intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sửa chữa máy xây dựng, xếp dỡ và thiết kế xưởng ( PGS.TS Nguyễn Đăng Điệm ) - Chương 2

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:49

276
lượt xem
85
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

QUÁ TRÌNH CÔNG NGHỆ SỬA CHỮA MÁY 2.1. NHẬN MÁY VÀO SỬA CHỮA VÀ RỬA NGOÀI MÁY Nhận máy vào sửa chữa tuy không phải là một công đoạn công nghệ nhưng nó có một vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất thuộc lĩnh vực sửa chữa máy. Có những điều kiện kỹ thuật qui định để nhận máy vào sửa chữa. Trong những điều kiện đó các yêu cầu cơ bản đối với máy được thể hiện một cách cụ thể. Dựa vào các yêu cầu này, chủ phương tiện khi đưa máy vào sửa chữa...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sửa chữa máy xây dựng, xếp dỡ và thiết kế xưởng ( PGS.TS Nguyễn Đăng Điệm ) - Chương 2

  1. CHƯƠNG 2 QUÁ TRÌNH CÔNG NGHỆ SỬA CHỮA MÁY 2.1. NHẬN MÁY VÀO SỬA CHỮA VÀ RỬA NGOÀI MÁY Nhận máy vào sửa chữa tuy không phải là một công đoạn công nghệ nhưng nó có một vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất thuộc lĩnh vực sửa chữa máy. Có những điều kiện kỹ thuật qui định để nhận máy vào sửa chữa. Trong những điều kiện đó các yêu cầu cơ bản đối với máy được thể hiện một cách cụ thể. Dựa vào các yêu cầu này, chủ phương tiện khi đưa máy vào sửa chữa cần phải có các hồ sơ sau đây: • Biên bản xem xét kỹ thuật định kỳ. • Biên bản nhận máy từ các lần sửa chữa trước • Lý lịch của động cơ • Biên bản sửa chữa đột xuất và thay thế các cụm máy trong quá trình sử dụng. Trong tất cả các biên bản kể trên đều phải ghi đầy đủ trạng thái kỹ thuật của các cụm và các bộ phận máy. Tất cả các máy móc trước khi đưa vào sửa chữa phải được làm sạch sơ bộ bùn và đất bám ngoài máy. Đại diện bên chủ phương tiện giao máy vào sửa chữa, còn đại diện nhà máy thì nhận máy vào sửa chữa. Người nhận máy cần xem xét sơ bộ bên ngoài máy, nhận các hồ sơ liên quan như kể trên từ người giao máy. Bằng việc xem xét bên ngoài, người ta có thể đánh giá sơ bộ chất lượng và trạng thái của máy đưa vào sửa chữa. Việc nhận máy vào xưởng cũng phải được lập biên bản, trong đó cần ghi cụ thể những hiện tượng phát hiện được trên máy như gãy, nứt hoặc bị thiếu các chi tiết phụ tùng v.v… Biên bản phải được đại diện hai bên ký. Rửa ngoài máy: Chuẩn bị cho máy vào sửa chữa người ta xả hết nước làm mát, nhiên liệu và dầu bôi trơn ra khỏi động cơ và các bộ phận của máy. Sau đó dùng dung dịch tẩy rửa chuyên dùng (Bảng 2.1) để rửa sơ bộ các bộ phận như hệ thống làm mát, hệ thống nhiên liệu và hệ thống bôi trơn động cơ cùng các hộp truyền động. Dung dịch rửa được đun nóng đến nhiệt độ từ 75 ÷ 850C và với áp lực 0,4 ÷ 0.5 MN/m2 để xả vào trong bộ phận của máy. Thành phần dung dịch dùng để rửa sơ bộ hệ thống làm mát, hệ thống nhiên liệu và cacte Bảng 2.1 T/T Tên các thành phần hợp thành dung dịch Khối lượng trên 1 lít nước, gam 100 ÷ 150 1 Natri cacbonat nung (Na2CO3) 51 http://www.ebook.edu.vn
  2. 100 ÷ 200 2 Axit clohydric (HCl) nồng độ 5% 75 ÷ 80 * 3 Natri hydroxit (NaOH) 25 ÷ 30 4 Dầu hỏa *) Không được dùng cho những chi tiết được chế tạo từ hợp kim nhôm Nếu máy còn tự di chuyển được đến nhà máy sửa chữa, thì để làm sạch dầu bôi trơn người ta rót một ít dầu nhiên liệu diezel vào trong cacte và cho máy chạy trong 5 ÷ 10 phút, sau đó xả nhiên liệu ra khỏi cacte. Cacte dầu bôi trơn và thùng nhiên liệu sau khi được rửa xong phải dùng khí nén áp suất thấp để thổi sạch. Công việc rửa ngoài máy có thể được thực hiện trong buồng rửa chuyên dùng (Hình 