từ thời hai quốc gia Đại Việt và Chiêm Thành giao chiến, thời Trịnh - Nguyễn phân tranh... Mảnh đất ven sông Gianh còn có tầng văn hóa lâu đời, mà một trong những biểu hiện của nó là các làng nghề truyền thống: làng nghề mộc, nghề rèn, nghề chạm, nghề đan lát, làm nón, đan lưới... Sông Gianh là một trong năm con sông lớn nhất ở Quảng Bình, dài hơn 150 km, chảy vắt ngang từ Tây sang Đông, được hội tụ từ bốn nguồn chính: nguồn Nậy, nguồn Trổ, nguồn Nan và nguồn Son. Thế kỷ XV, đề cập đến đặc điểm thiên nhiên của vùng Thuận Hóa (sau này là Bình Trị Thiên), Nguyễn Trãi nói đến Nam Hải và sông Linh Giang (tên gọi sông Gianh lúc đó) như một vùng đất chiến lược, có núi cao biển rộng, địa thế hiểm trở. Sông Gianh đã từng là biên giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành cho đến khi được sáp nhập vào Đại Việt từ thế kỷ XI. Sau đó, nối tiếp nhau các vương triều phong kiến Đại Việt thi hành chính sách di dân, đưa người Việt vào khai hoang lập ấp, sinh sống ở đó. Đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh cũng chọn ngay sông Gianh làm ranh giới về mặt hành chính, mặc dù trong thực tế chiến sự hầu như không diễn ra ở đó mà lùi mãi về phía kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là đầu mối của những mũi giao thông thủy bộ lợi hại: một ngả qua sông Son lên phà Xuân Sơn tiếp xúc với đường Trường Sơn, một ngả ra biển Đông theo con đường Hồ Chí Minh trên biển, một ngả đường bộ
  2. vào Nam theo quốc lộ 1A... cảng sông Gianh trở thành “tọa độ lửa” - trọng điểm địch tập trung bắn phá, còn với ta là nơi tập kết lực lượng, hàng hóa trước khi ra chiến trường, cần được bảo vệ bằng mọi giá. Với lịch sử lâu đời, những làng xã ở lưu vực sông Gianh có nền văn hóa đặc sắc, không chỉ nổi tiếng về truyền thống khoa cử với bốn làng trong “bát danh hương” Quảng Bình: Sơn, Hà, Cảnh, Thổ (Lệ Sơn, La Hà, Cảnh Dương, Thổ Ngọa), ngoài ra còn có những làng nghề cổ truyền với sản phẩm đã trở nên quen thu ộc với người dân trong và ngoài tỉnh. Những làng nghề đó có từ rất lâu, mà đến hôm nay lớp con cháu cũng không rõ nguồn gốc xuất xứ. Có những làng được hình thành do nhu cầu sinh hoạt của người dân trong quá trình khai khẩn đất đai, như nghề đan lát, làm nón, trồng bông dệt vải... Lại có những làng nghề ra đời do điều kiện lịch sử như nghề mộc, nghề rèn, nghề chạm. Ví như nghề rèn, đúc ở làng Hòa Ninh, xã Quảng Hòa được hình thành từ thời chiến tranh Trịnh Nguyễn để cung cấp vũ khí, đáp ứng yêu cầu chiến sự lúc đó. Sản phẩm truyền thống của các làng nghề đã đi vào thơ ca, hò vè dân gian: Đồ đan Thọ Đơn Hàng may Pháp Kệ Hàng chiếu Thanh Sơn Ngọa Cương làng gốm Giấy bổn Diên Trường Nón Kinh chợ Ngọa Mắm cá Cảnh Dương Hà Khương thao lụa Thanh Lạng tre nứa Dao búa Hòa Ninh Bánh tráng Lộc Điền Lệ Sơn ngô lạc Hàng quạt Trung Thuần Thuận Bài vải sợi ... Đến nay, có những nghề đã thất truyền, có những nghề còn tồn tại. Không thể giới thiệu hết các làng nghề