intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sự mất ngủ của lửa: Tâm thức hoài hương trong thơ sinh thái Nguyễn Quang Thiều

Chia sẻ: ViNaruto2711 ViNaruto2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

74
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ra mắt bạn đọc từ những năm 90 của thế kỉ XX, Sự mất ngủ của lửa được nhắc đến như một dấu mốc đổi mới thơ ca Việt Nam hiện đại. Từ góc nhìn sinh thái, tập thơ mở ra những trang đầu của khát vọng “trốn lo âu về lại cánh đồng”. Trên con đường lưu lạc tha hương với những va đập ồn ào phố thị, cố hương trở thành nơi chốn tìm về, thành điểm tựa nương náu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sự mất ngủ của lửa: Tâm thức hoài hương trong thơ sinh thái Nguyễn Quang Thiều

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br /> Social Science, 2017, Vol. 62, Iss. 11, pp. 112-117<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0095<br /> <br /> SỰ MẤT NGỦ CỦA LỬA: TÂM THỨC HOÀI HƯƠNG<br /> TRONG THƠ SINH THÁI NGUYỄN QUANG THIỀU<br /> Đặng Thị Bích Hồng<br /> <br /> Khoa Khoa học Xã hội & Nhân văn, Trường Đại học Hùng Vương<br /> Tóm tắt. Ra mắt bạn đọc từ những năm 90 của thế kỉ XX, Sự mất ngủ của lửa được nhắc<br /> đến như một dấu mốc đổi mới thơ ca Việt Nam hiện đại. Từ góc nhìn sinh thái, tập thơ mở<br /> ra những trang đầu của khát vọng “trốn lo âu về lại cánh đồng”. Trên con đường lưu lạc tha<br /> hương với những va đập ồn ào phố thị, cố hương trở thành nơi chốn tìm về, thành điểm tựa<br /> nương náu. Không gian của dòng sông Đáy thân thuộc và kì vĩ, của đồng đất khôi nguyên<br /> và nồng ấm tạo mạch nguồn cảm hứng tư hương. Nơi đó, thiên nhiên giăng níu với con<br /> người, đặc biệt, với mẹ và với những người phụ nữ thôn quê. Không gian cố hương vì thế<br /> không chỉ gắn liền với kí ức tuổi thơ mà còn là biểu tượng cho những giá trị cao đẹp của<br /> con người và thế giới tự nhiên.<br /> Từ khóa: Nguyễn Quang Thiều, Sự mất ngủ của lửa, sông Đáy, cố hương.<br /> <br /> 1.<br /> <br /> Mở đầu<br /> <br /> Ra mắt bạn đọc từ những năm 90 của thế kỉ XX, Sự mất ngủ của lửa đánh dấu bước ngoặt<br /> quan trọng trong hành trình thơ Nguyễn Quang Thiều. Thậm chí, tập thơ được nhắc đến như một<br /> dấu mốc đổi mới thơ ca Việt Nam hiện đại. Những thể nghiệm cách tân của Nguyễn Quang Thiều<br /> thực tế đã lan tỏa rộng rãi tới nhiều cây bút trẻ sau đó. Cũng vì thế, Sự mất ngủ của lửa thu hút sự<br /> quan tâm của không ít nhà nghiên cứu phê bình.<br /> Đánh giá về cách tân trong Sự mất ngủ của lửa, Nguyễn Đăng Điệp cho rằng đó là những<br /> cách tân có tính gây hấn, “tạo nên sự khác lạ về cái nhìn nghệ thuật, hệ thống biểu tượng, cách tổ<br /> chức cấu trúc văn bản. . . ” [1;tr.23]. Mai Văn Phấn khẳng định thi pháp Nguyễn Quang Thiều ở tập<br /> thơ này là “những kết cấu mới, mở ra những liên tưởng phi tuyến tính, và đặc biệt, tạo những hình<br /> ảnh lạ lẫm, trương nở, chuyển động nhanh” [3;tr.270]. . .