2.1). Dung dịch rửa được bơm xả với áp lực 0,6 ÷ 1,2 MN/m2. Hình 2.1. Buồng rửa OM-1438 để rửa ngoài máy 1- Bể đun nước; 2- Van; 3- Ống đẩy nước trở về; 4- Thiết bị bơm; 5- Bơm để hút nước từ bể lắng; 6- ống cho nước khứ hồi; 7 và 10- Hệ thống vòi phun phía dưới và phía trên; 8- Các con lăn; 9- Máy; 11 và 16- Các đoạn ống mềm; 12- Đường ray; 13- Xe con để di chuyển máy; 14- Xe con của hệ thống vòi phun; 15- Vòi phun nước cầm tay; 17- Cửa sổ quan sát; 18 và 19- Giá treo; 20- Thùng đựng nhiên liệu. Kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng: Sử dụng loại buồng rửa trên đây có thể làm giảm thời gian rửa ngoài máy xuống 2 ÷ 3 lần và giảm công lao động xuống 30 ÷ 40%. 2.2. CƠ SỞ CÔNG NGHỆ THÁO MÁY 2.2.1. Giới thiệu chung Tháo máy là một công đoạn rất nặng nhọc nhưng không thể bỏ qua được trong quá trình 52 http://www.ebook.edu.vn
  3. đại tu một xe-máy. Tổ chức đúng và có chất lượng quá trình tháo máy sẽ có ảnh hưởng lớn tới năng suất và chất lượng sửa chữa máy. Phụ thuộc vào đặc điểm mài mòn và đặc điểm hỏng hóc của các bộ phận máy, thứ tự thực hiện công đoạn tháo và khối lượng công việc tháo sẽ khác nhau rất nhiều. Ví dụ như để thay thế các chi tiết máy bị hỏng, các cụm máy và các bộ phận máy, ta phải tháo máy theo từng phần. Quá trình như vậy được thực hiện trong công việc sửa chữa thường xuyên hoặc trong việc khắc phục hỏng hóc của các cụm và các chi tiết máy riêng biệt với mục đích thay thế dần những phần tử hỏng hóc đó. Chỉ có trong khi đại tu máy tại các nhà máy sửa chữa, người ta mới tháo máy rời thành từng chi tiết. Trong đó, quá trình tháo phải được thực hiện theo một trình tự khắt khe tuân thủ theo qui trình công nghệ. Trong phiếu công nghệ dùng cho việc tháo máy cần được thể hiện rõ thứ tự thực hiện các nguyên công tháo, các thiết bị, đồ gá và dụng cụ cần dùng, định mức thời gian tháo và các điều kiện kỹ thuật cơ bản phải bảo đảm trong quá trình tháo máy. Thực hiện việc tháo máy theo qui định trong phiếu công nghệ sẽ làm giảm đáng kể thời gian tháo, tăng năng suất lao động, giảm số lượng các chi tiết bị hỏng do tháo. Trong quá trình tháo các bộ phận máy, không cho phép để lẫn một số chi tiết. Ví dụ như đối với động cơ đốt trong thì không được để lẫn bánh đà và trục cơ, biên và các nắp biên, thân và nắp các ổ đỡ trục cơ. Trong một số nhà máy sửa chữa khối lượng các chi tiết không nên để lẫn sẽ tăng lên nhiều, trong trường hợp đó tốt nhất nên dùng các dụng cụ chứa đựng riêng biệt để vận chuyển chúng sang các bộ phận khác tiếp theo như rửa, phân loại, lắp ráp v.v… Trong sửa chữa máy không được làm lẫn các bộ phận và các chi tết sau: Động cơ khởi động, bơm nhiên liệu, thân hộp số, khung và các chi tiết cơ sở khác. Tất cả các cụm và các chi tiết này phải được đánh dấu trong quá trình sửa chữa. 2.2.2. Các thiết bị sử dụng trong việc tháo máy Máy sửa chữa được vận chuyển vào phân xưởng tháo bằng các phương pháp sau: Tự di chuyển, dùng đầu kéo, dùng tời, dùng xe con chạy trên đường ray. Phương pháp cuối cùng được sử dụng rộng rãi hơn cả, bởi vì nó tạo nhiều thuận lợi trong thao tác và trong tổ chức qui trình công nghệ. • Xe con di chuyển trên đường ray khổ hẹp (0,75 m) được dùng để vận chuyển các loại máy kéo, máy làm đất, ôtô v.v… Kết cấu của xe con phải có khả năng thay đổi được chiều dài. Tải trọng tối đa của xe con là 12 tấn. Việc dịch chuyển xe con thông thường được thực hiện bằng xích kéo với cơ cấu dẫn động là động cơ điện và hộp giảm tốc. Xích kéo và cơ cấu dẫn động được lắp đặt có cao độ ngang bằng nền của phân xưởng. Xe con được liên kết với xích kéo bằng các bộ kẹp chuyên dùng, những bộ kẹp này có thể được sử dụng khi cần thiết để dịch chuyển máy sửa chữa từ vị trí này đến vị trí khác. Việc tháo các cụm và các bộ phận máy thành chi tiết được tiến hành trên các bệ di động hoặc trên các bàn lắp ráp cố định hoặc trên các băng chuyền có kết cấu phù hợp. Trong các nhà máy sửa chữa chuyên môn hóa có công suất lớn, người ta áp dụng phương pháp tháo máy theo dây chuyền. Trong trường hợp này buộc phải sử dụng băng chuyền kéo 53 http://www.ebook.edu.vn
