Tác phẩm dịch DC-04<br />
<br />
Sự ngụy tạo tri thức<br />
Friedrich August Von Hayek<br />
Đinh Tuấn Minh dịch và chú thích<br />
<br />
© 2010 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách<br />
<br />
Tác phẩm dịch DC-04<br />
<br />
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội<br />
<br />
Sự ngụy tạo tri thức1<br />
Friedrich August Von Hayek<br />
Đinh Tuấn Minh2 dịch và chú thích<br />
Version:14/06/2010<br />
<br />
Tóm tắt<br />
(của người dịch)<br />
Hiện tượng thất nghiệp trên diện rộng hiện nay có nguyên nhân sâu xa từ<br />
việc áp dụng phương pháp nghiên cứu duy khoa học trong các lý thuyết kinh tế<br />
học phổ biến gầy đây. Đó là phương pháp nghiên cứu bắt chước phương pháp<br />
nghiên cứu dựa trên khả năng đo lường chính xác, được xem là thành công trong<br />
lĩnh vực khoa học tự nhiên. Tuy nhiên, các hiện tượng kinh tế nói riêng và các<br />
hiện tượng xã hội nói chung là các hiện tượng phức, nơi khả năng đo lường các<br />
khía cạnh của hiện tượng bị hạn chế. Vì thế, việc bắt chước áp dụng các phương<br />
pháp nghiên cứu thành công trong lĩnh vực tự nhiên vào lĩnh vực xã hội tất sẽ dẫn<br />
đến những hậu quả tai hại cho nền văn minh của loài người.<br />
<br />
Quan điểm được trình bày trong bài nghiên cứu này là của (các) tác giả và không nhất thiết<br />
phản ánh quan điểm của người dịch và VEPR.<br />
<br />
1<br />
2<br />
<br />
Thuyết trình tại Lễ trao giải Nobel, ngày 11-12-1974.<br />
Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR). Email: dinh.tuanminh@vepr.org.vn<br />
<br />
Có hai lý do khiến tôi khó có thể khước từ lựa chọn chủ đề này. Thứ nhất đây là cơ hội<br />
đặc biệt để trình bày. Tiếp đến, đây là thời điểm mà các nhà kinh tế học đang phải đối mặt<br />
với vấn đề thực tiễn cơ bản. Dưới con mắt của công chúng, việc trao giải Nobel cho chuyên<br />
ngành khoa học kinh tế gần đây chứng tỏ chuyên ngành này đã có những tiến bộ đáng kể,<br />
đáng được ghi nhận và kính trọng tương tự như các nghành khoa học tự nhiên. Và tại thời<br />
điểm này, công chúng đang trông đợi các nhà kinh tế đưa ra các giải pháp để giúp cho thế<br />
giới tự do tránh khỏi sự đe dọa nghiêm trọng của nạn lạm phát đang gia tăng; và chúng ta<br />
phải thừa nhận rằng nguyên nhân của vấn nạn này bắt nguồn từ các chính sách được đa số các<br />
nhà kinh tế khuyến nghị, thậm chí thúc giục, chính phủ theo đuổi. Thực sự thì hiện tại chúng<br />
ta chẳng có gì đáng để tự hào: chúng ta, những chuyên gia kinh tế, đã làm mọi thứ trở nên<br />
hỗn loạn.<br />
Theo tôi, việc các nhà kinh tế học thất bại trong việc đưa ra chính sách tốt có quan hệ<br />
chặt chẽ với khuynh hướng bắt chước gần như y nguyên các phương pháp nghiên cứu áp<br />
dụng trong các ngành khoa học tự nhiên. Mặc dù các phương pháp này đã thành công rực rỡ<br />
trong đúng lĩnh vực của nó nhưng việc cố gắng bắt chước chúng trong lĩnh vực của chúng ta<br />
có khả năng dẫn đến những sai lầm khôn lường. Đó chính là cái cách tiếp cận mà tôi gọi là<br />
“duy khoa học” và cách đây 30 năm tôi đã viết về nó như sau: “là hoàn toàn phi khoa học<br />
theo nghĩa đen của ngôn từ, bởi nó liên quan tới việc ứng dụng một cách máy móc và thiếu<br />
tính phê phán các thói quen tư duy hình thành trong lĩnh vực này vào các lĩnh vực khác”3.<br />
Trong bài thuyết trình ngày hôm nay, cho phép tôi bắt đầu bằng việc lý giải tại sao việc áp<br />
dụng cách tiếp cận ‘duy khoa học’ sai lầm này lại trực tiếp gây ra một số sai lầm chết người<br />
trong chính sách kinh tế gần đây.<br />
Lý thuyết dẫn dắt chính sách tài chính và tiền tệ trong 30 năm qua có thể gói gọn lại<br />