<br /> Nhiều nhà phê bình sớm nhận ra rằng, thơ Nguyễn Quang Thiều xuất hiện dày đặc những<br /> từ ngữ gợi nhắc về cố hương [1], [6]. . . Nhận diện niềm hoài hương xứ mẹ trong Sự mất ngủ của<br /> lửa, Nguyễn Mạnh Tiến nhấn mạnh: “Trở về tối, trở về thẳm sâu, nơi khuất kín nhất của đời sống<br /> nội tâm Thiều còn là trở về với thiên đường bụng mẹ” [5;tr.44].<br /> Như vậy, Sự mất ngủ của lửa đã được các nhà nghiên cứu luận giải từ nhiều góc nhìn khác<br /> nhau. Tuy nhiên, tiếp cận văn học là một hoạt động mở cho phép mỗi nhà nghiên cứu có một lựa<br /> chọn riêng và một cách cấu trúc riêng cho sự lựa chọn của mình. Ở bài viết này, chúng tôi đọc Sự<br /> Ngày nhận bài: 15/7/2017. Ngày sửa bài: 28/8/2017. Ngày nhận đăng: 20/10/2017<br /> Liên hệ: Đặng Thị Bích Hồng, e-mail: dangbichhonghvu@gmail.com<br /> <br /> 112<br /> <br /> Sự mất ngủ của lửa: tâm thức hoài hương trong thơ sinh thái Nguyễn Quang Thiều<br /> <br /> mất ngủ của lửa trong mối quan hệ giữa tâm thức hoài hương và chủ đề sinh thái. Từ góc độ này,<br /> Sự mất ngủ của lửa mở ra những trang đầu của khát vọng “trốn lo âu về lại cánh đồng”. Đó là khát<br /> vọng trở về quê hương, trở về tuổi thơ, trở về những giá trị cao đẹp của con người và thế giới tự<br /> nhiên.<br /> <br /> 2.<br /> 2.1.<br /> <br /> Nội dung nghiên cứu<br /> Thân phận tha hương và sự tách rời tự nhiên<br /> <br /> Với những người đã sinh ra ở làng, lớn lên từ làng thì ra ngoài chốn quê cũng tức là rơi<br /> vào tha hương. Bao giờ cũng thế, kẻ tha hương luôn thấy con đường của mình như một trường lưu<br /> lạc. Với người nghệ sĩ, cảm thức này càng trở nên mạnh mẽ trong nỗi cô đơn thân phận. Trước<br /> Nguyễn Quang Thiều cả nghìn năm, các thi nhân đời Đường đã nói rất thấm về nỗi niềm xa xứ:<br /> “Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” (Thôi Hiệu). Tâm thế<br /> thường trực của thân phận li hương là mong nhớ: “Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố<br /> hương” (Lí Bạch). Gần hơn với thi sĩ làng Chùa cả về không gian lẫn thời gian, thi sĩ thôn Vân<br /> từng chua xót giữa gió mưa thiên hạ: “Giang hồ sót lại mình tôi/ Quê người đắng khói, quê người<br /> cay men”. Đến Nguyễn Quang Thiều, hình ảnh “Con đường” trở thành biểu tượng của sự ra đi, của<br /> sự tách lìa chốn quê.<br /> Xa<br /> Xa ngơ ngác con đường<br /> Người đi, người đi, người đi.<br /> Vừa bước vừa vấp<br /> [. . . ]<br /> Quê hương<br /> Khuất khuất sau mây<br /> Quê hương âm âm trong gió<br /> Ta không thể dâng tay gạt hết mưa chiều<br /> Để nhìn cho tỏ mặt.