intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sự tự chủ bền vững của trường đại học - Nhìn từ lý thuyết tổ chức

Chia sẻ: Quang Lê | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

18
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Quá trình chuyển đổi cơ chế hoạt động của các trường đại học theo hướng đảm bảo sự tự chủ thực sự của các trường đại học ở Việt Nam đòi hỏi phải có sự đổi mới thực sự ngành giáo dục đại học của đất nước. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết để nắm chi tiết hơn về nội dung nghiên cứu sự tự chủ bền vững của trường đại học tại Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sự tự chủ bền vững của trường đại học - Nhìn từ lý thuyết tổ chức

  1. SỰ TỰ CHỦ BỀN VỮNG CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC - NHÌN TỪ LÝ THUYẾT TỔ CHỨC Nguyễn Văn Phúc Viện Kinh tế - Xã hội và Công nghệ Về bản chất, tự chủ là cơ chế tồn tại và hoạt động của mỗi chủ thể kinh tế- xã hội, trong đó chủ thể này có quyền và nghĩa vụ chủ động tự quyết định các vấn đề liên quan tới định hướng phát triển, tự tổ chức và thực hiện các hoạt động cần thiết để đảm bảo các điều kiện để duy trì sự hoạt động bền vững của mình mà không bị chi phối bởi các chủ thể khác. Yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của sự tự chủ là tính độc lập của một chủ thể trong việc tự mình ra quyết định và hành động theo ý chí riêng. Về bản chất, sau khi được thành lập, một tổ chức sẽ trở thành một pháp nhân hoạt động theo sứ mạng, chức năng mà nó được giao (theo ý tưởng và quyết định của những chủ thể thành lập ra nó). Tài sản mà những chủ thể sáng lập đã bỏ ra để thành lập tổ chức mới sẽ trở thành tài sản thuộc sở hữu của tổ chức này. Lúc đó, tổ chức này sẽ có tư cách độc lập về mặt pháp lý đối với các chủ thể khác trong xã hội, kể cả đối với chủ sở hữu hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân thành lập ra nó. Để đảm bảo tính độc lập đó, tổ chức này phải tự chủ về mọi mặt, cả về pháp lý, hành chính, xã hội và kinh tế. Như vậy, tự chủ là một trạng thái của một chủ thể trong mối quan hệ với một hoặc một số chủ thể khác xét trên giác độ quyền và nghĩa vụ về hành vi, nhận thức của chủ thể đó (cả trên giác độ ra quyết định và hiện thực hóa hành vi, nhận thức của mình). Tổng hợp những quan niệm về tự chủ, Benoist cho rằng tự chủ thực sự không nằm ở quy định pháp lý, mà là ở ý chí thực hiện những nội dung của tự chủ1. Jürg Minsch cho rằng trong xã hội hiện đại- offene Gesselschaft (xã hội mở), với tư cách là một “souveräne Denkrepublik” (Cộng hòa tư duy tự chủ), trường đại học phải được tự chủ thì mới có thể phát huy được sự tự do tư duy, từ đó tạo ra những tri thức mới cho xã hội, để tạo ra “Gute Leben für Alle” (Cuộc sống tốt đẹp cho mọi người)2. Khái niệm tự chủ đã được sử dụng từ sớm, nhưng chính thức được hệ thống hóa thành hệ quan điểm trong “thời đại khai sáng”, trong đó Bodin, Hobbes und Rousseau là những đại diện nổi bật. Khái niệm này được mở rộng sang lĩnh vực kinh tế khi xuất hiện một số tổ chức kinh tế có quy mô đủ lớn để tách ra nhiều bộ phận hoạt động ở nhiều nơi, nhu cầu tự quyết của chúng ngày càng lớn. Khi các tổ chức đa quốc gia và xuyên quốc gia hình thành, tính tự chủ của các đơn vị cấu thành thuộc các tổ chức này (cũng như những tổ chức tương tự khác) càng ngày càng trở thành chủ đề cho các nghiên cứu cả về lý thuyết lẫn thực tế. Bối cảnh thực hiện sự tự chủ luôn thay đổi khiến cho nội hàm cũng như phương thức thực hiện tự chủ có thay đổi nhưng bản chất của tự chủ ít biến động3. Asbach phân biệt tự chủ về mặt pháp lý (rechtliche Souveränität) và tự chủ thực tế (hoặc tự chủ về mặt vật chất- materielle Souveränität). Ông cho rằng sự tự chủ về mặt pháp lý càng ngày càng được khẳng định và củng cố bởi các quy định pháp lý thì sự tự chủ về mặt vật chất càng ngày càng có những biến động phức tạp và trái chiều4. Trong 1 Allain de Benoist (2018), What is Sovereignty? 2 Jürg Minsch (2019), Offene Gesellschaft & Souveräne Universität. 3 Patricio Valdivieso (1999), Is the Concept of Sovereignty Changing? 4 Olaf Asbach (2013), Politische Herrschaft und Autonomie: Souveränität bei Bodin, Hobbes und Rousseau. 153
  2. mối quan hệ này, tự chủ về mặt pháp lý chỉ là sự thừa nhận (hoặc cho phép) một thủ thể chính thức có quyền và nghĩa vụ tự chủ. Tự chủ thực tế là trạng thái mà một chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ tự chủ của mình (kể cả quyền/ nghĩa vụ được thừa nhận hoặc không được thừa nhận) như thế nào. Trong khi nội hàm của tự chủ pháp lý tương đối ổn định thì tự chủ thực tế lại liên tục biến động, đặc biệt là năng lực tự chủ. Bởi thế, trên thực tế, luôn có sự bất cập, không tương thích giữa tự chủ về pháp lý và tự chủ trên thực tế. Nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước là xác định rõ khoảng cách giữa tự chủ về pháp lý so với tự chủ thực tế và giải pháp để thu hẹp khoảng cách này. Khái niệm về sự tự chủ như trên khác với quan niệm hiện nay của nhiều người, coi sự tự chủ của một tổ chức đồng nghĩa với việc từ bỏ bao cấp, từ bỏ các khoản thu từ ngân sách nhà nước, tự tìm kiếm các nguồn thu ngoài ngân sách để trang trải các chi phí hoạt động và phát triển bền vững của mình. Chính vì thế, sự tự đảm bảo nhu cầu tài chính được coi là cốt lõi của quá trình chủ hóa và cơ chế tự chủ tài chính là trung tâm của