intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sự biến động giá cổ phiếu của các công ty thâu tóm ở Việt Nam

Chia sẻ: Nguyễn Văn H | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

72
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong bài viết này, tác giả đã nghiên cứu mức độ biến động của giá cổ phiếu của 25 công ty niêm yết ở Việt Nam khi công bố thông tin thâu tóm và sáp nhập, giai đoạn từ 26/8/2008 đến 08/4/2015... Phương pháp nghiên cứu sự kiện được áp dụng để tính toán tỷ suất sinh lợi bất thường với các khung cửa sổ sự kiện trước, xung quanh và sau ngày công bố thông tin.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sự biến động giá cổ phiếu của các công ty thâu tóm ở Việt Nam

KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP<br /> <br /> SỰ BIẾN ĐỘNG GIÁ CỔ PHIẾU CỦA CÁC CÔNG TY<br /> THÂU TÓM Ở VIỆT NAM<br /> Phan Thị Hồng Hạnh*<br /> Tóm tắt<br /> Trong bài viết này, tác giả đã nghiên cứu mức độ biến động của giá cổ phiếu của 25 công ty niêm<br /> yết ở Việt Nam khi công bố thông tin thâu tóm và sáp nhập, giai đoạn từ 26/8/2008 đến 08/4/2015.<br /> Phương pháp nghiên cứu sự kiện được áp dụng để tính toán tỷ suất sinh lợi bất thường với các<br /> khung cửa sổ sự kiện trước, xung quanh và sau ngày công bố thông tin. Kết quả cho thấy, đối với<br /> những cửa sổ sự kiện ngắn xung quanh ngày công bố thông tin (1 tuần giao dịch, 2 tuần giao dịch,<br /> 4 tuần giao dịch), tỷ suất sinh lợi bất thường của các công ty thâu tóm có giá trị lớn hơn hoặc bằng<br /> không. Đối với cửa sổ sự kiện sau ngày công bố thông tin, kết quả về lợi nhuận bất thường cũng<br /> cho kết quả tương tự. Thị trường cho rằng động cơ chính của các thương vụ thâu tóm và sáp nhập<br /> là tăng giá trị của doanh nghiệp sau hợp nhất do lợi thế kinh tế theo quy mô.<br /> Từ khóa: công ty bị thâu tóm, công ty tiến hành hoạt động thâu tóm, cửa sổ sự kiện, M&A,<br /> phương pháp nghiên cứu sự kiện, tỷ suất sinh lợi bất thường.<br /> Mã số: 318. Ngày nhận bài: /2016. Ngày hoàn thành biên tập: /2016. Ngày duyệt đăng: /2016.<br /> <br /> Abstract<br /> In this research, the author investigated the changes of stock prices of 25 Vietnamese listed<br /> corporations which had announced merger and acquisition decisions from 26 August 2008 to 8 April<br /> 2015. Event study was applied and abnormal returns were calculated for event windows preceding,<br /> surrounding and following the event (the announcement date). Empirical results showed that for short<br /> event-windows (1 transaction week, 2 transaction weeks, and 4 transaction weeks), abnormal returns<br /> of bidders’ stocks were larger than or equal to zero. The same finding results were for those of post<br /> event-windows. This was due to the fact that market expected these merger and acquisition deals were<br /> stemmed from good motives of managers. Moreover, investors waited to see higher combined value<br /> since economies of scale arised along with M&A.<br /> Key words: target, bidder, event window, M&A, event study, abnormal return.<br /> Paper No. 318. Date of receipt: . Date of revision: /2016. Date of approval: /2016.