truyền thống ở ven sông Gianh trong một bài viết ngắn ngủi, chúng tôi chỉ xin điểm qua vài làng nghề nổi bật nhất còn tồn tại đến ngày nay và vẫn đảm bảo đem lại thu nhập cho ng ười dân, như làng Thọ Đơn với nghề đan lát, Thuận Bài, Thổ Ngọa với nghề làm nón, Quảng Lộc với nghề đan lưới… Nghề đan lát ở Thọ Đơn ra đời trên cơ sở đáp ứng yêu cầu của một nghề khác: nghề đánh bắt cá biển ở các làng Cảnh Dương, Lý Hòa… Bởi thế, sản phẩm ở đây chủ yếu là nong, nia, rổ, rá, sàng, dần, với những nguyên vật liệu tương đối đơn giản như mây, tre
  3. vốn có rất nhiều ở các huy ện lân cận như Tuyên Hóa, Minh Hóa, Bố Trạch. Người ta chọn mua tre già vào các tháng rét để tránh mọt, mối. Sau đó là cả một quy trình làm sản phẩm hầu như không có mấy thay đổi so với thời ông cha: chẻ tre, vót nan, đem phơi, lại mang đi xông khói để chống mọt và cũng để cho nan tre lên nước vàng bóng như đánh vecni. Tiếp đến, người ta đem đan tấm, kéo (lận) thành sản phẩm theo ý muốn, cuối cùng là nức vành cho sản phẩm. Đồ đan Thọ Đơn được tiêu thụ nhiều không chỉ trong nội tỉnh mà còn ở các vùng lân cận như Hà Tĩnh, Quảng Trị... Những bậc cao niên trong nghề tự hào nói rằng ít nhất so với những vùng đan lát khác, nguồn tre ở đây rất đảm bảo chất lượng để tạo ra độ bền sản phẩm, cộng với sự khéo léo của người thợ để tạo ra những hoa văn đẹp đẽ, độc đáo riêng có ở làng, nên sản phẩm đồ đan Thọ Đơn vẫn tồn tại cho đến ngày nay và vẫn đem lại thu nhập đáng kể cho người dân, bên cạnh thu nhập từ nghề nông. Ở Thọ Đơn, nghề đan được làm theo vụ khớp với mùa cá, tức là khoảng tháng 3-4 âm lịch. Do đó, nó vẫn được xem là nghề phụ làm lúc mùa màng rảnh rỗi, tận dụng được nhiều lao động từ trẻ đến già. Vào đúng vụ, cả làng rộn rã tiếng vót nan, đan lát, có những nhóm tập trung con trai con gái từ 8-10 người làm chung, vừa làm vừa trò chuyện, hát hò vui vẻ, đó cũng là một hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần cộng đồng lành mạnh được gìn giữ tự bao đời vậy. Nói đến nghề làm nón ở ven sông Gianh, có thể kể ra nhiều làng nghề như Thổ Ngọa, Thuận Bài, Minh Lợi... Cũng như nghề đan lát, nguyên liệu làm nón chủ yếu là lá nón, nứa, tre sẵn có trên rừng. Chiếc nón tuy đơn giản, ít khó nhọc, dễ làm nhưng người làm lại không chủ động được về nguyên vật liệu. Đầu tiên người ta vót vành nón làm bằng thân cây lồ ô, sau đó lên vành. Lá nón là thứ lá tơi non ở rừng hoặc là lá dừa, được ủi cẩn thận sao cho phẳng mà vẫn giữ được độ trắng sáng, tiếp đến lại được cắt, xâu lại rồi đem dàn đều lên khuôn. Sợi may nón ngày xưa là sợi cây đoác, còn gọi là móc. Đoác giống cây dừa, thân có bẹ, cuối bẹ là những tấm móc đan bọc quanh thân. Ngày nay, người thợ may nón đã dùng sợi tơ, sợi cước để may nón. Chiếc nón do đó cũng đẹp hơn, bền hơn. Giá thành chiếc nón phụ thuộc vào giá những nguyên vật liệu ấy. Nghề làm nón cũng được xem là nghề phụ, nhưng nhiều người, đặc biệt là phụ nữ làm vì kỹ thuật không phức