cơ chế tự chủ nói chung. Thực ra, khi nói tới sự bao cấp và các khoản cấp phát là nói tới nguồn kinh phí đảm bảo hoạt động của một tổ chức, còn sự tự chủ là phương thức hoạt động của tổ chức đó; nội hàm của hai phạm trù này hoàn toàn không đồng nhất với nhau và không thể ghép với nhau thành một cặp phạm trù, điều sẽ dẫn tới nhiều ngộ nhận không đáng có. Có thể nêu một ví dụ rất rõ ràng cho trường hợp này là một doanh nghiệp tư nhân sản xuất sản phẩm cung cấp toàn bộ sản phẩm của mình cho Nhà nước. Lúc đó, toàn bộ nguồn thu của doanh nghiệp là từ ngân sách, nhưng doanh nghiệp không hề bị mất sự tự chủ của mình. Phương thức “đặt hàng” của Nhà nước chính là thể hiện tinh thần này. Theo lý thuyết tổ chức, với tư cách là một tổ chức, mỗi trường đại học là một thực thể kinh tế- chính trị- xã hội, có một cấu trúc và cơ chế hoạt động xác định, hoạt động theo một hoặc một số mục tiêu chung, được hình thành và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật quốc gia và những quy định riêng của mình5. Ở nhiều nước phương Tây, tính độc lập của các trường đại học đã được coi là sự đương nhiên từ khá sớm. Tuy nhiên, yêu cầu này trở thành chủ đề cho những phong trào xã hội rộng rãi trong các thế kỷ 18 và 19 khi các trường đại học và giới học giả đòi phải được tự do tư tưởng, tách khỏi sự chi phối của nhà thờ. Vấn đề được tranh luận nhiều lúc đó không phải là tính tự chủ, mà là sự tự do (freedom) và tính độc lập (authonomy) của các trường, đặc biệt là tự do tư tưởng của các nhà khoa học. Những chủ đề này vẫn tiếp tục được tranh luận sau này, ngay cả khi nhà trường không còn bị nhà thờ chi phối về mặt tư tưởng/ tinh thần nữa. Tính tự chủ của các trường đại học lại trở thành chủ đề của xã hội một lần nữa ở châu Âu vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX khi một loạt nước Tây Âu thực hiện chính sách tư nhân hóa hệ thống dịch vụ thuộc sở hữu công (đặc biệt là chính sách tư nhân hóa đối với hệ thống giáo dục và y tế ở Anh) và khi các nước xã hội chủ nghĩa trước đây thực hiện sự chuyển đối từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường (trong đó sự bao cấp của Nhà nước cho các trường đại học công lập được giảm dần, thậm chí bỏ hẳn). Xu hướng chung là yêu cầu đảm bảo sự độc lập và tự chủ toàn diện của các trường đại học. Về mặt lý thuyết, cơ sở để xác định nội hàm sự tự chủ của trường đại học, kể cả nội dung lẫn cơ chế và tổ chức thực hiện, là bản chất của trường đại học, trước hết là sự định vị trường đại học trong hệ thống các tổ chức xã hội. Nếu những nội dung này được xác định một cách chính xác và hợp lý, việc xác định nội hàm của sự tự chủ cho các 5 Jeffrey A. Miles (2012), Management and Organization Theory. The Jossey-Bass Business & Management Series. San Francisco. USA. 154
  3. trường đại học cũng sẽ chính xác hơn. Ở Việt Nam, vị trí của trường đại học trong xã hội lại tùy thuộc rất nhiều vào sứ mạng của nó, đặc biệt là những sản phẩm, dịch vụ mà nó cung cấp cho xã hội (trước hết là công dụng, tính chất và sự cần thiết của nó). Hiện nay, giáo dục được xác định là một dịch vụ công ích, nhưng không xác định rõ là giáo dục ở bậc nào nên nhận thức chung đều cho rằng cả giáo dục phổ thông các cấp lẫn giáo dục đại học đều thuộc nhóm dịch vụ công ích. Đảm nhận nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công ích, Nhà nước thành lập và duy trì hoạt động của các trường đại học với tư cách là những đơn vị trực tiếp cung cấp các dịch vụ này6. Lô gic tiếp theo là: Một khi Nhà nước thành lập các trường đại học, cung cấp các nguồn lực để chúng hoạt động thì hoạt động của trường sẽ do Nhà nước quyết định. Tuy nhiên, do các trường có nguồn thu ngoài ngân sách ngày càng lớn nên họ được chủ động đối với việc sử dụng các nguồn thu này. Bởi vậy, lô gic để xác định sự tự chủ này là tuần tự thực hiện các bước trong quy trình chung sau đây: Xác định dịch vụ mà trường cung cấp cho xã hội (bản thân dịch vụ, công dụng của dịch vụ, chất lượng của dịch vụ, vai trò và tác dụng của dịch vụ đối với xã hội, …); xác định vị thế thực tế của trường; xác định năng lực của trường và các chủ thể liên quan; cuối cùng là xác lập vị thế của trường trong hệ thống các chủ thể xã hội (trong đó có nội dung như trường có độc lập hay không, nếu không thì sẽ phụ thuộc vào chủ thể/ những chủ thể nào, với mức độ và quan hệ cụ thể ra sao, …). Theo quy định hiện hành của Việt Nam hiện nay, trường đại học được xác định “là cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, thực hiện chức năng đào tạo các trình độ của giáo dục đại học, hoạt động khoa học và công nghệ, phục vụ cộng đồng”7. Các trường đại học công lập cung cấp dịch vụ đào tạo ở bậc đại học và trên đại học, được coi là những đơn vị hành chính sự nghiệp, cung cấp dịch vụ công. Bên cạnh các trường đại học công lập, các trường đại học thuộc các loại hình sở hữu khác cũng cung cấp dịch vụ đào tạo, nhưng không được coi là tổ chức cung cấp dịch vụ công8. Bởi dịch vụ đào tạo do các trường đại học công lập và ngoài công lập cung cấp đều như nhau, sự phân biệt như trên rõ ràng là bất hợp lý. Theo tinh thần đảm bảo sự bình đẳng của các cơ quan, tổ chức thuộc các hình thức hình thức sở hữu khác nhau, được tổ chức theo những phương thức khác nhau, quan niệm trên cần được điều chỉnh. Hơn nữa, tính “thiết yếu” của mỗi dịch vụ cũng thay đổi theo thời gian, đặc biệt