  4. hoặc băng chuyền xích treo. • Băng chuyền kéo bao gồm 2 nhánh xích kéo (nhánh trên và nhánh dưới), xích này sẽ tựa và trượt trong các thanh dẫn hướng, và nó không chịu tải trọng do trọng lượng của máy (hình 2.2). • Băng chuyền xích treo được sử dụng để tháo (lắp) các cụm và các cơ cấu máy. Các cụm máy được đặt trong những chiếc giá chuyên dùng treo trực tiếp vào dải xích. Dải xích này đồng thời cũng giữ vai trò của cơ cấu kéo tải. • Khung - cầu trượt là một kết cấu thép được hàn cấu thành từ thép chữ I, thép góc và thép ống (Hình 2.3). Động cơ tháo được đặt trên bàn trượt số 2 và trong quá trình tháo người ta đẩy nó dịch chuyển từ vị trí nọ đến vị trí kia. Kết cấu của bàn trượt bảo đảm có thể quay động cơ trong mặt phẳng của trục khuỷu 3600 và đặt nó ở trạng thái thuận lợi nhất cho thao tác của người công nhân. Hình 2.2. Băng chuyền kéo kiểu xích 1- Xích kéo; 2- Cơ cấu quay; 3- Bộ ngắt điện; 4- Kết cấu thép; 5- Thanh dẫn hướng xích kéo; 6- Cơ cấu căng xích; 7- Dầm dẫn hướng cho máy đi vào; 8- Thiết bị động lực. Trong quá trình tháo máy, các nguyên công tháo được phân chia thành 2 loại công việc: công việc cơ bản và công việc phụ. Những nguyên công thuộc công việc cơ bản bao gồm những thao tác làm thay đổi trạng thái kết cấu của máy hoặc của cụm máy (tháo bu lông, đai ốc, tháo nắp hoặc thân cụm máy, vòng bạc, ổ bi v.v…). 54 http://www.ebook.edu.vn
  5. Hình 2.3. Khung- cầu trượt để tháo (lắp) động cơ 1- Dầm thép chữ I; 2- Giá trượt để liên kết động cơ; 3- Thanh thép góc dẫn hướng cho giá trượt. Những nguyên công thuộc công việc phụ bao gồm các thao tác dịch chuyển (dịch chuyển ngang, dịch chuyển thẳng) gá đặt và liên kết cụm máy cần tháo lên băng chuyền, lên khung - cầu trượt v.v… Thời gian chi phí cho việc thực hiện các nguyên công tháo (lắp) phụ thuộc vào mức độ cơ giới hóa và tự động hóa. Vì vậy khi tháo (lắp) máy người ta thường dùng cơlê điện, cơlê khí nén, vam cơ khí, vam thủy lực. Hình 2.4 và 2.5 biểu thị sơ đồ cấu tạo của cơlê điện và cơle khí nén. Hình 2.4. Sơ đồ cờ lê điện 1- Chuỗi cờ lê; 2- Lò xo; 3- Ly hợp ma sát; 4- Ly hợp vấu; 5- Hộp giảm tốc; 6- Động cơ điện. Nguyên lý hoạt động của cờlê điện như sau: Mômen xoắn từ động cơ điện (6) được truyền tới chuôi (1) thông qua bộ giảm tốc (5) và qua ly hợp vấu (4) ly hợp ma sát (3). Nếu đai ốc hoặc bu lông được xiết đến tận cùng thì chuôi số (1) sẽ tự động bị ngừng quay nhờ ly hợp (3) có các răng vát trượt lên nhau. Cờlê điện có hiệu suất cao (50-60%), chi phí khai thác trong quá trình sử dụng thấp. 55 http://www.ebook.edu.vn