tạp, đến trẻ nhỏ 10-13 tuổi cũng đã làm được. Chiếc nón lá mộc mạc của người dân ven sông Gianh lại đặc biệt phù hợp với thời tiết khắc nghiệt miền Trung, điều mà chiếc nón bài thơ dịu dàng của các cô gái Huế không làm được, vì thế nó được bà con nông ngư dân xem chuộng. Gộp lại, tổng thu nhập nghề làm nón đem lại cho người dân cũng khá lớn. Cũng đáp ứng nhu cầu nghề đánh cá, cũng hình thành ở đây nhưng làng nghề đan lưới, đóng thuyền ở xã Quảng Lộc, Thanh Trạch... Nói chung, những làng nghề truyền thống ven sông Gianh ra đời trước hết để phục vụ những nhu cầu tự thân của bà con nông ngư dân. Dù thế, ẩn sâu trong đó vẫn có những nét đẹp văn hóa, lịch sử lưu truyền từ đời này sang đời khác, như hình thức sinh hoạt cộng đồng ở làng Thọ Đơn đã nói chẳng hạn, thông qua đó mà củng cố thêm tình làng nghĩa xóm, tình đoàn kết giữa người dân không chỉ trong một làng, mà còn cả một xã, một huyện, một vùng... Lối sống tốt đẹp đó cho đến nay vẫn còn được những người nông dân mộc mạc trân trọng gìn giữ. Tuy nhiên, cũng phải nói thêm rằng một thực trạng hiện nay là các nghề truyền thống ở đây đang dần bị thất truyền, do sự cạnh tranh của những đồ gia dụng hiện đại. Sự phát triển tất yếu khách quan đó yêu cầu bản thân các làng nghề phải có sự thay đổi cả về kỹ thuật, nguyên liệu, cách thức làm sản phẩm... để có thể tồn tại được.
  4. TƯ LIỆU VỀ QUẢNG BÌNH Địa lý Tỉnh lỵ Thành phố Đồng Hới Miền Bắc Trung Bộ Diện tích 8.051,8 km² Các thị xã / huyện 6 huyện Nhân khẩu Số dân • Mật độ 831.600 người 103 người/km² Dân tộc Việt, Bru - Vân Kiều, Chứt, Tày Mã điện tho ại 52 Mã bưu chính: 45 ISO 3166-2 VN-24 Website [1] Biển số xe: 73 Quảng Bình là một tỉnh duyên hải thuộc vùng Bắc Trung BộViệt Nam. Quảng Bình nằm ở nơi hẹp nhất của dải đất hình chữ S của Việt Nam. Tỉnh này giáp Hà Tĩnh về phía bắc với dãy Hoành Sơn là ranh giới tự nhiên; giáp Quảng Trị về phía nam; giáp Biển Đông về phía đông; phía tây là tỉnh Khăm Muộn của Lào với dãy Trường Sơn là biên giới tự nhiên. Địa lý Diện tích Diện tích tự nhiên của Quảng Bình là 8065,27 km² (tổng diện tích: 806.527 ha), chia ra như sau: Đất ở: 4.946 ha  Đất nông nghiệp: 71.381 ha  Đất lâm nghiệp: 601.388 ha 
  5. Đất chuyên dùng: 23.936 ha   Đất phi nông nghiệp khác: 20.670 ha  Đất chưa sử dụng: 72.619 ha (Niên giám thống kê tỉnh Quảng Bình năm 2007) Vị trí Phần đất liền của Quảng Bình nằm trải dài từ 16°55’ đến 18°05’ vĩ bắc và từ 105°37’ đến 107°00’ kinh đông. Phía bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía nam giáp tỉnh Quảng Trị, phía tây giáp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, phía đông giáp biển Đông. Sông ngòi Trên địa bàn tỉnh có 5 sông lớn là sông Gianh, sông Ròn, sông Nhật Lệ (là hợp lưu của sông Kiến Giang và sông Long Đại), sông Lý Hòasông Dinh với tổng lưu lượng 4 tỷ m³/năm. Các sông này do nhiều lưu vực hợp thành và đều bắt nguồn từ dãy Trường Sơn đổ ra biển. và Sông Nhật Lệ đoạn chảy qua Đồng