là theo sự biến đổi của bối cảnh kinh tế- xã 6 Ở đây đã có sự đồng nhất giữa việc Nhà nước đảm nhận việc cung cấp dịch vụ công cho xã hội với việc Nhà nước trực tiếp tạo ra dịch vụ công và trực tiếp cung cấp dịch vụ đó cho xã hội. Trong thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước đã thành lập các trường đại học, coi các trường đại học là một bộ phận trong hệ thống nhà nước, chỉ đào tạo đại học cho một nhóm học sinh tốt nghiệp phổ thông sau khi đã tuyển chọn một cách kỹ càng. Sau khi tốt nghiệp, toàn bộ sinh viên đại học được sử dụng trong hệ thống nhà nước. Theo lý thuyết tổ chức, ngay trong bối cảnh này, các trường đại học cũng đã là những tổ chức độc lập. Khi cơ chế kinh tế thị trường được thực hiện ở Việt Nam, hệ thống giáo dục đại học không chỉ bao gồm các trường công lập, mà còn có các trường ngoài công lập. Các trường cùng tham gia đào tạo nhân lực theo những chương trình tương tự, đều được cơ quan chức năng của Nhà nước chấp thuận. Do vậy, việc Nhà nước đảm nhận việc cung cấp dịch vụ công cho xã hội và việc Nhà nước trực tiếp tạo ra dịch vụ công và trực tiếp cung cấp dịch vụ đó cho xã hội hoàn toàn có thể tách rời nhau: Các trường đại học trực tiếp tạo ra dịch vụ đào tạo để cung cấp cho xã hội; Nhà nước đặt hàng để các trường đại học cung cấp dịch vụ đào tạo cho những đối tượng mà Nhà nước nhận trách nhiệm cung cấp dịch vụ cho họ. Trong bối cảnh này, yêu cầu đảm bảo sự bình đẳng giữa các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đòi hỏi các trường đại học công lập phải thay đổi cơ chế hoạt động mà tự chủ hóa chỉ là một nội dung. Vấn đề hiện một số người còn lấn cấn là có nên thừa nhận thị trường dịch vụ giáo dục đào tạo đại học hay không! Một khi thống nhất được quan điểm, thừa nhận sự tồn tại của thị trường này thì sự tự chủ của các trường đại học cũng sẽ rõ ràng hơn rất nhiều. 7 Luật Giáo dục Đại học sửa đổi năm 2018. Mục 2, điều 1 về việc sửa đổi Điều 4 Luật Giáo dục Đại học năm 2012. 8 Xem Luật Giáo dục đại học năm 2012, Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2018, Luật Viên chức (Văn bản hợp nhất năm 2019); Nghị định số 16/ 2015/ NĐ-CP ngày 14 tháng 2 năm 2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. 155
  4. hội và tiến bộ khoa học- công nghệ cũng như nhu cầu của con người. Bản thân chức năng của Nhà nước trong việc cung cấp những dịch vụ cụ thể cũng thay đổi theo nguyên lý “Nhà nước chỉ làm những gì mà tư nhân không làm được hoặc không muốn làm”. Bởi vậy, một trong những tiền đề để làm việc này là cần có sự nhìn nhận lại tính chất của dịch vụ đào tạo đại học trong bối cảnh và điều kiện hiện nay cũng như trong giai đoạn tới, có coi nó là dịch vụ công ích hay không. Lâu nay, hệ thống giáo dục nói chung có chức năng “đào tạo con người”, trong đó mục tiêu của giáo dục đại học là “a) Đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu khoa học, công nghệ tạo ra tri thức, sản phẩm mới, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế; b) Đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức; có kiến thức, kỹ năng thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và phát triển ứng dụng khoa học và công nghệ tương xứng với trình độ đào tạo; có sức khỏe; có khả năng sáng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp, thích nghi với môi trường làm việc; có ý thức phục vụ nhân dân”9. Xem xét mục tiêu trên, có thể thấy rằng không chỉ các trường đại học công lập, mà cả các trường ngoài công lập đều tham gia thực hiện những mục tiêu này. Tuy nhiên, cả về lý thuyết lẫn thực tế, dù có vai trò quan trọng đến đâu thì riêng các trường đại học không thể một mình mình thực hiện những mục tiêu trên. Đảng và Nhà nước cũng đã nhiều lần nhấn mạnh rằng việc xây dựng con người mới (rộng hơn là đào tạo con người với tư cách là chủ thể của xã hội nói chung), là sự nghiệp của cả xã hội, bởi con người là tổng hòa các quan hệ xã hội, là sản phẩm của cả xã hội. Nếu nhìn nhận các cơ sở giáo dục nói chung, các trường đại học nói riêng, là những tổ chức cung cấp dịch vụ, dù là dịch vụ đặc biệt, góp phần quan trọng vào việc hình thành con người mới tư cách là chủ thể xã hội (chứ không chỉ là nguồn lực cho phát triển kinh tế), thì việc xem xét sự tự chủ của chúng sẽ rành mạch, rõ ràng hơn, nhiều vấn đề phức tạp trở nên đơn giản hơn rất nhiều. Được coi và tự coi là một “đơn vị hành chính sự nghiệp”, tuy được xã hội nhìn nhận sứ mạng của các trường đại học công lập to lớn và quan trọng như trên, nhưng thực ra các trường vẫn chỉ tập trung vào nhiệm vụ giảng dạy là chính và các nội dung quản lý trường học nói chung, đặc biệt là quản trị đội ngũ nhân sự của trường nói riêng, cũng tập trung vào nhiệm vụ này. Dù có sự giải thích, trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau, bản thân Nhà nước, các tổ chức xã hội cũng như bản thân các trường đại học coi việc Nhà nước phải cấp kinh phí để mình thực hiện nhiệm vụ đào tạo là đương nhiên và việc nhà trường tạo các nguồn thu ngoài ngân sách trước hết là nhằm bổ sung cho nguồn cấp phát từ Nhà nước, cải thiện thu nhập và đời sống, nâng cao phúc lợi cho cán bộ, giảng viên, nhân viên của nhà trường. Những dịch vụ phục vụ quá trình đào tạo, việc khai thác các nguồn lực của trường, đặc biệt là nguồn nhân lực của trường, để cung cấp các dịch vụ phục vụ đào tạo và các hoạt động kinh tế- xã hội khác để tạo nguồn thu nhằm đảm bảo cân đối tài chính của trường chưa được coi trọng và triển khai đúng mức10. 