<br /> (Tha phương)<br /> Thơ Nguyễn Quang Thiều ngay từ Sự mất ngủ của lửa đã xuất hiện không ít những “rời<br /> nhà”, “xa quê”, “lưu lạc”. . . Trên hành trình “bước hụt” ấy, thiên nhiên kì vĩ chẳng những không<br /> xoa dịu mà nhiều khi còn xoáy sâu vào tâm thức con người cảm xúc buồn thương:<br /> Chỉ còn một vòng nữa thôi<br /> Mặt trời sẽ chạm vào biển<br /> Đó là lúc lòng ta đau đớn nhất<br /> Đó là lúc ta không sao chịu nổi<br /> Lúc có một bài ca lưu lạc trở về.<br /> (Xô-nát hoàng hôn trên biển)<br /> Thơ cất lên như một tiếng nói tự thú: tiếng nói của thân phận, của cảnh ngộ lưu lạc, tha<br /> hương. Sức lay động của thơ, suy cho cùng, nằm ở sự chân thành của cảm xúc mà trước hết là sự<br /> chân thành của nhà thơ khi đối diện với cảm xúc của chính mình. Khi làm thơ như một hành vi tự<br /> thú, con người không còn thấy cái tôi là một biểu tượng quyền uy. Cái tôi khi đó trở thành một bản<br /> thể mong manh, trước niềm hạnh phúc, và trước cả nỗi đớn đau.<br /> Viết về không gian bên ngoài cội nguồn văn hóa làng Chùa, Nguyễn Quang Thiều đưa vào<br /> Sự mất ngủ của lửa không ít va đập của đời sống thị thành. Đất nước cựa mình đổi mới với muôn<br /> 113<br /> <br /> Đặng Thị Bích Hồng<br /> <br /> vàn những biến đổi giàu – nghèo, cũ – mới, hèn – sang. . . Nhiều giá trị đang trong chiều dâu bể.<br /> Điểm dễ nhận thấy ở không gian này là sự thiếu vắng thiên nhiên.<br /> Sự xuất hiện của không gian đô thị là một sự kiện đặc biệt trong lịch sử văn hóa nhân loại.<br /> Ở một khía cạnh, thành phố là đơn vị hành chính đánh dấu sự phát triển của xã hội. Ở khía cạnh<br /> khác, sự kiến tạo thành phố thể hiện tham vọng sánh ngang kiến tạo thế giới của Chúa Trời. Trong<br /> Kinh thánh, thành phố là không gian của sự sa đọa, của thói kiêu hãnh thái quá. Hình phạt lẫn lộn<br /> ngôn ngữ trong công cuộc xây tháp Babel đã chia rẽ loài người thành các bộ phận đối địch. Họ<br /> không nói cùng một thứ tiếng, không hiểu nhau, không đồng cảm. Từ phương diện sinh thái, đời<br /> sống đô thị kéo theo hệ quả tệ hại là sự tách rời con người với thế giới tự nhiên. Nhiều cây bút<br /> lãng mạn nổi tiếng như George Byron, Alphonse Daudet. . . đã nối dài quan điểm đoạn tuyệt đô<br /> thị. Thơ rút vào cung đình, lui về đồng quê, tìm đến những vùng đất lạ... Văn học Việt Nam đầu<br /> thế kỉ XX bắt đầu đề cập tới sự bất trắc của không gian thị thành. Đến những năm 90 của thế kỉ<br /> này, khi đất nước tiến nhanh vào guồng đô thị hóa, con người vẫn không hết tâm lí vừa hào hứng<br /> ra phố, vừa sợ phố.<br /> Không gian đô thị đi vào Sự mất ngủ của lửa gắn liền với dục vọng, với vật chất, với những<br /> dự cảm bất trắc. Trong Bầy kiến qua bàn tiệc, thế giới ấy là ngổn ngang “bàn tiệc”, là “cơn gió lốc<br /> quạt trần”, là “chiếc bóng điện 1000 oát – vầng mặt trời giả dối”. . . Tất cả khiến cho những sinh<br /> loài nhỏ bé trong thế giới tự nhiên “đắng cay nhòa mắt/ dìu nhau về thăm thẳm những hang sâu”.