Hới. Địa hình Địa hình Quảng Bình hẹp và dốc từ phía Tây sang phía Đông. 85% Tổng diện tích tự nhiên là đồi núi. Toàn bộ diện tích được chia thành vùng sinh thái cơ bản: Vùng núi cao, vùng đồi và trung du, vùng đồng bằng, vùng cát ven biển. Địa hình có đặc trưng chủ yếu là hẹp và dốc, nghiêng từ tây sang đông, đồi núi chiếm 85% diện tích toàn tỉnh và bị chia cắt mạnh. Hầu như toàn bộ vùng phía tây tỉnh là núi cao 1.000-1.500 m, trong đó cao nhất là đỉnh Phi Co Pi 2017 m, kế tiếp là vùng đồi thấp, phân bố theo kiểu bát úp. Gần bờ biển có dải đồng bằng nhỏ và hẹp. Sau cùng là những tràng cát ven biển có dạng lưỡi liềm hoặc dẻ quạt. Khí hậu Quảng Bình nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa và luôn bị tác động bởi khí hậu của phía Bắc và phía Nam và được chia làm hai mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm 
  6. 2.000 - 2.300mm/năm. Thời gian mưa tập trung vào các tháng 9, 10 và 11.  Mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8 với nhiệt độ trung bình 24oC - 25oC. Ba tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 6, 7 và 8. Tài nguy ên đất Tài nguyên đất được chia thành hai hệ chính: Đất phù sa ở vùng đồng bằng và hệ pheralit ở vùng đồi và núi với 15 loại và các nhóm chính như sau: nhóm đất cát, đất phù sa và nhóm đất đỏ vàng. Trong đó nhóm đất đỏ vàng chiếm hơn 80% diện tích tự nhiên, chủ yếu ở địa hình đồi núi phía Tây, đất cát chiếm 5,9% và đất phù sa chiếm 2,8% diện tích. Tài nguy ên động, thực vật Quảng Bình nằm trong khu vực đa dạng sinh học Bắc Trường Sơn - nơi có khu hệ thực vật, động vật đa dạng, độc đáo với nhiều nguồn gen quý hiếm. Đặc trưng cho đa dạng sinh học ở Quảng Bình là vùng Karst Phong Nha - Kẻ Bàng. Về động vật có: 493 loài, 67 loài thú, 48 loài bò sát, 297 loài chim, 61 loài cá... có nhiều loài quý hiếm như Voọc Hà Tĩnh, Gấu, Hổ, Sao La, Mang Lớn, Gà Lôi lam đuôi trắng, Gà Lôi lam mào đen, Trĩ... Về đa dạng thực vật: Với diện tích rừng 486.688 ha, trong đó rừng tự nhiên 447.837 ha, rừng trồng 38.851ha, trong đó có 17.397 ha rừng thông, diện tích không có rừng 146.386 ha. Thực vật ở Quảng Bình đa dạng về giống loài: có 138 họ, 401 chi, 640 loài khác nhau. Rừng Quảng Bình có nhiều loại gỗ quý như lim, gụ, mun, huỵnh, thông và nhiều loại mây tre, lâm sản quý khác. Quảng Bình là một trong những tỉnh có trữ lượng gỗ cao trong toàn quốc. Hiện nay trữ lượng gỗ là 31triệu m3. Tài nguy ên biển và ven biển Tỉnh có bờ biển dài 116,04 km ở phía Đông với 5 cửa sông, trong đó có hai cửa sông lớn, có cảng Nhật Lệ, cảng Gianh, cảng Hòn La, Vịnh Hòn La có diện tích mặt nước 4 km2, có độ sâu trên 15 mét và xung quanh có các đảo che chắn: Hòn La, Hòn Cọ, Hòn Chùa có thể cho phép tàu 3-5 vạn tấn vào cảng mà không cần nạo vét. Trên đất liền có diện tích khá rộng (trên 400 ha) thuận lợi cho việc xây dựng khu công nghiệp gắn với cảng biển nước sâu Tỉnh có chung biên giới với Lào 201,87 km ở phía Tây, có cảng