9 Luật Giáo dục đại học. Luật số 08/ 2012/ QH13 do Quốc hội thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012; Điều 5. 10 Từ những năm cuối thập kỷ 1990, việc khai thác tiềm lực khoa học- công nghệ của các trường để sản xuất và cung cấp dịch vụ cho xã hội, đặc biệt là các sản phẩm và dịch vụ khoa học- công nghệ đã được nhấn mạnh và triển khai khá mạnh ở nhiều trường đại học. Nhiều trường đã thành lập những doanh nghiệp hoặc các trung tâm ứng dụng- triển khai để thực hiện những hoạt động này và chúng thực sự đã đem lại tác dụng tốt về nhiều mặt cho cả các trường lẫn xã hội. Về sau, nhiều doanh nghiệp và trung tâm như thế đã tách ra hoạt động độc lập theo Luật Doanh nghiệp hoặc quay trở lại tập trung vào các hoạt động đào tạo. Những hoạt động mà đội ngũ nhân sự của trường thực hiện theo hướng trên (và cả những hoạt động khác như làm giảng viên kiêm giảng cho các trường khác, làm cộng tác viên cho các tổ chức tư vấn hoặc tư vấn độc lập) hầu hết trở thành những hoạt động có tính cá nhân của họ mà nhà trường không quản lý, theo dõi nữa. 156
  5. Hiện nay, ở Việt Nam, có hai yếu tố rất cơ bản chi phối sự hình thành và hiện thực hóa các quan điểm về sự độc lập của các trường đại học. Một là, sự nhận thức về sự tự chủ của các trường đại học. Sự tự chủ của các trường đại học Việt Nam phải được nhìn nhận trên cả hai giác độ: quyền của các trường và trách nhiệm/ nghĩa vụ của họ. Với tư cách là một tổ chức độc lập, được thành lập hoặc chuyển đổi một cách hợp pháp, các trường đại học được toàn quyền lựa chọn sứ mạng, quyết định tầm nhìn, phương thức và cơ chế hoạt động cũng như các hoạt động cụ thể của mình, từ sản phẩm mà mình cung cấp cho xã hội, chất lượng sản phẩm đó, phương thức tạo ra sản phẩm, cách thức cung cấp sản phẩm cho người sử dụng, người mua hoặc người thụ hưởng, tạo ra lợi ích và phân chia lợi ích đó cho những chủ thể có liên quan. Ở chiều ngược lại, các trường đại học phải tuân thủ pháp luật, thực hiện các cam kết của mình và thực hiện trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, sự tự chủ của các trường đại học chủ yếu mới được nhìn nhận dưới giác độ quyền của các trường. Theo cách tiếp cận này, Luật số 34/2018/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học do Quốc hội thông qua ngày 19 tháng 11 năm 2018 định nghĩa “Quyền tự chủ là quyền của cơ sở giáo dục đại học được tự xác định mục tiêu và lựa chọn cách thức thực hiện mục tiêu; tự quyết định và có trách nhiệm giải trình về hoạt động chuyên môn, học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản và hoạt động khác trên cơ sở quy định của pháp luật và năng lực của cơ sở giáo dục đại học”11. Như trên đã trình bày, tự chủ không chỉ là quyền, mà còn là trách nhiệm của trường đại học với tư cách là một tổ chức kinh tế- xã hội. Nếu không nhận thức rõ từ khía cạnh này, sẽ không thể tránh được tình trạng một số trường đại học cố gắng “xin” được tự chủ một phần, hoặc chậm thực hiện tự chủ (mà thực chất là kéo dài thời gian được hưởng bao cấp từ Nhà nước). Theo lý thuyết tổ chức cũng như theo các quy định tại Luật Dân sự của Việt Nam, sau khi được thành lập, mỗi trường đại học là một pháp nhân, lúc đó, nó “phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân”12. Điều đáng lưu ý là: Theo các quy định của pháp luật, một khi một tổ chức, một pháp nhân được thành lập, nó chỉ được phép hoạt động (thông qua việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động hoặc cấp chứng nhận đăng ký kinh doanh) khi nó đáp ứng được những yêu cầu theo quy định của pháp luật. Nhưng đối với các trường đại học, sau khi được thành lập và đăng ký hoạt động, các trường vẫn chỉ được tự chủ (tức là được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của một pháp nhân) với những điều kiện nhất định13. Tuy vẫn có những quan điểm và đánh giá khác nhau, nhưng thực chất, nhiều “điều kiện” do Luật và các cơ quan quản lý nhà nước quy định vẫn mang tính chất của những “giấy phép con” hạn chế tính chất tự chủ của các trường đại học. Nhiều quy định về cách thức (hoặc phương thức) hoạt động của các trường còn mang tính áp đặt và thực sự là sự can thiệp sâu vào những hoạt động tác nghiệp của các trường. Một điểm khác cũng đáng lưu ý là ở Luật Giáo dục đại học, trong khi cho phép có những “đơn vị thành viên” là các đơn vị độc lập thuộc các đại học, nhưng không có quy định nói rõ các cơ sở đại học (kể cả các đại học lẫn các trường đại học không có các “đơn vị thành viên” như vậy) là những pháp nhân! Năm 2015, tại Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, Chính phủ mới xác định rõ “Đơn vị sự nghiệp công lập do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước thành 11 Luật số 34/2018/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học do Quốc hội thông qua ngày 19 tháng 11 năm 2018. Mục 11, điều 2 về việc sửa đổi Điều 4 của Luật Giáo dục năm 2012. 12 Luật Dân sự năm 2015. Luật số 91/2015/QH13 do Quốc hội ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015. Điều 74 và mục 1, điều 87. 13 Xem Luật Giáo dục sửa đổi năm 2018, mục 17, điều 1 về việc sửa đổi điều 32 Luật Giáo dục năm 2012. 157