<br /> Đó vừa là thân phận bầy kiến, vừa là số phận con người trong cõi sinh tồn khắc nghiệt. Hợp âm<br /> phố xá được nhà thơ thâu tóm trong sự hỗn độn và nhiều khi giả dối:<br /> Thị xã hỡi, đêm mất điện<br /> Có ai đó kêu lên<br /> Có ai đó cười sằng sặc<br /> Có kẻ lấy đêm che nửa phần suồng sã<br /> Nửa phần kia làm đom đóm lập lòe.<br /> (Cánh buồm)<br /> Ở Câu hỏi cuối ngày, một góc đô thị với sự thiếu vắng thiên nhiên, với những nhịp tẻ ngắt<br /> được phác họa trong một cái nhìn gần như vô cảm: tôi “đợi chuyến xe tan tầm”, lá “rụng xuống”,<br /> cơn mưa chiều “dâng lên”. . . Giữa cơn mộng mị và giấc mơ tỉnh của nhân vật trữ tình, đời sống<br /> phố thị hiện lên qua hai mảng hiện thực đối lập, một bên là “Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy<br /> phóng qua”, một bên là “Các cô gái buôn chuyến đang nghoẹo đầu ngủ/ Tóc tai quần áo sặc mùi<br /> cá khô”. Đất nước trên đường đổi mới, cuộc sống đẩy về những thái cực, và ở chiều nào đi chăng<br /> nữa, đọng lại vẫn là dư vị chua xót. Câu hỏi cuối ngày khi “nấc lên”, sặc nghẹn, khi “nhói lên”,<br /> đau thắt. Cả hai đều là câu hỏi về một sự hôn phối: “Nếu tôi lấy họ/ Tôi sẽ ngủ với họ như thế<br /> nào”. Khi thời đại đang thay đổi, văn hóa đang thay đổi, câu hỏi đó như là biểu tượng về một cuộc<br /> đại hôn phối giữa những giá trị sống. Con người bị ném vào cuộc đại hôn phối ấy với một tâm thế<br /> nhập cuộc tận cùng cô đơn.<br /> Giữa va đập ồn ào phố thị, cố hương trở thành nơi chốn tìm về, thành điểm tựa nương náu:<br /> Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên ngang trời cho tôi được nhìn thấy<br /> Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ, nơi những chú bống đến làm tổ<br /> được giàn giụa nước mưa sông (Sông Đáy).<br /> Không gian của dòng sông Đáy thân thuộc và kì vĩ, của đồng đất khôi nguyên và nồng ấm,<br /> của người phụ nữ thôn quê tảo tần. . . tạo mạch nguồn cảm hứng tư hương.<br /> <br /> 114<br /> <br /> Sự mất ngủ của lửa: tâm thức hoài hương trong thơ sinh thái Nguyễn Quang Thiều<br /> <br /> 2.2.<br /> <br /> Tự nhiên và tính nữ: trầm tích cố hương<br /> <br /> Lịch sử mỗi cá nhân dù có những thăng trầm, biến cố khác nhau nhưng đều kết nối với một<br /> môi trường vật lí, đều có một “sự gắn-bó-nơi-chốn” nhất định. Nguyễn Quang Thiều từng khẳng<br /> định trong một lần trả lời phỏng vấn: “Mỗi người đều có một mối liên hệ vừa mơ hồ, vừa bí ẩn,<br /> vừa thiêng liêng và vừa quyền uy với nơi chôn nhau cắt rốn của mình [. . . ] Tất cả những thứ đó đã<br /> dựng nên một không gian sống động và huyền ảo mà chúng ta không thể lớn lên nếu như không<br /> có một không gian như thế” [2]. Mang theo xác tín ấy, nhà thơ viết về cố hương như một không<br /> gian sinh thái, ở đó, kí ức về mẹ, về những người phụ nữ thôn quê luôn được tái hiện trong sự gắn<br /> kết với môi trường tự nhiên.