trong một mệnh đề như sau: tồn tại mối tương quan thuận chiều giản đơn (simple positive<br />
correlation) giữa tổng lực lượng lao động và tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ. Đây là lý<br />
thuyết mà tôi cho rằng là sản phẩm của cách tiếp cận “duy khoa học” sai lầm nói trên. Lý<br />
thuyết này khiến chúng ta tin rằng chúng ta hoàn toàn có thể đảm bảo được tình trạng toàn<br />
dụng lao động bằng cách duy trì tổng chi tiêu danh nghĩa (total money expenditure) ở một<br />
mức độ thích hợp. Có rất nhiều lý thuyết khác nhau được đưa ra để lý giải tình trạng thất<br />
nghiệp lan tràn, nhưng đây có lẽ là lý thuyết duy nhất được hỗ trợ mạnh mẽ bằng các các<br />
<br />
3<br />
<br />
“Scientism and the Study of Society”, Economia, tập IX, số 35, tháng 8/1942, được tái bản trong The CounterRevolution of Science, Glencoe, III., 1952. Đoạn trích nằm trong trang 15 của the Counter- Revolution of<br />
Science.<br />
<br />
bằng chứng định lượng. Tuy nhiên, tôi coi đây là một sai lầm cơ bản và việc áp dụng lý<br />
thuyết này, như giờ đây chúng ta nhận thấy, dẫn đến những hậu quả rất tai hại.<br />
Vậy vấn đề cốt yếu ở đây là gì? Không giống như trong khoa học tự nhiên, trong kinh<br />
tế học cũng như trong những ngành học thuật phải giải quyết những hiện tượng có bản chất<br />
phức, số lượng các khía cạnh của sự kiện đang xem xét có thể thu thập được dữ liệu định<br />
lượng thường rất hạn chế, và có thể đấy lại là các khía cạnh không quan trọng. Trong khi<br />
trong các ngành khoa học tự nhiên, chúng ta thường giả định, với lý do xác đáng, rằng bất kỳ<br />
yếu tố quan trọng, đóng vai trò quyết định đối với sự kiện đang xem xét đều có thể quan sát<br />
và đo lường trực tiếp được, thì chúng ta lại hầu như không thể làm được như vậy trong<br />
nghiên cứu các hiện tượng phức, chẳng hạn thị trường, bởi thị trường là hiện tượng phụ thuộc<br />
vào hành động của nhiều cá nhân, là kết quả của một quá trình được quyết định bởi vô vàn<br />
các yếu tố mà chúng ta rất khó biết được tường tận và đo lường đầy đủ. Và trong khi nhà<br />
nghiên cứu trong các ngành khoa học tự nhiên có thể, trên nền tảng một lý thuyết tạm được<br />
chấp nhận là đúng (prima facie theory), đo lường được những yếu tố mà anh ta cho là quan<br />
trọng thì trong các ngành khoa học xã hội thường chỉ những gì có thể đo lường được mới<br />
được anh ta coi là quan trọng. Và điều này đôi lúc đẩy người ta tới chỗ phải xây dựng các lý<br />
thuyết về xã hội theo hướng chỉ bao gồm các yếu tố đo lường được.<br />
Đòi hỏi kiểu như vậy, không nghi ngờ gì, đã loại bỏ một cách khá tùy tiện những dữ<br />
kiện (facts) được thừa nhận có thể là nguyên nhân của sự kiện diễn ra trong thực tế. Quan<br />
điểm này, một quan điểm thường được dễ dãi chấp nhận như là điều kiện bắt buộc của một<br />
quy trình khoa học đúng đắn, đã dẫn đến một số hậu quả khá nghịch lý. Dĩ nhiên, chúng ta<br />
biết rằng đa phần các dữ kiện liên quan đến thị trường và những cấu trúc xã hội tương tự là<br />
không thể đo lường được; thực ra, chúng ta chỉ biết một số ít thông tin khái quát và thiếu<br />
chính xác về chúng. Và bởi ảnh hưởng của các dữ kiện này trong bất kỳ trường hợp cụ thể<br />
nào đều không thể xác nhận được bằng bằng chứng định lượng, chúng đơn giản sẽ bị những<br />
người tuân thủ qui tắc khoa học chỉ chấp nhận những cái được chứng thực bằng bằng chứng<br />
định lượng bỏ qua: những người này tiếp tục hài lòng với câu chuyện rằng chỉ những yếu tố<br />
có thể đo lường được mới là những thứ có liên quan.<br />
Chẳng hạn, mối tương quan giữa tổng cầu và tổng lực lượng lao động có thể chỉ mang<br />