  6. lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước”14. Hai là, yêu cầu và sức ép tự sự chuyển đổi cơ chế kinh tế và điều kiện hoạt động của các trường đại học. Sự phát triển của cơ chế kinh tế thị trường, sự đa dạng hóa và phân hóa chất lượng dịch vụ đào tạo đại học là cơ sở cho sự hình thành và mở rộng cơ chế tự chủ của các trường đại học. Bên cạnh đó, những yêu cầu và thách thức đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học một cách nhanh chóng trên phạm vi rộng, quy mô lớn và trong điều kiện Nhà nước chỉ có nguồn lực hạn chế để dành cho các trường nhằm đáp ứng những yêu cầu đặt ra đối với việc cung cấp dịch vụ đào tạo đại học là những nhân tố thúc đẩy sự hiện thực hóa cơ chế tự chủ của các trường đại học. Trong nhiều năm qua, “xã hội hóa” công tác giáo dục nói chung, “xã hội hóa” giáo dục đại học nói riêng, đã trở thành hiện tượng ngày càng phổ biến và có vai trò ngày càng quan trọng. Xu hướng này không chỉ diễn ra trong khu vực ngoài công lập, mà ngay trong hệ thống các trường đại học công lập. Hiện chưa có số liệu thống kê tổng hợp được công bố chính thức, nhưng có thể thấy các khoản thu ngoài ngân sách đang tăng lên rất đáng kể so với nguồn kinh phí nhà nước cấp cho các trường đại học công lập. Trong trường hợp các cơ quan, tổ chức đầu tư xây dựng trường không thể hoặc không muốn bao cấp mà vẫn muốn kiểm soát các hoạt động của trường thì rõ ràng không hợp lý. Việc khẳng định tính tự chủ của các trường đại học cho phép và buộc các trường năng động hơn, gắn chặt hoạt động và định hướng phát triển của mình với thị trường lao động một cách chặt chẽ hơn, giảm bớt yêu cầu đối với Nhà nước và các tổ chức bao cấp cho trường, đồng thời cho phép loại bớt những trường không đáp ứng được yêu cầu của xã hội đối với dịch vụ của trường. Đảm bảo tính tự chủ của các trường đại học đồng nghĩa với việc điều chỉnh mối quan hệ giữa các trường với các cơ quan quản lý nhà nước theo hướng giảm bớt sự can thiệp trực tiếp có tính tác nghiệp của các cơ quan quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm và quyền tự quyết của các trường cũng như nâng cao trách nhiệm của trường đối với xã hội về sản phẩm/ dịch vụ của mình và về chất lượng của chúng. Thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm của nhiều nước đã thực hiện cơ chế bao cấp đối với hệ thống giáo dục (kể cả các nước xã hội chủ nghĩa trước đây cũng như những nước khác ở Tây Âu) cho thấy việc chuyển đổi các trường đại học sang mô hình tự chủ là xu hướng tất yếu ở Việt Nam. Việc thực hiện cơ chế tự chủ của trường đại học ở Việt Nam, kể cả trường công lập lẫn trường ngoài công lập, không những là cần thiết, mà hoàn toàn có thể thực hiện được dù có những khó khăn, thách thức từ cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan. Những căn cứ chủ yếu cho phép kết luận như vậy là: - Trước hết, bằng những cách thức khác nhau, hiện các trường đại học đã phải “vượt rào”, “lách luật”, tự quyết định nhiều vấn đề mà họ phải xin phép. - Thứ hai, thực tiễn thử nghiệm cơ chế tự chủ ở một số trường công lập cho thấy việc chuyển đổi cơ chế đều đem lại những kết quả tích cực. 14 Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên, Nghị định này xác định tư cách của các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung chứ không chỉ là các trường đại học. Hơn nữa, theo tinh thần của Nghị định này, không chỉ các trường đại học, mà cả các trường công lập được coi là đơn vị sự nghiệp công lập khác, đều có quyền hưởng quy chế tự chủ. Mặt khác, quy định “phục vụ quản lý nhà nước” trong điều này cũng có thể được hiểu theo những cách khác nhau. 158
  7. - Thứ ba, các trường đại học ngoài công lập dù không được bao cấp, cơ sở vật chất ban đầu kém hơn các trường đại học công lập nhưng có mức độ độc lập cao hơn, vẫn có thể tồn tại và phát triển, thậm chí có tích lũy hiệu quả hơn các trường công lập. Trên thực tế, nội dung và phạm vi tự chủ của các trường đại học ở Việt Nam, đặc biệt là các trường đại học công lập, đã được mở rộng dần và các trường cũng đã chuyển dần trọng tâm từ yêu cầu tự chủ về tài chính sang các lĩnh vực khác (mặc dù cũng vẫn còn có những khác biệt trong yêu cầu tự chủ về tài chính của các trường thuộc các loại hình sở hữu khác nhau). Việc chuyển đổi các trường đại học chưa tự chủ thành tự chủ ở Việt Nam hiện nay gắn liền với quá trình xã hội hóa hoạt động của các trường, kể cả trong xây dựng và phát triển cơ sở vật chất- kỹ thuật, nhân lực và các yếu tố cấu thành khác của trường. Để sự chuyển đổi này có hiệu quả, bốn vấn đề cốt lõi cần sớm giải quyết dứt điểm và đồng bộ là 1) lựa chọn người đứng đầu có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu tự chủ của trường; 2) xây dựng cơ chế hoạt động thích hợp với trường; 3) tái cấu trúc đội ngũ nhân lực của các trường theo hướng nâng cao trình độ cho họ và chuyên nghiệp hóa các hoạt động của họ và 4) nâng cấp có trọng điểm một số hạng mục thuộc cơ sở vật chất của trường. Tuy nhiên, tiền đề để có những chủ trương và chính sách hợp lý, có hiệu quả nhằm chuyển đổi cơ chế hoạt động của các trường đại học từ không tự chủ hoặc tự chủ một phần sang cơ chế tự chủ đầy đủ là nhận thức lại về tính chất của dịch vụ mà các trường cung cấp cho xã hội và tính chất của mô hình tổ chức, hoạt động của các trường. Nếu xem dịch vụ đào tạo đại học nói chung như những dịch vụ xã hội khác mà không phải là dịch vụ công và trường đại học hoạt động theo mô hình như doanh nghiệp cung cấp dịch vụ như nhiều nước đang thực