  6. Hình 2.5. Sơ đồ cờlê khí nén kiểu đảo chiều P-3130 1- Đầu cờlê; 2- Ổ xoay bằng bi; 3- Chuôi cờlê; 4- Thân; 5- Cơ cấu dập; 6- Then hoa; 7- Trục rô to; 8- Vỏ; 9- Động cơ; 10- Chốt; 11- Vòng phân khối khí nén; 12- Đầu nối; 13- Cơ cấu khởi động; 14- Vít; 15- Lẫy khởi động. Động cơ khí nén kiểu đảo chiều số (9) được lắp trong vỏ số (8). Sự đảo chiều của động cơ sẽ xảy ra khi xoay vòng phân phối khí nén số (11) bằng chốt (10). Tại tay nắm có cơ cấu khởi động số (13). Vít (14) có vai trò hạn chế bớt lượng khí nén xả vào trong động cơ, nhờ vít này người ta có thể điều chỉnh mô men xoắn sinh ra trên chuôi cờlê. ở đầu trục (7) của rô to động cơ có then hoa, có thể nối trục rôto với chuôi cờlê nhờ khớp nối then hoa (6) của cơ cấu dập số (5). Trong quá trình làm việc, cơ cấu dập kiểu một vấu sẽ tạo nên các quả đập vào chuôi số (3) của cờlê. Cờlê khí nén có hiệu suất thấp (7-10%), làm việc ồn và trọng lượng lớn. Để cơ giới hoá công việc tháo các mối ghép tĩnh và để tránh hỏng hóc cho các chi tiết máy xảy ra khi tháo, người ta sử dụng các loại vam khác nhau như vam vít, vam thuỷ lực hoặc khí nén. Trong sửa chữa thường dùng vam vít và vam thủy lực. Nguyên lý cấu tạo của vam vít được thể hiện bằng sơ đồ trên hình 2.6. 56 http://www.ebook.edu.vn
  7. Hình 2.6. Sơ đồ kết cấu các loại vam a và b- Để tháo trục cơ; c và d- Để tháo vòng bi cầu và bi đũa; e- Để tháo then hoa. Trên hình 2.7 biểu thị đồ gá cùng với vam thủy lực dùng để tháo bánh đà của trục cơ. Đồ gá được cấu thành từ bộ kẹp số (3) cùng với xi lanh thuỷ lực (1), hai thành phần này được nối với nhau bằng 6 bu lông và được treo bằng bu lông vòng số (2). Hình 2.7. Vam thuỷ lực để tháo bánh đà của trục cơ 1- Xylanh thuỷ lực; 2- Bulông vòng; 3- Bộ kẹp. Vam thuỷ lực làm việc với áp lực 5 MN/m2, thời gian thao tác khoảng 10 ÷ 12 giây. Ngoài các loại vam kể trên, trong các nhà máy sửa chữa còn sử dụng các loại máy ép với lực tác dụng lớn để tháo hoặc lắp các chi tiết với nhau. 2.2.3. Các nguyên tắc cần tuân thủ khi tháo máy 1- Thợ tháo máy cần phải biết rõ cấu tạo của máy, biết sử dụng hợp lý các thiết bị, đồ gá và các loại vam, biết trình tự thực hiện các nguyên công tháo, nắm chắc phương pháp tháo các ổ bi cầu, bi đũa, trục, bạc lót, chốt v.v… 2- Đối với các máy phức tạp, trước hết cần phải tháo ra từng cụm, từng bộ phận, sau đó 57 http://www.ebook.edu.vn
  8. tháo cụm thành chi tiết. Trình tự này sẽ làm tăng tuyến của công việc tháo, tạo nên các vị trí làm việc chuyên môn hóa cho việc tháo các cụm máy riêng biệt, tổ chức thực hiện song song quá trình tháo, như vậy sẽ làm tăng năng suất lao động. 3- Việc tháo máy cần được thực hiện theo một trình tự nghiêm ngặt của qui trình công nghệ với chi phí thời gian ít nhất và tư thế thuận lợi nhất trong khi làm việc của người thợ. 4- Không cho phép sử dụng những dụng cụ tháo gây hỏng hóc hoặc khuyết tật cho chi tiết máy. 5- Những bộ phận đặc thù như các thiết bị điện, thiết bị thủy lực, thiết bị nhiên liệu của động cơ, động cơ khởi động, các đồng hồ đo và kiểm tra v.v… sau khi tháo ra khỏi máy cần được chuyển sang các phân xưởng chuyên môn hóa khác ở dạng đồng bộ (cả cụm) để sửa chữa. 6- Các chi tiết bắt chặt như bulông, đai ốc, chốt, vòng đệm, then v.v… nên thu thập theo từng nhóm kích thước và theo từng bộ đối với từng đối tượng sửa chữa. 7- Những chi tiết mà trong quá trình chế tạo phải gia công theo bộ (cùng nhau) hoặc làm việc trong quá trình khai thác mà vẫn sử dụng được cho chu kỳ tiếp theo thì khi tháo không yêu cầu phải tháo bộ, trước khi tháo nên đánh dấu để bảo đảm sự lắp ráp tương quan về sau. 8- Những cụm hoặc bộ phận nặng khi tháo từ máy ra phải dùng các thiết bị nâng, chú ý tuân thủ qui tắc an toàn kỹ thuật đối với các thiết bị đó. 2.3. CƠ SỞ CÔNG NGHỆ TẨY RỬA CHI TIẾT 2.3.1. Cơ sở lý - hóa về tẩy rửa chi tiết Tẩy rửa chi tiết là một công đoạn rất quan trọng trong qui trình sửa chữa máy. Chất lượng sửa chữa chi tiết phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của công đoạn này (đặc biệt là đối với công đoạn kiểm tra chi tiết). Ngoài ra mức