Hòn La, Quốc lộ I A và đường Hồ Chí Minh, đường sắt Bắc Nam, quốc lộ 12 và tỉnh lộ 20, 16 chạy từ Đông sang Tây qua cửa khẩu Quốc tế Cha Lo và một số cửa khẩu phụ khác nối liền với Nước CHDCND Lào. Quảng Bình có vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế rộng trên 2 vạn km². Ngoài khơi lại có các đảo Hòn La, Hòn Gió, Hòn Nồm, Hòn Cỏ, Hòn Chùa nên đã hình thành các ngư trường với trữ lượng 10 vạn tấn hải sản các loại. Bờ biển có nhiều thắng cảnh đẹp, cùng với thềm lục địa rộng gấp 2,6 lần diện tích đất liền tạo cho Quảng Bình có một ngư trường rộng lớn với trữ lượng khoảng 10 vạn tấn và phong phú về loài (1650 loài), trong đó có những loại quý hiếm như tôm hùm, tôm sú, mực ống, mực nang, san hô. Phía Bắc Quảng Bình có bãi san hô trắng với diện tích hàng chục ha, đó là nguồn nguyên liệu quý cho sản xuất hàng mỹ nghệ và tạo ra vùng sinh thái của hệ san hô. Điều đó cho phép phát triển nền kinh tế tổng hợp vùng
  7. ven biển. Mặt nước nuôi trồng thủy sản: Với 5 cửa sông, Quảng Bình có vùng mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy sản khá lớn. Tổng diện tích 15.000 ha. Độ mặn ở vùng mặt nước từ cửa sông vào sâu khoảng 10-15km giao động từ 8-30%o và độ pH từ 6,5- 8 rất thuận lợi cho nuôi tôm cua xuất khẩu. Chế độ bán nhật triều vùng ven biển thuận lợi cho việc cấp thoát nước cho các ao nuôi tôm cua. Tài nguy ên nước Quảng Bình có hệ thống sông suối khá lớn với mật độ 0,8 - 1,1 km/km2. Có năm sông chính là sông Roòn, sông Gianh, sông Lý Hòa, sông Dinh và sông Nhật Lệ. Có khoảng 160 hồ tự nhiên và nhân tạo với dung tích ước tính 243,3 triệu m3. Tài nguy ên khoáng sản Quảng Bình có nhiều loại khoáng sản như vàng, sắt, titan, pyrit, chì, kẽm... và một số khoáng sản phi kim loại như cao lanh, cát thạch anh, đá vôi, đá mable, đá granit... Trong đó, đá vôi và cao lanh có trữ lượng lớn, đủ điều kiện để phát triển công nghiệp xi măng và vật liệu xây dựng với quy mô lớn. Có suối nước khoáng nóng 105oC. Trữ lượng vàng tại Quảng Bình có khả năng để phát triển công nghiệp khai thác và chế tác vàng. Dân số và lao động Dân số Quảng Bình năm 2007 có 854.918 người. Phần lớn cư dân địa phương là người Kinh. Dân tộc ít người thuộc hai nhóm chính là Chứt và Bru-Vân Kiều gồm những tộc người chính là: Khùa, Mã Liềng, Rục, Sách, Vân Kiều, Mày, Arem, v.v... sống tập trung ở hai huyện miền núi Tuyên Hóa và Minh Hóa và một số xã miền Tây Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy. Dân cư phân bố không đều, 86,83% sống ở vùng nông thôn và 14,4% sống ở thành thị. Quảng Bình có nguồn lao động dồi dào với 421.328 người, chiếm khoảng 49,28% dân số. Về chất lượng lao động, theo điều tra dân số thời điểm 1/4/1999 có: 10.720 người có trình độ từ cao đẳng trở lên, trong đó 4.676 cao đẳng, 6.042 đại học và trên đại học. Lực lượng lao động đã qua đào tạo gần 33.000 người chiếm 8% số lao động. Văn hóa và tiềm năng du lịch Suối nước khoáng Bang ở huyện Lệ Thủy.