<br /> Kẻ tha hương “vừa bước vừa vấp” mang theo hành trang là những kí ức về nơi chốn. Không<br /> gian làng Chùa, không gian của dòng sông Đáy, của bến kín, cánh đồng, triền bãi. . . cứ trở đi trở<br /> lại. Mùi của quê hương len vào giấc ngủ: “Chỉ mùi khói phân trâu khô bên đường bén lửa/ Ngăn<br /> ngắt đắng vào giấc ngủ kẻ tha phương”. Cơn mơ của người con xa quê cũng khắc khoải âm thanh<br /> sông nước tự nhiên: “Năm tháng sống xa quê tôi như người bước hụt/ Cơn mơ vang tiếng cá quẫy<br /> tuột câu như một tiếng nấc”. . . Nếu như trong Thơ mới, thiên nhiên đồng quê với những vẻ đẹp<br /> thanh tân là đối tượng để thi nhân soi ngắm, mê say thì ở Sự mất ngủ của lửa, không gian làng<br /> quê còn được tái hiện với cả sự thô tháp, dữ dội: “Làng quê ơi, bao năm xa cách/ Đêm nay tôi trở<br /> lại làng/ Trời sắp bão oi nồng cơn sốt/ Bên ngọn đèn hạt đỗ/ Tôi ngồi nghe/ Tiếng chó khuya sủa<br /> chớp cuối chân trời [. . . ] Chó ơi, đừng sủa nữa/ Gió đêm thành gió dại rồi/ Ai ném lại vầng trăng<br /> ra khỏi sự bình yên/ Lao rồ dại trong mây trời xứ mẹ”.<br /> Nhưng trên hết, chốn quê trong thơ Nguyễn Quang Thiều là không gian lưu giữ những tháng<br /> năm tuổi thơ kì diệu, là nơi tìm về bình yên sau bao mệt mỏi tha hương, là chốn linh thanh tẩy, tái<br /> sinh những giá trị tốt đẹp của đời sống. Đặc biệt, cảm hứng về làng Chùa trong thơ Nguyễn Quang<br /> Thiều bao giờ cũng có sự gắn kết, đan bện giữa thiên nhiên và con người. Nhà thơ đồng nhất dòng<br /> sông Đáy với cuộc đời tảo tần sớm hôm của mẹ:<br /> Sông Đáy chảy vào đời tôi<br /> Như mẹ tôi gánh nặng rẽ vào ngõ sau mỗi chiều đi làm về vất vả<br /> Tôi dụi mặt vào lưng áo người đẫm mồ hôi mát một mảnh<br /> sông đêm<br /> (Sông Đáy)<br /> Mẹ và dòng sông quê hương song hành cùng nhau, chuyển hóa vào nhau, trở thành biểu<br /> tượng của những giá trị tinh thần cao đẹp. Những giá trị ấy gắn với một thiên đường tuổi thơ không<br /> thể nào trở lại bởi dòng thời gian vô thủy vô chung:<br /> Sông Đáy ơi, sông Đáy ơi. . . chiều nay tôi trở lại<br /> Mẹ tôi đã già như cát bên bờ<br /> Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi<br /> Tôi quỳ xuống vốc cát ấp vào mặt<br /> Tôi khóc.<br /> Cát từ mặt tôi chảy xuống dòng dòng<br /> (Sông Đáy)<br /> Mẹ như dòng sông Đáy với rất nhiều những biến thể của nó. Nhìn rộng ra, mẹ là thiên nhiên,<br /> mẹ là quê hương. Từ phương diện sinh thái nữ quyền, Sự mất ngủ của lửa góp một tiếng nói về<br /> thiên tính nữ trong mối quan hệ mang tính nhị nguyên mà khuynh hướng phê bình này tuyên chiến:<br /> quan hệ nam – nữ. Trong kí ức của con, cha gắn liền với nguyên tắc, với kỉ luật cứng rắn: “Chiếc<br /> 115<br /> <br /> Đặng Thị Bích Hồng<br /> <br /> roi cha ta quất nát sợi khói mềm”. Với mẹ, cha là căn nguyên của nỗi buồn đau: “Cha đã mang tuổi<br /> hai mươi lên đò không ngoảnh lại/ Mẹ con đứng vùi chân trong cát/ Nước mắt buồn bay ướt một<br /> triền sông”. Và mẹ, như thiên tính nữ ngàn đời nay vẫn thế, đợi chờ, hy sinh, bao bọc, chở che. . .