độ sạch sẽ và mức độ văn hoá kỹ thuật của nhà máy sửa chữa cũng phụ thuộc không ít vào kết quả của công việc rửa và làm sạch chi tiết. *) Những chất bẩn bám trên chi tiết máy bao gồm các loại như sau: • Sản phẩm cháy của nhiên liệu và dầu (muội than) • Cặn dầu. • Cặn nước (ở hệ thống làm mát). • Bột mài và mạt sắt tạo thành do sự mài mòn của chi tiết. • Đất, cát và bụi bám vào chi tiết. Việc làm sạch các chất bẩn của dầu khỏi chi tiết là một quá trình lý - hóa phức tạp; bởi vì việc tách chúng ra khỏi bề mặt kim loại có liên quan tới một số tính chất bám dính phân tử. *) Các tính chất của hợp chất tẩy rửa: Thông thường, để tẩy rửa chi tiết máy người ta sử dụng hợp chất tẩy chuyên dùng nhiều thành phần, hợp chất này được đun nóng đến nhiệt độ cần thiết (80 ÷ 900C). Trong thành phần của dung dịch tẩy rửa gồm có kiềm và các chất có hoạt tính bề mặt lớn hoặc những chế phẩm chuyên dùng 58 http://www.ebook.edu.vn
  9. của các chất có hoạt tính bề mặt. Công việc làm sạch và rửa chi tiết chung qui lại là phải đẩy được màng dầu cùng với các chất bẩn bám trên đó ra khỏi bề mặt chi tiết. Để đạt được điều đó cần phải có một dung dịch tẩy rửa có hoạt tính bề mặt lớn để phá và làm rách được màng dầu, đẩy các phần tử dầu cùng với các chất bẩn ra khỏi bề mặt chi tiết đồng thời cản lại không cho chất bẩn bám trở lại chi tiết. Dung dịch tẩy rửa phải chứa những chất có khả năng bao bọc các phần tử riêng biệt của dầu và của chất bẩn để loại trừ việc chúng lại kết hợp với nhau. Chúng ta biết rõ rằng, theo tính chất hóa học dầu bôi trơn được chia thành 2 loại: Loại rửa được và loại không rửa được. Dầu thực vật và mỡ động vật là loại rửa được, khi gặp chất kiềm chúng tạo thành một hợp chất khác và tan trong nước. Còn dầu khoáng là loại không rửa được. Dưới tác dụng của kiềm, chúng không bị phân huỷ và không tan trong nước mà lại tạo thành một dung dịch khác gọi là nhũ tương. Dung dịch kiềm làm giảm đáng kể sức căng bề mặt của màng dầu, nhưng nó không phá và đẩy hết hoàn toàn lớp dầu đó ra khỏi bề mặt chi tiết. Cho nên để tăng thêm khả năng tẩy sạch dầu, người ta cho thêm chất tạo nhũ tương vào trong dung dịch tẩy rửa, chất này có tác dụng bọc màng dầu trên bề mặt kim loại và làm giảm lực bám của màng dầu đó với kim loại, đồng thời có khả năng tách nó ra khỏi bề mặt kim loại ở dạng giọt cực nhỏ riêng biệt. Các giọt này được bao bọc bởi chất tạo nhũ tương cho thêm ở trên cho nên chúng không liên kết được với nhau mà cũng không bám trở lại bề mặt chi tiết. Phụ thuộc vào tỷ lệ trọng lượng riêng của các giọt riêng biệt nói trên (trong lòng các giọt này bao gồm có dầu và các phần tử rắn chất bẩn) so với trọng lượng riêng của dung dịch tẩy rửa, các giọt này có thể nổi trên bề mặt dung dịch, cũng có thể ở trạng thái lưng chừng, còn những giọt nặng thì lắng xuống đáy bể rửa. Trong thực tế, vai trò của chất tạo nhũ tương được cho thêm vào trong dung dịch tẩy rửa là thủy tinh lỏng, hoặc chất tẩy OP-7, OP-10, DC-RAC v.v… 2.3.2. Các phương pháp tẩy rửa chi tiết Trong lĩnh vực sửa chữa máy, người ta áp dụng các phương pháp tẩy rửa sau đây: • Rửa nhúng trong bể rửa cố định. • Rửa bằng dòng phun dung dịch. • Rửa bằng rung động. • Rửa bằng khí nén. • Rửa bằng siêu âm. • Rửa bằng phương pháp Nhiệt - Hóa. • Rửa bằng phụ thuộc Điện - Hóa. 1. Phương pháp rửa nhúng Phương pháp rửa nhúng được tiến hành trong bể rửa cố định bằng dung dịch kiềm 59 http://www.ebook.edu.vn Hình 2.8. Bể rửa nhúng chi tiết trong dung dịch kiềm đun nóng 1- Bể; 2- Tấm lưới; 3- Thiết bị để đun nóng dung dịch; 4- Phễu hút hơi dung dịch.