hiện thì vấn đề tự chủ của các trường trở nên rõ ràng và dễ giải quyết hơn rất nhiều15. Đương nhiên, do dịch vụ đào tạo đại học có liên quan nhiều tới sự hình thành con người với tư cách là chủ thể của xã hội nên tiêu chuẩn đối với đầu ra của quá trình đào tạo và việc đánh giá chất lượng đầu ra này cần được đặc biệt quan tâm. Một điều kiện quan trọng khác là sự hoàn thiện và phát triển của thị trường lao động, trong đó có cơ chế tuyển dụng nhân sự cho các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan có sử dụng ngân sách nhà nước. Mỗi trường đại học là một thực thể độc lập, tuy có hoạt động theo một hoặc một số “mô hình” nhất định, nhưng có tính đặc thù rất cao, đòi hỏi phải được tổ chức và điều hành một cách phù hợp. Ngay cả khi các cơ quan chức năng có đưa ra điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của các trường, việc vận dụng và triển khai thực hiện điều lệ này cũng phải rất kinh hoạt. Chính vì thế, vai trò cá nhân của người lãnh đạo trường có ý nghĩa rất quyết định đối với sự sẵn sàng, đối với việc thực hiện và đối với kết quả thực hiện sự tự chủ của mỗi trường. Những thay đổi trong các quy định pháp lý về chức danh (không chỉ là tên gọi) và thẩm quyền của những vị trí đóng vai trò là người đứng đầu trường đại học 15 Theo Nghị định số 32/2019/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 2019 của Chính phủ đã định nghĩa “Sản phẩm, dịch vụ công là sản phẩm, dịch vụ thiết yếu đối với đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, cộng đồng dân cư hoặc bảo đảm quốc phòng, an ninh mà Nhà nước phải tổ chức thực hiện” (mục 1, điều 3). Hơn nữa, không chỉ các đơn vị sự nghiệp công lập mới cung cấp các dịch vụ công, mà các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế khác cũng có thể cung cấp dịch vụ công, tùy thuộc hình thức mà Nhà nước áp dụng để chọn đơn vị, tổ chức cung cấp dịch vụ công. Tại Phụ lục 1 của Nghị định 32/ 2019 nói trên, giáo dục đại học được xếp vào loại dịch vụ công được cung cấp theo phương thức giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng. Chính quy định về phương thức đặt hàng này đã góp phần khẳng định và làm rõ thêm cơ chế tự chủ của trường đại học. Tuy nhiên, trên thực tế, ở Việt Nam hiện nay, chỉ một phần dịch vụ đào tạo đại học thực sự là dịch vụ công ích nhưng chính “phần công ích” trong giáo dục đại học này lại chưa được xác định rõ. 159
  8. cho thấy tầm quan trọng cũng như tính đa dạng của vị trí này đã được nhận thức ngày càng rõ nhưng vẫn còn nhiều lúng túng trong xác định nội dung của vai trò này. Trong việc xây dựng và lựa chọn cơ chế hoạt động của các trường, vấn đề trước hết phải xác định rõ là vai trò và quyền can thiệp của chủ sở hữu vào các hoạt động của nhà trường. Theo lý thuyết tổ chức, chủ sở hữu và người điều hành hoạt động của một tổ chức có những vai trò, chức năng có tính bản chất khác nhau. Tất nhiên, chủ sở hữu có thể tự mình điều hành tổ chức được hình thành từ tài sản của mình, nhưng vai trò chủ sở hữu và vai trò người điều hành vẫn phải được tách biệt rõ ràng. Cách tiếp cận chủ đạo hiện nay ở Việt Nam là chủ sở hữu trực tiếp quản lý, điều hành các hoạt động của trường. Vấn đề gây ra nhiều bất cập và vướng mắc là ở chỗ vai trò chủ sở hữu và vai trò điều hành chưa được xác định rõ. Đây chính là nguyên nhân rất cơ bản dẫn đến tình trạng các cơ quan quản lý nhà nước can thiệp sâu vào hoạt động của trường đại học, thực hiện cả nhiều nhiệm vụ, quyết định cả nhiều vấn đề thuộc chức năng, quyền hạn của trường. Một khi các trường đại học tự chủ, nội dung, phương pháp quản lý nhà nước đối với các trường sẽ phải được đổi mới mạnh mẽ. Việc áp dụng một cách nhất quán một phương thức quản lý chủ đạo (và có thể áp dụng một số khía cạnh của các phương thức quản lý khác như một cách để bổ khuyết cho những nhược điểm và hạn chế của phương thức chủ đạo đã chọn) là rất cần thiết16. Trong số những vấn đề phải xử lý, một vấn đề rất quan trọng là giám sát hoạt động của trường để đảm bảo nhà trường tuân thủ đúng các quy định pháp luật và cam kết của chính bản thân trường. Nhà nước kiểm tra, giám sát xem các trường đại học có thực hiện đúng cam kết của mình về sản phẩm và chất lượng sản phẩm mà mình đã đăng ký/ công bố hay không, có tuân thủ những quy định của Nhà nước và các quy định của chính bản thân các trường hay không. Bản thân cộng đồng, các tổ chức xã hội- nghề nghiệp, chính bản than người học và các chủ thể có liên quan đảm nhận vai trò, chức năng giám sát hoạt động của các trường trong phạm vi chức năng và năng lực của họ. Minh bạch hóa chính sách và hoạt động của các trường trở thành một trong những yêu cầu rất cơ bản đối với mỗi trường. Một trong những yếu tố tác động tới sự “tự chủ hóa” các trường đại học là quan niệm và đánh giá về sự cần thiết của việc Nhà nước kiểm soát chất lượng đào tạo. Theo đó, các cơ quan chức năng của Nhà nước có trách nhiệm xác định các tiêu chí và tiêu chuẩn chất lượng đào tạo. Những quy định này thể hiện rất rõ cách tiếp cận với khái niệm chất lượng theo quan điểm của “nhà sản xuất” (tức là người cung cấp dịch vụ). Tuy nhiên, theo quan điểm thị trường, các tiêu chí và tiêu chuẩn chất lượng đào tạo đại học phải xuất phát từ yêu cầu của khách hàng. Mặt khác, chất lượng đào tạo của các trường đại học phải được xác định trên cơ sở thiết kế và đăng ký của các trường đại học và