  8. Bãi biển Nhật Lệ ở Đồng Hới Dải đất Quảng Bình như một bức tranh hoành tráng, có rừng, có biển với nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, thắng cảnh nổi tiếng: đèo Ngang, đèo Lý Hòa, cửa bãi biển Nhật Lệ, phá Hạc Hải, Cổng Trời… và Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng được công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới đây cũng được công nhận là khu du lịch quốc gia Việt Nam. Quảng Bình có một dải dài bãi biển tuyệt đẹp với cát trắng, nước biển xanh, song do quy hoạch chưa rõ ràng và giao thông chưa tốt nên chưa phát huy được tiềm năng. Quảng Bình là vùng đất văn vật, có di chỉ văn hóa Bàu Tró, các di chỉ thuộc nền văn hóa Hòa Bình và Đông Sơn, nhiều di tích lịch sử như: Quảng Bình Quan, Luỹ Thầy, Rào Sen, Thành Nhà Ngo, thành quách của thời Trịnh - Nguyễn, nhiều địa danh nổi tiếng trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc như Cự Nẫm, Cảnh Dương, Cha Lo, Cổng Trời, Xuân Sơn, Long Đại, đường Hồ Chí Minh v.v... Trong quá trình lịch sử, đã hình thành nhiều làng văn hóa nổi tiếng và được truyền tụng từ đời này sang đời khác như “Bát danh hương”: “Sơn- Hà- Cảnh - Thổ- Văn- Võ- Cổ - Kim”. Nhiều danh nhân tiền bối học rộng, đỗ cao và nổi tiếng xưa và nay trên nhiều lĩnh vực quân sự, văn hoă - xã hội như Dương Văn An, Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Hàm Ninh, Hoàng Kế Viêm, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Thanh Đạt... Tháng 1 năm 2009, báo Los Angeles Times của Mỹ đã chọn Đồng Hới và vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng vào danh sách 29 điểm đến trong năm 2009 Hành chính Ngoài trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Đồng Hới, Quảng Bình có 6 huyện với tổng cộng có 159 xã, phường và thị trấn(cả Đồng Hới). Sáu huyện là: Huyện Bố Trạch   Huyện Lệ Thủy  Huyện Minh Hóa  Huyện Quảng Trạch  Huyện Quảng Ninh  Huyện Tuyên Hóa Khi tái lập tỉnh Quảng Bình theo Nghị quyết ngày 30 tháng 6 năm 1989 của Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 5, tỉnh có 1 thị xã và 4 huyện: Bố Trạch, Lệ Ninh, Quảng Trạch, Tuyên Hóa. Theo Quyết định số 190-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) Việt Nam
  9. ngày 1 tháng 6 năm 1990, huyện Lệ Ninh chia thành 2 huyện Lệ Thủy và Qu ảng Ninh, huyện Tuyên Hóa chia thành 2 huyện Tuyên Hóa (mới) và Minh Hóa. Dâ n c ư Trên địa bàn tỉnh có 24 dân tộc anh em cùng sinh sống, nh ưng chủ yếu là người Kinh; tiếp đến là người Vân Kiều và người Chứt. Các dân tộc còn lại, mỗi dân tộc chỉ có dưới 100 người. Lịch sử Quảng Bình Quan, dấu vết của Thành Đồng Hới, Đồng Hới. Các khai quật khảo cổ ở khu vực đã chứng tỏ rằng đã có loài người sinh sống ở khu vực này từ thời kỳ đồ đá. Nhiều hiện vật như bình sử, sành, công cụ lao động đã được phát hiện ở đây. [2] Năm 1926, một vị nữ khảo cổ người Pháp Madeleine Colani đã phát hiện nhiều di vật ở các hang động phía tây Quảng Bình. Bà đã kết luận rằng đã có sự hiện diện của văn hóa Hòa Bình ở khu vực này. [3] Thời các vua Hùng dựng nước Văn Lang liên bộ lạc, Quảng Bình thuộc bộ Việt Thường. Thời Hán, Quảng Bình thuộc quận Nhật Nam. Sau khi Champa dành được độc lập và lập nước Lâm Ấp (thuộc Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay)c ác triều vua Champa thường vượt đèo Hải Vân tiến ra cướp phá đất Nhật Nam và Cửu Chân và họ đã làm chủ vùng đát từ đèo Ngang trở vào khi nhà Tấn (Trung Quốc) suy yếu. Từ đó Quảng Bình là vùng đất địa đầu của Champa đối với các triều đại Trung Hoa cũng như các triều đại Việt khi người Việt đã dành được độc lập Năm 1069, Lý Thánh Tông - vua của Đại Việt đánh Champa bắt được vua Champa đưa về Thăng Long, để được tha vua Champa đã dâng đất (Địa Ly, Bố Chính, Ma Linh) tương ứng với tỉnh Quảng Bình và các huyện Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ, bắc Hướng Hóa của Quảng Trị ngày nay cho Đại Việt và Quảng Bình chính thức thuộc về Đại Việt từ năm 1069