  10. hoặc bằng các chế phẩm tẩy rửa tổng hợp (AM-15, ML-52) ở nhiệt độ 80 ÷ 900C. Để tránh hao phí dung dịch tẩy rửa, trong kết cấu của thùng rửa người ta đặt một tấm lưới số (2) (Hình 2.8), lưới này sẽ giữ các chi tiết rửa trên một khoảng cách xác định kể từ đáy, khoảng cách này đủ để chứa các chất cặn bẩn tẩy ra từ chi tiết. Người ta vớt cặn bẩn ra khỏi bể theo chu kỳ để làm sạch dung dịch. Ưu điểm của phương pháp này là kết cấu đơn giản và có thể sử dụng những chất tẩy rửa tác dụng nhanh. 2. Phương pháp rửa bằng dòng phun dung dịch Phương pháp rửa bằng dòng phun dung dịch có hiệu quả rửa tương đối cao và được sử dụng rộng rãi trong các nhà máy sửa chữa. Trong trường hợp này ngoài sự tác dụng lý-hóa của chất tẩy rửa đối với các cặn bẩn thì còn có sự tác dụng động của dòng dung dịch được phun với áp suất mạnh từ các vòi phun lên các cặn bẩn đó. Để áp dụng phương pháp này, người ta sử dụng buồng rửa có một, hai hoặc ba khoang. Tất cả các khoang này đều được trang bị hệ thống vòi phun. Thông qua các vòi phun này, dòng dung dịch với áp suất lớn được phun từ mọi phía lên chi tiết rửa (Hình 2.9). Các buồng rửa kiểu này đều có bể để lọc và đun nóng dung dịch rửa. Việc làm sạch dung dịch khỏi các cặn bẩn được thực hiện nhờ các màng lọc và do sự lắng đọng của chúng xuống đáy bể. Theo chu kỳ, khi thay dung dịch người ta làm sạch đáy bể và thay màng lọc. Hình 2.10 biểu thị sơ đồ của một buồng rửa 3 khoang, trong đó khoang cuối cùng cũng có hệ thống vòi phun để phun rửa chi tiết bằng nước sạch. Hệ thống băng chuyền trang bị trong các buồng rửa có thể là băng đai, băng con lăn hoặc băng chuyền treo. Trong một số trường hợp băng chuyền được bố trí đi vòng để có thể cho chi tiết rửa lại một lần nữa. Trong các buồng rửa có băng chuyền, quá trình rửa được tiến hành liên tục, do vậy năng suất Hình 2.9. Sơ đồ buồng rửa kiểu phun có băng và chất lượng tẩy rửa đều được nâng chuyền treo để dịch chuyển chi tiết cao. 1- Khung; 2- Lớp cách nhiệt; 3- Lớp bọc kim loại; 4- Ống dẫn dung dịch có vòi phun; 5- Giá treo chi tiết thuộc băng chuyền treo. 60 http://www.ebook.edu.vn
  11. Hình 2.10. Buồng rửa 3 khoang có băng chuyền 1- Hệ thống bơm dung dịch rửa; 2- Hệ thống bơm cung cấp; 3- Các đường ống; 4- Bể chứa; 5- Các vòi phun; 6- Băng chuyền. Trong các nhà máy sửa chữa của nước Nga, người ta trang bị các loại buồng rửa sau đây: Loại 1 khoang OM-887; OM-837 G; loại 2 khoang có băng chuyền OM-4267 và OM-2839 (xem bảng 2.2). Đặc tính kỹ thuật của các buồng rửa Bảng 2.2 Các thông số OM-887 OM-837G OM-4267 7 ÷ 10 14 ÷ 50 Năng suất 1 ca, Tấn 7 0,21 ÷ 0,83 Tốc dộ di chuyển của băng chuyền, m/ph 0,50 0,65 Kích thước tổng thể, m - Dài 4150 2800 9550 - Rộng 1130 4000 3700 - Cao 1650 2900 2785 Trọng lượng buồng rửa, kG 1670 1720 11400 10 ÷ 20 10 ÷ 15 5 ÷ 10 Thời gian rửa chi tiết, phút 3. Phương pháp rửa bằng rung động Phương pháp này phải được tiến hành trong một buồng kín, bởi vì khi áp dụng phương pháp này người ta phải sử dụng loại dung môi vô cơ tương đối độc hại. Trong phương pháp rửa này, sự tác dụng cơ học lên bề mặt cần rửa của chi tiết được khuyếch đại do quá trình dao động của chúng. Điều này làm xuất hiện một dòng chất lỏng xáo động giữa các chi tiết làm tăng chất lượng và năng suất rửa. 4. Phương pháp rửa bằng khí nén Phương pháp này được áp dụng để tẩy cặn dầu, gỉ hoặc lớp sơn cũ trên bề mặt chi tiết. 61 http://www.ebook.edu.vn