nên do các tổ chức kiểm định chất lượng chuyên nghiệp đánh giá, chứ không phải do cơ quan quản lý nhà nước (ít nhất cũng là không phải chỉ do các cơ quan quản lý nhà nước tiến hành theo phương thức như hiện nay). Việc đánh giá chất lượng đào tạo phải được nhìn nhận trên cả hai giác độ: 1) So với các tiêu chí đã đăng ký với cơ quan có thẩm quyền và 16 Theo các quy định hiện hành, phương thức quản lý theo quá trình và quản lý theo kết quả, quản lý theo mục tiêu, quản lý theo hoạt động (điều hành trực tiếp) có sự đan xen khá nhiều, không thể hiện rõ phương thức quản lý nào là chủ đạo và việc áp dụng những phương thức khác nhau đối với những vấn đề khác nhau trong đào tạo đại học không được thuyết minh/ lý giải một cách rõ ràng, minh bạch. Đối với việc quản lý chất lượng đào tạo đại học hiện nay, vẫn còn có sự đan xen giữa quản lý theo quá trình, quản lý theo hoạt động, quản lý các yếu tố đầu vào, trong khi những tiêu chỉ phản ánh chất lượng đầu ra chỉ mới nặng về định tính và khái quát, thậm chí trong nhiều trường hợp còn chưa rõ chính bản thân đầu ra (con người hay chỉ là kiến thức, kỹ năng và thái độ, hành vi của họ?!). 160
  9. công bố chính thức với xã hội và 2) so với yêu cầu mà xã hội đặt ra. Trong kinh doanh thông thường, một khi doanh nghiệp sản xuất sản phẩm không đạt chuẩn thì sẽ không được đưa ra thị trường, khi doanh nghiệp chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn để sản xuất và kinh doanh thì chưa được phép hoạt động. Tuy nhiên, mặc dù giáo dục được coi là dịch vụ đặc biệt quan trọng, đối với các trường đại học, khi một trường chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu theo quy định, việc cung cấp dịch vụ (đào tạo những ngành nghề, những bậc học nhất định) chỉ bị hạn chế và Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn có thể “quyết định cho phép mở ngành đối với cơ sở giáo dục đại học chưa đủ điều kiện được tự chủ mở ngành đào tạo quy định tại khoản 3 Điều này và đối với các ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe, đào tạo giáo viên, quốc phòng, an ninh”17. Việc tái cấu trúc đội ngũ nhân sự đòi hỏi các trường đại học phải giải quyết bốn vấn đề: Trước hết, cần tạo động lực làm việc và sự gắn kết bền vững) của đội ngũ nhân lực của trường; hai là đảm bảo cho đội ngũ này có cơ cấu cần thiết về năng lực; ba là xây dựng cơ cấu lao động phù hợp với yêu cầu nâng cao chất lượng dịch vụ của trường (tức là đảm bảo cả đội ngũ cán bộ quản lý/ giám sát, đội ngũ giảng viên và đội ngũ phục vụ của các trường đủ để cung cấp được dịch vụ đào tạo theo chất lượng mà nhà trường cam kết với xã hội) và cuối cùng, bốn là nâng cao chất lượng công tác quản trị nhân sự trong các trường đại học. Đặc biệt trong việc tái cấu trúc đội ngũ nhân sự của trường đại học và trong công tác quản lý, sử dụng đội ngũ này, cần quán triệt ngày càng đầy đủ tính chất thị trường. Tuy thị trường lao động trên thực tế đã hình thành ở Việt Nam, nhưng đối với đội ngũ nhân sự của các trường đại học, cơ chế này vẫn chỉ phát huy một cách có mức độ do khả năng “thích ứng” của đội ngũ nhân sự trong các trường vẫn còn “cao”, cán bộ, giáo viên (kể cả trong các trường dân lập, tư thục) sẵn sàng chấp nhận “làm thêm”, sử dụng các nghề “tay trái” để đảm bảo thu nhập, chưa sẵn sàng bỏ việc ở những nơi có thu nhập thấp và chế độ đãi ngộ kém. Hiện tượng này chưa tạo ra sức ép thực sự đối với các trường khi thực hiện tự chủ. Nhưng thực ra, chính bản thân việc họ không tận tâm làm việc cho một trường mà họ là nhân sự cơ hữu đã là sự “bỏ việc” không chính thức và không hoàn toàn. Hiện tượng này lâu nay được cho là xuất phát từ nhận thức, ý thức và “sự thích ứng” và “năng động” của đội ngũ nhân sự của các trường đại học, nhưng thực ra lại chính là từ công tác quản lý nhân sự của các trường. Nó không chỉ ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo mà còn ảnh hưởng nhiều mặt tới hoạt động và phát triển của chính bản thân các trường. Nâng cấp cơ sở vật chất của trường là yêu cầu thiết yếu trong quá trình chuyển các trường sang thực hiện cơ chế tự chủ. Sự thực là lâu nay nhiều trường đại học công lập còn ỷ lại rất nhiều vào sự đầu tư từ ngân sách nhà nước nhằm xây dựng cơ sở vật chất của trường. Bên cạnh đó, nhiều trường (kể cả những trường thí điểm thực hiện cơ chế tự chủ lẫn các trường chưa áp dụng cơ chế này) đã khai thác các nguồn lực để bổ sung, nâng cấp cơ sở vật chất của mình dưới nhiều hình thức (hợp tác nghiên cứu với nước ngoài và với các doanh nghiệp trong nước, khai thác trang thiết bị của các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế- xã hội và giữa các trường đại học để phục vụ quá trình đào tạo, …). Vấn đề cơ bản ở đây là nhận thức và năng lực tìm kiếm và khai thác các nguồn lực bổ sung cho cơ sở vật chất của trường, đặc biệt là nhận thức và năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo các trường, trong đó có vai trò của người đứng đầu. Hiện nay, khả năng đầu tư của Nhà nước để xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất cho các trường đại học, trước 17 Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2019. Mục 18 điều 1 về sửa đổi Điều 33 Luật Giáo dục năm 2012. “Điều này” ở đây là điều 33 Luật Giáo dục năm 2012. 161