<br /> <br /> Giới thiệu<br /> M&A (viết tắt của cụm từ tiếng anh<br /> “Mergers and Acquisitions” - sáp nhập và<br /> thâu tóm) là hoạt động giành quyền kiểm soát<br /> một bộ phận hoặc toàn bộ doanh nghiệp thông<br /> qua việc sở hữu một phần hoặc toàn bộ doanh<br /> nghiệp đó. Nguyên tắc cơ bản của M&A là<br /> phải tạo ra những giá trị mới cho các cổ đông<br /> <br /> mà việc duy trì tình trạng cũ không đạt được.<br /> Hoạt động M&A không chỉ làm thay đổi tình<br /> trạng sở hữu của một doanh nghiệp đối với cổ<br /> phần hoặc tài sản mà còn làm thay đổi cả hoạt<br /> động quản trị điều hành doanh nghiệp. Tuy<br /> nhiên, mức độ thay đổi về quản trị còn phụ<br /> thuộc vào các quy định của pháp luật, điều lệ<br /> doanh nghiệp và các thỏa thuận của các bên<br /> khi tiến hành thương vụ M&A.<br /> <br /> *<br /> <br /> Soá 85 (10/2016)<br /> <br /> Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi<br /> <br /> 45<br /> <br /> KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP<br /> <br /> Ở thị trường Việt Nam, hoạt động M&A<br /> diễn ra mạnh mẽ cả về số lượng lẫn giá trị.<br /> Với số lượng ít ỏi chỉ khoảng 30 thương vụ<br /> năm 1994 với tổng giá trị giao dịch chưa tới<br /> 100 triệu đô la Mỹ, năm 2014 ghi nhận gần<br /> 350 thương vụ với giá trị giao dịch tương ứng<br /> là 2,5 tỷ đô la Mỹ. Mặc dù có sự gia tăng mạnh<br /> về số lượng lẫn giá trị giao dịch, nhưng nghiên<br /> cứu về mức độ ảnh hưởng của những thương<br /> vụ thâu tóm này lên giá cổ phiếu (wealth<br /> effect) của các công ty tiến hành hoạt động<br /> thâu tóm (bidder) ở Việt Nam còn rất hạn chế.<br /> <br /> Trong bài nghiên cứu này, tác giả tổng<br /> hợp lý thuyết về động cơ cũng như cơ sở<br /> đánh giá hoạt động M&A. Tiếp theo đó,<br /> bài viết trình bày tình hình nghiên cứu<br /> về ảnh hưởng của quyết định thâu tóm<br /> lên giá cổ phiếu của công ty thâu tóm ở<br /> các thị trường phát triển và các thị trường<br /> đang phát triển. Số liệu của 25 thương vụ<br /> thâu tóm của các công ty niêm yết trên sàn<br /> chứng khoán Việt Nam được thu thập (21<br /> công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng<br /> khoán Tp. Hồ Chí Minh (HOSE) và 4 công<br /> <br /> ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán<br /> Hà Nội (HNX)). Phương pháp nghiên cứu<br /> sự kiện được áp dụng và tỷ suất sinh lợi bất<br /> thường được tính toán cho các khung cửa<br /> sổ sự kiện trước, xung quanh và sau ngày<br /> công bố thông tin thâu tóm và sáp nhập. Từ<br /> đó, các giả thuyết về lợi nhuận bất thường<br /> cho các khung cửa sổ sự kiện mang giá trị<br /> không âm được đặt ra và kiểm định.<br /> Bài viết được trình bày theo bố cục sau: cơ<br /> sở lý thuyết, phương pháp luận nghiên cứu,<br /> mẫu nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu, kết<br /> quả nghiên cứu.<br /> 1. Cơ sở lý thuyết<br /> 1.1.Diễn biến của hoạt động M&A<br /> Thomson Reuters đã ghi nhận tổng cộng<br /> 752.000 thương vụ M&A trên toàn cầu từ<br /> năm 1985 đến 2012. Hoạt động này giảm<br /> mạnh trong những năm 2008 và 2009 do<br /> khủng hoảng tài chính toàn cầu nhưng phục<br /> hồi mạnh vào năm 2010. Năm 2012 đã chứng<br /> kiến 370.000 thương vụ giao dịch với tổng giá<br /> trị 2,4 tỷ đô la Mỹ (Reuters, 2012) (Rahman<br /> and Lambkin, 2015).