  12. Trong phương pháp này, dưới tác dụng của khí nén với áp suất 0,5 ÷ 0,6 MN/m2 bề mặt chi tiết máy được "gia công" bằng một loại bột kim loại hoặc bằng cát. Hay nói cách khác là người ta dùng khí nén để phum một luồng cát hoặc bột kim loại lên bề mặt chi tiết để làm sạch các chất bẩn trên đó. 5. Phương pháp rửa bằng siêu âm Bản chất của phương pháp này được giải thích như sau: Trong một dung dịch rửa, nhờ tác dụng của các động cơ siêu âm và các bộ biến đổi từ tính kiểu PMC-7 sẽ xuất hiện một dao động siêu âm với tần số lớn (30 nghìn dao động trong 1 giây). Dưới sự tác dụng của dao động đó, trong dung dịch rửa sẽ tạo nên những vùng nén và ép lan truyền theo phương của sóng siêu âm. Với cường độ dao động siêu âm lớn sẽ xuất hiện hiện tượng khí xâm thực, hiện tượng này gây nên sự va đập thủy lực cực mạnh tạo ta một áp lực cục bộ trên 100 MN/m2. Lúc này lớp chất bẩn trên bề mặt chi tiết sẽ bị phá vỡ, biến thành chất nhũ tương và bị tách ra khỏi bề mặt chi tiết đó. Phương pháp rửa này được thực hiện ở nhiệt độ bình thường trong dung dịch có thành phần như sau: Triratrifotfat - 3g/l, chế phẩm vô cơ OP-7-3g/l. 6. Rửa bằng phương pháp nhiệt - hóa Người ta áp dụng phương pháp này để tẩy sạch các cặn dầu, cặn nước trong dung dịch muối và kiềm. GOXNITI đã đề xuất một dung dịch muối như sau: NaOH - 60 ÷ 65%, NaNO3 - 30 ÷ 35%, NaCl - 50%. Nhiệt độ dung dịch 410 ÷ 4200C. Quá trình tẩy diễn ra trong khoảng 5 ÷ 15 phút. Sau khi tẩy chi tiết trong dung dịch này, cần phải rửa chi tiết trong nước và sau đó lại phải rửa trong dung dịch axít để làm trung hoà các phần tử kiềm còn sót lại trên bề mặt chi tiết. Các chi tiết chế tạo từ hợp kim nhôm nên rửa trong dung dịch axit fotforic (H3PO4), sau đó rửa lại trong nước nóng. 7. Phương pháp rửa bằng điện hóa Phương pháp này được tiến hành trong dung dịch kiềm (trong bể mạ) ở nhiệt độ 800C với mật độ dòng điện 10 ÷ 15 A/dm2. Trong trường hợp này, ngoài sự tác dụng điện - hóa còn có sự tác dụng cơ học của các bọt khí hyđrô được tách ra trên bề mặt phân cách giữa lớp chất bẩn và bề mặt chi tiết. Những bọt khí này tạo ra một áp lực lớn trên lớp chất bẩn có tác dụng phá vỡ và đẩy chúng tách ra khỏi bề mặt chi tiết. 2.3.3. Sự ảnh hưởng của các điều kiện tẩy rửa tới chất lượng và năng suất tẩy rửa chi tiết máy Năng suất và chất lượng tẩy rửa chi tiết máy phụ thuộc vào các yếu tố sau đây: • Thành phần và nồng độ của dung dịch • Nhiệt độ và áp suất của dung dịch 62 http://www.ebook.edu.vn
  13. • Góc nghiêng của các tia dung dịch phun so với bề mặt chi tiết. • Khoảng cách từ các vòi phun tới chi tiết • Thời gian kéo dài quá trình rửa. Điều quan trọng nhất là tùy theo các chi tiết và chất bẩn khác nhau mà người ta sẽ áp dụng những phương pháp rửa và dung dịch rửa khác nhau cho phù hợp, nhằm mục đích tăng chất lượng rửa sạch chi tiết và năng suất cao. Bảng 2.3 sau đây cho ta thành phần của các dung dịch rửa khác nhau dùng cho các chi tiết khác nhau. Thành phần của các dung dịch rửa khác nhau dùng cho các chi tiết khác nhau Bảng 2.3 Thành phần dung dịch dùng cho Nồng độ Kim loại tẩy rửa bằng phương pháp phun (g/l) của chi tiết rửa 3 ÷ 10 Trinatrifotfat Thép gang, đồng, nhôm, đồng thau 10 ÷ 20 Metasilicat Natri 1÷3 Sunfanol NP-1 1÷2 Natri Hydroxit (NaOH) Thép gang 7÷9 Natri Cabonat (Na2CO3) 18 ÷ 20 Trinatrifotfat 1÷3 Metasilicat Natri 2÷4 Trinatrifotfat nt 4÷6 Metasilicat Natri 3÷5 Natri Cabonat (Na2CO3) 1÷3 DC-RAC Trinatrifotfat 50 