  10. hết là cho các trường đại học công lập, đã rất hạn chế. Việc giảm thiểu và cắt hẳn sự trợ cấp này là không thể tránh khỏi. Do vậy, cần sớm chuyển sự bao cấp này sang hình thức đầu tư theo nhiệm vụ đặt hàng của Nhà nước. Khả năng và kết quả thực hiện nhiệm vụ này cần được coi là một trong những tiêu chí để lựa chọn cán bộ làm người đứng đầu các trường18. Quan điểm phổ biến lâu nay ở Việt Nam là các trường đại học tư thục và dân lập đã độc lập ngay từ khi thành lập; vấn đề tự chủ của trường đại học và việc chuyển đổi mô thình từ chưa tự chủ sang tự chủ chỉ đặt ra đối với các trường đại học công lập. Tuy nhiên, thực tế không hoàn toàn như vậy: Nhiều trường đại học tư thục ở Việt Nam, đặc biệt là những trường đại học mà chủ sở hữu là các tập đoàn/ doanh nghiệp lớn hoặc người sáng lập/ góp vốn chủ yếu là chủ các tập đoàn, doanh nghiệp lớn ở Việt Nam, cũng chưa hoàn toàn hoặc chưa thực sự độc lập. Không ít trường còn phụ thuộc rất nhiều vào cá nhân chủ sở hữu, chưa có chiến lược, quy hoạch phát triển thực sự, thậm chí nhiều tài sản chưa được phân định rạch ròi về mặt pháp lý giữa chủ sở hữu với pháp nhân nhà trường. Có lẽ cho tới nay, chưa có những khảo sát đầy đủ và khoa học, chưa có những đánh giá toàn diện về vấn đề này. Hơn nữa, theo các quy định hiện hành, nhiều hoạt động có tính tác nghiệp của các trường đại học, kể cả công lập lẫn tư thục, đều cần phải xin phép các cơ quan quản lý nhà nước. Mở rộng sự tự chủ của trường đại học không phải là việc của riêng các trường đại học, mà trước hết là của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, trong đó có Bộ Giáo dục và đào tạo. Nó cũng đòi hỏi sự thay đổi nhận thức của cộng đồng, trong đó có sinh viên, gia đình họ và người sử dụng họ sau khi quá trình đào tạo kết thúc. Quan điểm phổ biến hiện nay cho rằng sự tự chủ của trường đại học từ tự chủ sang tự chủ từng phần và tự chủ hoàn toàn là một quá trình. Tính chất “quá trình” cần được hiểu là có sự chuẩn bị để mỗi trường có điều kiện thực hiện được cơ chế tự chủ chứ không phải là “cho” trường tự chủ dần mỗi năm một ít bởi việc thực hiện “tự chủ từng phần” không thể tạo ra sự tự chủ thực sự. Ngay từ rất sớm, Bodin đã kết luận rằng sự tự chủ không thể “bị cắt thành từng mảnh”, mà phải là sự tự chủ toàn diện19. Thực tế chuyển đổi cơ chế hoạt động thành tự chủ từng phần cũng cho thấy rằng các trường đại học hoạt động theo cơ chế tự chủ từng phần đều gặp nhiều khó khăn, tuy được cho tự chủ nhưng vẫn bị “bó chân bó tay”. Quá trình chuyển đổi cơ chế hoạt động của các trường đại học theo hướng đảm bảo sự tự chủ thực sự của các trường đại học ở Việt Nam đòi hỏi phải có sự đổi mới thực sự ngành giáo dục đại học của đất nước. Nó đòi hỏi phải nhận thức đầy đủ và chính xác hơn về vai trò, vị trí của các chủ thể có liên quan và tham gia vào các hoạt động của ngành để từ đó có sự điều chỉnh thích hợp đối với hành vi của mỗi chủ thể. Trong quá trình này, bản thân mỗi trường đại học phải tự nỗ lực để nâng cao năng lực và ý chí tự 18 Một thực tế cũng cần nói tới ở đây là nhiều trường công lập quyết định và lập dự án đầu tư xin Nhà nước cấp vốn xây dựng các công trình cơ sở vật chất kỹ thuật căn cứ vào “sự cần thiết” của các công trình dựa trên đánh giá của chính các trường. Phân tích “hiệu quả” của các công trình này nếu có tính tới khi xây dựng dự án để xin cấp vốn cũng chỉ là phân tích định tính. Yêu cầu “thu hồi vốn” để tái đầu tư cũng như kinh phí duy trì, khai thác và nâng cấp các công trình này cũng ít được tính tới. Chính vì thế, các trường thường cũng chưa khai thác tốt những trang thiết bị đã được đầu tư, mua sắm trong những năm trước đây, càng khó nói tới việc chủ động tìm kiếm kinh phí để nâng cấp, thay thế chúng khi hết thời hạn sử dụng. Dù nguyên nhân của tình trạng này là gì thì việc giảm bao cấp của Nhà nước cũng buộc các trường cân nhắc một cách thận trọng khi quyết định đầu tư và tính toán một cách kỹ lưỡng yêu cầu sử dụng để các trang thiết bị có thể được đầu tư một cách đồng bộ và sau đó được khai thác, sử dụng có hiệu quả. 19 Jean Bodin (1576), The Six Bookes of a Commonweale. Cambridge: Harvard University Press, 1962. 162
  11. chủ của mình. Một khi có được năng lực và ý chí cần thiết, mỗi trường sẽ đảm bảo được sự tự chủ thực sự của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1- Olaf Asbach (2013), Politische Herrschaft und Autonomie: Souveränität bei Bodin, Hobbes und Rousseau. 2- Allain de Benoist (2018), What is Sovereignty? 3- Luật Dân sự năm 2015. Luật số 91/2015/QH13 do Quốc hội ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015. 4- Luật Giáo dục năm 2012. 5- Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2018. Luật số 34/2018/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học do Quốc hội thông qua ngày 19 tháng 11 năm 2018. 6- Luật Viên chức sửa đổi năm 2019 (Văn bản hợp nhất). 7- Jeffrey A. Miles (2012), Management and Organization Theory. The Jossey-Bass Business & Management Series. San Francisco. USA. 8- Jürg Minsch (2019), Offene Gesellschaft & Souveräne Universität. 9- Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 2 năm 2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. 10- Nghị định số 32/2019/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 2019 của Chính phủ quy định giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên. 11- Patricio Valdivieso (1999), Is the Concept of Sovereignty Changing? 163
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1