<br /> <br /> Hình 1: Số lượng và giá trị của các thương vụ M&A trên toàn thế giới từ 1985-2015<br /> 46<br /> <br /> Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi<br /> <br /> Soá 85 (10/2016)<br /> <br /> KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP<br /> <br /> Hình 2: Số lượng và giá trị của các thương vụ M&A ở Đông Nam Á từ 1995-2015<br /> <br /> Hình 3: Số lượng và giá trị của các thương vụ M&A ở Việt Nam từ 1999-2014<br /> <br /> Nguồn: IMAA Institute<br /> Hoạt động M&A diễn ra rất sôi nổi ở khu<br /> <br /> Hoạt động M&A ở Việt Nam liên tục tăng<br /> <br /> vực Đông Nam Á, vào năm 2014 giá trị giao<br /> <br /> trưởng cả về số lượng lẫn giá trị giao dịch.<br /> <br /> dịch lên tới 3.000 tỷ USD, với khoảng trên<br /> <br /> Đặc biệt, M&A tăng trưởng mạnh trong vòng<br /> <br /> 2.300 giao dịch.<br /> <br /> một thập kỷ gần đây, bắt đầu từ 2007 khi Việt<br /> <br /> Soá 85 (10/2016)<br /> <br /> Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi<br /> <br /> 47<br /> <br /> KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP<br /> <br /> Nam tham gia vào Tổ chức Thương mại thế<br /> giới (WTO). Đáng lưu ý, số thương vụ M&A<br /> đạt đỉnh điểm năm 2011 (gần 400 giao dịch)<br /> và giá trị giao dịch đạt mức kỷ lục vào năm<br /> 2012 (4,5 tỷ đô la Mỹ).<br /> 1.2. Động cơ của hoạt động M&A<br /> M&A tạo ra hiệp lực và lợi thế kinh tế theo<br /> quy mô và theo đặc thù, giúp mở rộng hoạt<br /> động sản xuất và thâm nhập vào thị trường<br /> mới, tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới, đa dạng<br /> hóa hoạt động của doanh nghiệp, giảm chi phí<br /> và rủi ro. Đặc biệt trong nền kinh tế vĩ mô tiềm<br /> ẩn nhiều rủi ro và biến động, những thương vụ<br /> M&A giữa các ngân hàng lớn còn xuất phát<br /> từ nhu cầu xác định lại vị trí chiến lược của<br /> doanh nghiệp và hình thành mô hình tập đoàn<br /> (Asimakopoulos và Athanasoglou, 2009).<br /> Các nghiên cứu trước đây cho thấy rằng hoạt<br /> động M&A được phân thành hai dạng: 1) tối<br /> đa hóa giá trị (các thương vụ M&A xuất phát<br /> từ động cơ làm tăng giá trị từ hợp lực của hai<br /> doanh nghiệp (Coase, 1937) và 2) làm suy giảm<br /> giá trị (các thương vụ M&A xuất phát từ động<br /> cơ xấu (Halpern 1983, Jensen 1986, Shleifer và<br /> Vishny 1989). Chính lợi ích nhóm của các nhà<br /> quản trị, tính kiêu căng, sự ngạo mạn của các<br /> nhà lãnh đạo đã dẫn đến những thương vụ thâu<br /> tóm làm giảm giá trị tài sản của cổ đông.<br /> Nhiều nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm<br /> cho thấy rằng M&A đem lại lợi nhuận cho các<br /> công ty bị thâu tóm nhưng không làm tăng giá<br /> trị tài sản cho các công ty tiến hành hoạt động<br /> thâu tóm.