tính tương đối, nhưng vì đó là mối quan hệ duy nhất chúng ta có dữ liệu định lượng nên nó<br />
được chấp nhận như là mối quan hệ nhân quả duy nhất có ý nghĩa. Nếu dựa trên chuẩn mực<br />
[định lượng] này, chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy bằng chứng “khoa học” có lợi cho một lý<br />
thuyết sai lầm thay vì cho một lý thuyết đúng đắn; lý thuyết sai lầm được chấp nhận vì nó có<br />
vẻ “khoa học” hơn, còn lý thuyết đúng đắn bị bác bỏ vì thiếu bằng chứng định lượng ủng hộ.<br />
<br />
Để minh họa điều này, tôi xin trình bày ngắn ngọn nguyên nhân chính gây ra nạn thất<br />
nghiệp trên diện rộng; việc chỉ ra nguyên nhân này cũng là lời giải đáp cho câu hỏi tại sao<br />
không thể giải quyết được vĩnh viễn vấn đề thất nghiệp bằng chính sách lạm phát theo<br />
khuyến nghị của lý thuyết đang thịnh hành. Theo tôi, nạn thất nghiệp tồn tại là vì có những<br />
bất tương thích giữa: (i) phân bố cầu (distribution of demand) giữa các loại hàng hóa và dịch<br />
vụ khác nhau và (ii) phân bổ lao động và các nguồn lực khác cho việc sản xuất ra các sản<br />
phẩm đầu ra đó. Chúng ta có hiểu biết “định tính” khá tốt về các lực lượng làm cho cung và<br />
cầu trong các khu vực khác nhau của hệ thống kinh tế tương thích nhau, về các điều kiện để<br />
sự tương thích đó diễn ra, và về các yếu tố có thể cản trở quá trình dẫn đến sự tương thích đó.<br />
Các bước lý giải quá trình này phụ thuộc vào các dữ kiện được trải nghiệm thường ngày, và<br />
nếu có cảm thấy thấy khó tiếp thu cách lập luận thì hiếm ai lại tỏ ra nghi ngờ về tính hợp lệ<br />
của những giả định thực tiễn (factual assumptions) hoặc tính đúng đắn về mặt logic của các<br />
kết luận được rút ra từ đó. Thực chất, chúng ta có cơ sở vững vàng để tin rằng nạn thất nghiệp<br />
là một chỉ dấu cho thấy cấu trúc các mức giá và tiền lương tương đối đã bị méo mó (thường<br />
do độc quyền hoặc chính sách ấn định giá của chính phủ) và việc lập lại cân bằng cung cầu về<br />
lao động trong tất cả các ngành nghề kinh tế đòi hỏi phải có những thay đổi các mức giá<br />
tương đối và sự chuyển dịch lao động [giữa các ngành nghề - ND].<br />
Nhưng khi bị yêu cầu cung cấp bằng chứng định lượng về cấu trúc cụ thể của các mức<br />
giá và tiền lương cần thiết nhằm đảm bảo cho việc cung cấp các các phẩm và dịch vụ được<br />
diễn ra suôn sẻ thì chúng ta buộc phải thừa nhận là chúng ta không hề có thông tin kiểu như<br />
vậy. Nói cách khác, chúng ta biết các điều kiện chung để cái gọi là (diễn đạt hơi thiếu chuẩn<br />
xác một chút) điểm cân bằng tự hình thành, nhưng chúng ta lại không bao giờ biết được các<br />
mức giá và tiền lương cụ thể là bao nhiêu nếu giả dụ thị trường đạt tới điểm cân bằng. Chúng<br />
ta chỉ có thể phát biểu về các điều kiện tại đó chúng ta có thể mong đợi thị trường hình thành<br />
các mức giá và tiền lương tại đó cung và cầu cân bằng. Nhưng chúng ta có thể không bao giờ<br />
đưa ra được số liệu thống kê thể hiện mức độ chênh lệch của các mức giá và tiền lương hiện<br />
hành so với các mức giá và tiền lương cần thiết để bảo đảm việc cung cấp các sản phẩm và<br />
dịch vụ diễn ra liên tục tương ứng với mức cung lao động hiện hành. Mặc dù cách lý giải này<br />
về các nguyên nhân gây ra nạn thất nghiệp là một lý thuyết thực nghiệm, theo nghĩa nó có thể<br />
bị phủ chứng, chẳng hạn, nếu chúng ta thấy, với một lượng cung tiền không đổi, việc tăng<br />
tổng thể các mức tiền lương không dẫn tới nạn thất nghiệp, nhưng dĩ nhiên nó không phải là<br />
thứ lý thuyết mà chúng ta có thể vận dụng để đưa ra những tiên đoán với những con số cụ thể<br />
về các mức tiền lương, hoặc sự phân phối lao động, trong tương lai.<br />
<br />