<br /> Trước mẹ, với mẹ, người con lúc nào cũng như đứa trẻ. Lạc mẹ là bơ vơ, òa khóc. “Ta đi qua tháng<br /> Mười, ta đi qua tiếng gọi buổi chiều của mẹ/ Mây trời vun lên những đống rơm khô/ Dấu chân ta<br /> xóa dấu chân chú bê vàng lạc mẹ và dấu chân chú bê vàng xóa dấu chân ta/ Khi bóng đêm vụt ra<br /> đứng chặn trước mặt ta, ta vội quay lại tìm dấu chân mình/ Òa khóc./ Ta tin có một mụ phù thủy<br /> đã biến ta thành một chú bê”. Câu thơ như một tiên cảm tháng Mười của Mẹ.<br /> Thiên nhiên và phụ nữ được các nhà sinh thái nữ quyền đánh giá là bản nguyên tồn tại, phát<br /> triển của thế giới. Trong Sự mất ngủ của lửa, hai hình tượng này đi vào vị trí trung tâm giăng níu<br /> lẫn nhau. Cô gái đắm trong men say tình yêu được mô tả bằng những nét khoáng đạt của trời đất:<br /> “Đêm đã trải tấm khăn của tình yêu xuống rồi/ Hơi thở em cỏ đã ướp đầy hương/ Bầu vú em gió<br /> núi thổi mát rượi”. Nguyễn Quang Thiều không viết nhiều thơ về tình yêu. Và tình yêu trong thơ<br /> Nguyễn Quang Thiều thường khắc khoải hoài tiếc. Nhưng kí ức tình yêu bao giờ cũng được hình<br /> dung trong sự đan bện với tự nhiên. Có thể kể ra ở Sự mất ngủ của lửa nhiều câu thơ như thế:<br /> Sông Đáy ơi! chiều nay tôi trở lại<br /> Những cánh buồm cổ tích đã bay xa về một niềm tức tưởi<br /> Em đã mang đôi môi màu dâu chín sang đò một ngày sông<br /> vắng nước<br /> (Sông Đáy)<br /> Em quẫy trong tay ta như một con cá<br /> Rồi bỏ ta chạy vào lối ngõ không trăng<br /> Như cá thoát câu chạy rúc xuống bùn”<br /> (Mười một khúc cảm, VII)<br /> Em nằm nghiêng trong đêm<br /> Như con thuyền cô đơn nép mình bên bến cát”<br /> (Con thuyền)<br /> Vẻ đẹp, tính cách, số phận. . . tất cả không được miêu tả trực tiếp, nhưng tất cả được lộ hiện<br /> qua góc nhìn biểu trưng: người phụ nữ gắn với cỏ cây, sông nước chốn quê. Thiên nhiên trở thành<br /> một thứ ngôn từ kiến tạo thơ.<br /> Trở về với trí tuệ sinh thái phương Đông, nhà thơ thiết lập thế bình quyền trong tương quan<br /> giữa “tôi” và “cái khác”, giữa “người” và “vật”. Không gian cố hương trong thơ Nguyễn Quang<br /> Thiều là ấm áp tuổi thơ, là đắng đót ra đi, là đau đáu tìm về. Ở đó, tất cả không ngừng dịch chuyển<br /> theo vòng luân hồi sự sống, tất cả đều mang chứa linh hồn: linh hồn những chiếc tiểu sành, linh<br /> hồn lò gốm, linh hồn con chó nhỏ - linh hồn người, linh hồn vật, linh hồn cố hương. Cố hương trở<br /> thành huyền thoại, vừa cá thể, vừa phổ quát trong ánh sáng của tình yêu và của đức tin:<br /> Tôi hát, tôi hát bài ca về cố hương tôi<br /> Trong những chiếc tiểu sành đang xếp bên lò gốm<br /> Một mai đây tôi sẽ nằm trong đó<br /> Kiếp này tôi là người<br /> Kiếp sau phải là vật<br /> Tôi xin ở kiếp sau làm một con chó nhỏ<br /> Để canh giữ nỗi buồn – báu vật cố hương tôi.”<br /> (Bài hát về cố hương)<br /> <br /> 116<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2