<br /> Những lợi thế về quy mô hoạt động, sức<br /> mạnh về tài chính (Chatterjee, 1986) được<br /> cho là làm tăng giá trị tài sản cổ đông của các<br /> công ty tiến hành hoạt động tâu tóm. Những<br /> thương vụ thâu tóm xuất phát từ động cơ thỏa<br /> mãn những lợi ích riêng của các nhà quản trị<br /> làm ảnh hưởng đến giá trị tài sản của cổ đông<br /> 48<br /> <br /> Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi<br /> <br /> (Jensen và Meckling, 1976) và khi những nhà<br /> điều hành các công ty có tiền mặt dồi dào<br /> thường tham gia vào các dự án không hiệu<br /> quả (lợi nhuận rất thấp hoặc không đem lại lợi<br /> nhuận (Chatterjee, 1986)). Theo Theo Roll’s<br /> (1986), lý thuyết về sự kiêu ngạo cho thấy<br /> rằng nhà quản trị của các công ty thâu tóm<br /> định giá sai giá trị của các công ty được thâu<br /> tóm. Chính vì giá trị được chuyển từ công ty<br /> tiến hành hoạt động thâu tóm sang công ty bị<br /> thâu tóm, không có sự thay đổi giá trị tài sản<br /> của công ty sau khi đã hợp nhất.<br /> 1.3. Cơ sở đánh giá hoạt động M&A<br /> Hai quan điểm nghiên cứu về kết quả hoạt<br /> động của doanh nghiệp sau khi sáp nhập: 1)<br /> đứng trên quan điểm của cổ đông - được đo<br /> lường dựa trên giá trị cổ phiếu, và 2) đứng trên<br /> quan điểm kế toán - được đo lường dựa trên<br /> kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo<br /> quan điểm 1, đo lường lợi nhuận cổ phiếu bằng<br /> phương pháp nghiên cứu sự kiện (event study)<br /> là một phương pháp phổ biến nhất được các<br /> nhà kinh tế học và học giả về tài chính sử dụng<br /> nhiều trong nghiên cứu (Andrade và cộng<br /> sự 2001, King và cộng sự 2004, McNamara<br /> và cộng sự 2008, Tuch và O’Sullivan 2007).<br /> Phương pháp này dựa trên thuyết thị trường<br /> hiệu quả với lập luận rằng giá cổ phiếu hiện tại<br /> phản ánh lợi nhuận trong tương lai của doanh<br /> nghiệp (Duso, Gugler và Yurtoglu, 2010).<br /> Những nghiên cứu trước đây cho thấy rằng<br /> thông tin thâu tóm được công bố không ảnh<br /> hưởng đến lợi nhuận cổ phiếu trong ngắn hạn,<br /> và trong dài hạn lợi nhuận của cổ phiếu mang<br /> giá trị âm (Martynova và Renneboog 2008;<br /> Tuch và O’Sullivan, 2007). Những nghiên<br /> cứu theo hướng kế toán đã đánh giá hoạt động<br /> của công ty sau khi thâu tóm hoặc sáp nhập<br /> bằng cách so sánh lợi nhuận tổng sau khi hợp<br /> nhất với lợi nhuận riêng lẻ của các công ty nếu<br /> chưa sáp nhập. Các nghiên cứu này xem xét<br /> Soá 85 (10/2016)<br /> <br /> KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP<br /> <br /> lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh trên doanh<br /> thu và lợi nhuận trên tổng tài sản sau 1, 2, và 3<br /> năm sau khi sáp nhập. King và cộng sự (2004)<br /> đã tính toán lợi nhuận trên tổng tài sản (Return<br /> on Assets - ROA), lợi nhuận trên vốn chủ sở<br /> hữu (Return on Equity - ROE) và lợi nhuận<br /> trên doanh thu (Return on Sales - ROS) trong<br /> các cửa sổ sự kiện (event window) từ ngày 1-5,<br /> 6-21, 22-180, 181 - 3 năm và sau 3 năm, sử<br /> dụng số liệu sổ sách kế toán và dữ liệu từ thị<br /> trường chứng khoán. Nhóm tác giả đã đi đến<br /> kết luận rằng, sau khi thâu tóm hoặc sáp nhập,<br /> lợi nhuận bất thường (lợi nhuận của cổ phiếu so<br /> với trung bình ngành) mang giá trị âm nhưng<br /> không có ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy<br /> rằng, tài sản cổ đông của công ty tiến hành thâu<br /> tóm không tăng sau sáp nhập. Tổng kết lại, dù<br /> đã có nhiều nghiên cứu chuyên sâu trong ba<br /> thập kỷ vừa qua, các nghiên cứu cho thấy rằng<br /> hoạt động sau thâu tóm và sáp nhập không<br /> được như kỳ vọng, kể cả lợi nhuận hoạt động<br /> lẫn giá thị trường của cổ phiếu. Tuy nhiên, một<br /> số nghiên cứu cho các kết quả ngược và mâu<br /> thuẫn lẫn nhau. Điều này được giải thích là do<br /> các nghiên cứu sử dụng những định nghĩa khác<br /> nhau về “lợi nhuận sau thâu tóm sáp nhập” và<br /> các nghiên cứu sử dụng các phương pháp luận<br /> đo lường lợi nhuận khác nhau.