Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
SỰ THAY ĐỔI ĐẶC TÍNH SINH HÓA CỦA NƯỚC BỌT<br />
TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ VÒM HẦU SAU XẠ TRỊ<br />
Ngô Thị Quỳnh Lan*, Phan Nguyễn Nhật Phương**<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: nghiên cứu nhằm mục tiêu: (1) Mô tả các đặc điểm sinh hóa: độ pH, khả năng đệm của nước bọt ở<br />
bệnh nhân ung thư vòm hầu tại 2 thời điểm: trước xạ trị và sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng; (2) So sánh và phân<br />
tích mối liên quan các đặc điểm sinh hóa nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu; (3) So sánh sự thay đổi các đặc<br />
điểm sinh hóa nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm hầu sau khi kết thúc xạ trị 1 tháng theo tuổi, giai đoạn ung thư<br />
và phương pháp điều trị.<br />
Phương pháp: Với thiết kế nghiên cứu mô tả đoàn hệ tiến cứu trên mẫu nghiên cứu thuận tiện gồm 37 bệnh<br />
nhân ung thư vòm hầu có chỉ định điều trị xạ trị ngoài với tổng liều là 70 Gy trong thời gian từ tháng 1-7/2014<br />
tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM.<br />
Kết quả: Trước xạ trị, không có trường hợp nào có độ pH ở mức thấp (từ 5,0 đến 5,8) (0%), 18,9% bệnh<br />
nhân có độ pH nước bọt trung bình (từ 6,0 đến 6,6), 81,1% có độ pH nước bọt cao (từ 6,8 đến 7,8), sau kết thúc<br />
xạ 1 tháng thì 100% bệnh nhân có độ pH nước bọt thấp. Trước xạ trị, không có trường hợp nào có khả năng đệm<br />
nước bọt ở mức thấp (0%), 21,6% có khả năng đệm nước bọt ở mức trung bình, 78,4% ở mức cao, sau khi kết<br />
thúc xạ 1 tháng, 16,2% có khả năng đệm nước bọt ở mức thấp, 83,8% ở mức trung bình, không có bệnh nhân nào<br />
có khả năng đệm nước bọt ở mức cao (0%).<br />
Kết luận: Có tương quan thuận giữa độ pH nước bọt trước xạ trị và mức độ giảm pH cũng như độ pH nước<br />
bọt ở thời điểm sau xạ 1 tháng và giữa khả năng đệm nước bọt trước xạ trị và mức độ giảm khả năng đệm cũng<br />
như khả năng đệm của nước bọt ở thời điểm sau xạ 1 tháng. Không có sự khác biệt về mức độ giảm pH và khả<br />
năng đệm nước bọt sau khi kết thúc xạ 1 tháng khi so sánh theo tuổi, giữa bệnh nhân ung thư ở giai đoạn IV và<br />
chưa đến giai đoạn IV, giữa bệnh nhân xạ trị không có kết hợp hóa trị và bệnh nhân xạ trị có kết hợp hóa trị.<br />
Từ khóa: pH nước bọt, khả năng đệm, ung thư vòm hầu, xạ trị.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
MODIFICATION OF BIO-CHEMICAL CHARACTERISTICS OF THE SALIVA IN PATIENTS WITH<br />
NASOPHARYNGEAL CANCER AFTER RADIOTHERAPY<br />
Ngo Thi Quynh Lan, Phan Nguyen Nhat Phuong<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 215 - 222<br />
Objectives: (1) Describe pH, buffering capacity of the saliva in patients with nasopharyngeal cancer before<br />
and 1 month after radiotherapy; (2) analyze the relation between these characteristics; (3) analyze the modification<br />
of these characteristics in relation to age, stage of cancer and treatment modality.<br />
Materials and method: The cohort study was conducted on 37 patients with nasopharyngeal cancer<br />
undergoing radiotherapy (total dosage 70 Gy) from January 2014 to July 2014 at Hospital of Oncology at Ho Chi<br />
Minh City.<br />
Result: The results showed that no patient had low salivary pH (pH from 5.0 to 5.8) (0%), 18.9% patients<br />
* Bộ môn Nha khoa cơ sở- Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM<br />
** BS RHM Khóa 2008-2014- Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM<br />
Tác giả liên lạc: PGS-TS Ngô Thị Quỳnh Lan<br />
ĐT: 0903125864<br />
Email: ngothiquynhlan@yahoo.com<br />
<br />
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt<br />
<br />
215<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015<br />
<br />
had average pH (pH from 6.0 to 6.6), 81.1% had high pH (pH from 6.8 to 7.8). 1 month after radiotherapy, 100%<br />
patients had low salivary pH. Before radiotherapy, no patient had low buffering capacity (0%), 21.6% had average<br />
buffering capacity, 78.4% had high buffering capacity. 1 month after radiotherapy, 16.2% had low buffering<br />
capacity, 83.8% had average buffering capacity and no patient had high buffering capacity (0%).<br />
Conclusion: We could observe a positive relation between salivary pH before radiotherapy and the reduction<br />
in salivary pH and the salivary pH after radiotherapy, between the buffering capacity at the beginning and the<br />
reduction in buffering capacity as well as the buffering capacity itself 1 month after radiotherapy. No significant<br />
difference was found in terms of salivary pH reduction and buffering capacity between patients at various ages, at<br />
stage IV or below, with or without chemotherapy.<br />
Key words: salivary pH, buffering capacity, nasopharyngeal cancer, radiotherapy.<br />
base tác động làm thay đổi pH của môi trường.<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Nhờ khả năng đệm mà nước bọt giữ được pH<br />
Nước bọt là một chất dịch ngoại tiết, là một<br />
trung tính cho môi trường miệng. Khả năng đệm<br />
trong những hệ thống bảo vệ tự nhiên của cơ<br />
càng tốt thì càng ít sâu răng(1,5). Trên cùng một<br />
thể. Nước bọt toàn phần là hỗn hợp dịch tiết từ<br />
người, khả năng đệm của nước bọt là tương đối<br />
các tuyến nước bọt chính (tuyến mang tai, tuyến<br />
ổn định, ít thay đổi theo thời gian. Khả năng<br />
dưới hàm, tuyến dưới lưỡi) và các tuyến nước<br />
đệm bình thường của nước bọt kích thích là<br />
bọt phụ nằm rải rác ở niêm mạc môi, má, khẩu<br />
khoảng pH 5,5- 6,5. Khi khả năng đệm rất thấp<br />
cái và một ít từ dịch nướu. Sự hiện diện của nước<br />
(pH