  10. Di tích nhà thờ Tam Tòa bị đánh sập do bom Mỹ trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất. Đời Lê Trung Hưng có tên là Tiên Bình. Năm 1604 đổi tên là Quảng Bình. Chúa Nguyễn Phúc Khoát chia Quảng Bình thành 3 dinh: dinh Bố Chính (trước là dinh Ngói), dinh Mười (hay dinh Lưu Đồn), dinh Quảng Bình (hay dinh Trạm). Tỉnh được thành lập năm 1831, đặt phủ Quảng Ninh, sau đặt thêm phủ Quảng Trạch. Năm 1976 ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên hợp nhất thành tỉnh Bình Trị Thiên, đến năm 1990 lại tách ra như cũ. Kinh tế Năm 2008, Quảng Bình đóng góp vào ngân sách nhà nước 810 tỷ đồng [4]. GDP đầu người năm 2006 đạt 450 USD. Tỉnh Quảng Bình có dự án cảng Hòn La và khu công nghiệp Hòn La đang xây dựng, khi hoàn thành sẽ là động lực phát triển kinh tế cho tỉnh này. Cảng Hòn Là được xây dựng trên diện tích 32,3 ha với công suất thiết kế 10-12 triệu tấn/năm. Tổng mức đầu tư là 1300 tỷ đồng. Ngoài ra, ở đây còn có khu công nghiệp Hòn La, Nhà máy đóng tàu với tổng mức đầu tư 4.500 tỷ đồng; Nhà máy Nhiệt điện có tổng mức đầu tư hơn 1 tỷ USD có công suất 1.200 MW. Tỉnh Quảng Bình có hai khu kinh tế đặc biệt, Khu kinh tế Hòn Lavà Khu Kinh tế cửa khẩu Cha Lo và 6 khu công nghiệp khác Giao thông Giao thông đường thủy có cảng Hòn La (12 triệu tấn/năm) do Tổng công ty Dịch vụ kỹ thuật Dầu khí (PTSC) thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam quản lý vận hành và phát triển. Ngoài ra còn có cảng Nhật Lệ, cảng Gianh. Giao thông đường bộ có quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh. Giao thông đường sắt có tuyến đường sắt Bắc-Nam. Giao thông đường hàng không có sân bay Đồng Hới với tuyến bay nối Sân bay quốc tế Nội Bài, Hà Nội của Vietnam Airlines Sân bay Đồng Hới ở Đồng Hới Những người Quảng Bình nổi tiếng
  11. Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh   Đại tướng Võ Nguyên Giáp  Gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm  Nhà thơ Hàn Mạc Tử  Nhà thơ Lưu Trọng Lư  Các trạng nguyên Trương Xán, Dương Văn An, Hoàng Kế Viêm.  GS.TSKH.Võ Khắc Luận Du lịch Quảng Bình là vùng giao thoa của hai nền văn hóa cổ Việt - Chămpa, thể hiện ở những di chỉ có niên đại 5 nghìn năm đã khai quật được ở Bàu Tró, phía bắc Đồng Hới. Danh lam thắng cảnh Động Phong Nha trong Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng Quảng Bình nổi tiếng với di sản thiên nhiên thế giới Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Động cách Đồng Hới 50 km và là một dải kỳ quan nằm sâu trong lòng núi, cách đỉnh núi 800 - 900 m. Dài 7729 m, động có 14 hang do dòng sông ngầm dài 13.969 m hòa tan đá vôi tạo thành. Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng đã UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới năm 2003. Động Phong Nha là một động đẹp có sông ngầm và có 7 cái nhất: (1) Hang nước dài nhất; (2) Cửa hang cao và rộng nhất; (3) Bãi cát, đá rộng và đẹp nhất; (4) Hồ ngầm đẹp nhất; (5) Thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất; (6) Dòng sông ngầm dài nhất Việt Nam; (7) Hang khô rộng và đẹp nhất.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2