<br /> 1.4. Các nghiên cứu liên quan<br /> 1.4.1. Nghiên cứu cho thị trường ở các<br /> nước phát triển<br /> Kết quả nghiên cứu thực nghiệm về hiệu<br /> ứng tài sản (sự thay đổi giá trị tài sản của cổ<br /> đông do giá cổ phiếu thay đổi) của cổ đông<br /> công ty tiến hành thâu tóm không rõ ràng. Đối<br /> với thị trường Mỹ, Morck và cộng sự (1990),<br /> Lang và cộng sự (1991), Moeller và cộng<br /> sự (2004,2005), Faccio và cộng sự (2006),<br /> Masulis và cộng sự (2007), Asquith (1983),<br /> Swhwert (2000) và Loderer và Martin (1990)<br /> cho rằng giá trị của tỷ suất sinh lợi cổ phiếu<br /> Soá 85 (10/2016)<br /> <br /> là 0 hoặc dương . Trong khi đó, Franks và<br /> cộng sự (1991), Mulherin và Boone (2000),<br /> Andrade và cộng sự (2001), Dodd (1980),<br /> và Mikkeslon và Ruback (1985), Healy và<br /> cộng sự (1992) lại chứng minh tỷ suất sinh<br /> lợi có giá trị âm trong cửa sổ sự kiện. Đối<br /> với thị trường Anh, lợi nhuận âm cũng được<br /> chứng minh bởi Firth (1980) trong khi Franks<br /> và cộng sự (1977), Franks và Harris (1989),<br /> Higson và Elliott (1998) đã cho rằng giá trị tài<br /> sản của các công ty tiến hành hoạt động thâu<br /> tóm tăng vào ngày công bộ thông tin. Ngược<br /> lại, Sudarsanam và Mahate (2003) lại công<br /> bố kết quả nghiên cứu nhất quán với giả định<br /> kiêu ngạo (hubris hypothesis).<br /> Tổng hợp kết quả của hơn 40 nghiên cứu<br /> về sự thay đổi giá cổ phiếu xung quanh ngày<br /> công bố thông tin (announcement date) của<br /> thương vụ M&A, Jensen và Ruback (1983)<br /> kết luận rằng, những công ty tiến hành hoạt<br /> động thâu tóm có lợi nhuận bất thường bằng<br /> không. Brumer (2002) đã thống kê lại 130<br /> nghiên cứu từ 1971-2001 và cũng có kết luận<br /> tương tự. Trái ngược lại với những nghiên<br /> cứu cho thị trường Mỹ, những nghiên cứu<br /> sau cho kết quả ngược lại: nghiên cứu của<br /> Eckbo (1986); Eckbo và Thorburn (2009) cho<br /> thị trường Canada, nghiên cứu của Pettway và<br /> Yamada (1986), Kang và cộng sự (2000) cho<br /> thị trường Nhật, nghiên cứu của Goergen và<br /> Renneboog (2004), Martynova và Renneboog<br /> (2008), Faccio và cộng sự (2006) cho một số<br /> nước Châu Âu. Những nghiên cứu cho thị<br /> trường Canada, Nhật và các nước châu Âu lại<br /> cho rằng: lợi nhuận bất thuờng của các công ty<br /> tiến hành hoạt động thâu tóm có giá trị dương.<br /> Một số nghiên cứu đã xem xét lợi nhuận<br /> của cổ phiếu trong dài hạn sau khi thương vụ<br /> thâu tóm diễn ra. Các nghiên cứu này cho thấy<br /> rằng lợi nhuận âm trong dài hạn (Agrawal và<br /> cộng sự (1992), Loughran và Vijh (1997)).<br /> Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi<br /> <br /> 49<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2