Thép, gang, nhôm Natri Cabonat (Na2CO3) 50 Chế phẩm OP-7 30 25 ÷ 30 Trinatrifotfat Nhôm và các hợp kim nhôm 25 ÷ 30 Natri Cabonat (Na2CO3) 10 ÷ 15 Chất xúc tác Petrov 5 ÷ 10 Trinatrifotfat Đồng, nhôm Metasilicat Natri 10 2.4. CƠ SỞ CÔNG NGHỆ KIỂM TRA VÀ PHÂN LOẠI CHI TIẾT 2.4.1. Giới thiệu chung Sau khi rửa chi tiết, người ta tiến hành kiểm tra và phân loại để xác định trạng thái kỹ thuật của chúng, tức là phải làm rõ khả năng của chi tiết có còn sử dụng được nữa hay không, hay là phải sửa chữa hoặc phải thay thế. Cơ sở để kiểm tra và phân loại chi tiết là phải dựa vào điều 63 http://www.ebook.edu.vn
  14. kiện kỹ thuật được qui định sẵn trong các hồ sơ tài liệu cho từng loại chi tiết [5], đồng thời dựa vào tính năng và điều kiện làm việc của từng chi tiết. Các thông số kỹ thuật của chi tiết phải được lập thành phiếu công nghệ, trong đó cần chỉ rõ: tên máy, tên cụm hoặc bộ phận, tên chi tiết, số lượng chi tiết trong một máy, vật liệu, phương pháp nhiệt luyện, độ cứng v.v… Với các mục tương ứng trong phiếu công nghệ, cần liệt kê tên gọi của các khuyết tật có thể gặp trên chi tiết kiểm tra, quyết định phương pháp xác định các khuyết tật đó, dụng cụ đo - kiểm tra, kích thước danh nghĩa của chi tiết, các sai lệch cho phép và giới hạn, và cuối cùng là kết luận theo kết quả kiểm tra. Trong quá trình kiểm tra, tất cả các chi tiết máy được phân thành 3 loại và được đánh dấu như sau: a- Chi tiết còn dùng được - màu xanh lá cây. b- Chi tiết cần phải sửa chữa - màu trắng. c- Chi tiết phải loại bỏ - màu đỏ. Các chi tiết còn dùng được, được vận chuyển vào phân xưởng ghép cụm. Các chi tiết cần sửa chữa được đưa về các phân xưởng sửa chữa để phục hồi theo qui định và định mức của qui trình công nghệ do kỹ thuật viên công nghệ ấn định. Các chi tiết loại bỏ được vận chuyển ra bãi phế liệu. Những chi tiết thuộc các cụm - máy đặc chủng mà sau khi tháo ra khỏi máy phải đưa luôn về các phân xưởng chuyên môn hóa để sửa chữa thì được kiểm tra trực tiếp tại phân xưởng đó. Những chi tiết lớn như khung, thân, vỏ các bộ truyền thì được kiểm tra ngay tại vị trí sửa chữa. Trong khi kiểm tra và phát hiện các khuyết tật, cấm loại bỏ những chi tiết có độ mòn chưa vượt quá trị số cho phép. Trị số độ mòn cho phép đối với các chi tiết riêng biệt có thể sẽ tăng lên nếu người ta áp dụng điều kiện lắp ráp bằng phương pháp chọn lựa theo từng nhóm kích thước. Điều này sẽ làm tăng số lượng chi tiết được sử dụng lại mà không cần sửa chữa. Do vậy đối với mỗi nhà máy, điều kiện cơ bản để tổ chức tốt công tác kiểm tra và phân loại chi tiết là phải nghiên cứu tỷ mỷ các điều kiện kỹ thuật của việc phát hiện khuyết tật chi tiết và làm rõ khả năng sử dụng lại của các chi tiết đó, tránh tình trạng sử dụng nhầm những chi tiết không đủ điều kiện. 2.4.2. Kiểm tra các chi tiết máy Công đoạn này được thực hiện theo một trình tự xác định. Trước hết người ta kiểm tra độ mòn và những khuyết tật, mà theo đó chi tiết thường bị loại bỏ, ví dụ như kích thước giới hạn của cổ trục cơ, các vết nứt, vết tróc ở trên đó v.v… Nếu chi tiết có độ mòn và những khuyết tật tương ứng với điều kiện phải loại bỏ thì những khuyết tật khác của chi tiết không cần phải kiểm tra nữa. Độ mòn và những khuyết tật loại bỏ thường được xác định bằng các phương pháp sau đây: * Xem xét bên ngoài, gõ và nghe: Bằng phương pháp này ta có thể phát hiện các vết nứt, vết gãy, vết thủng các chi tiết. * Đo lường bằng các dụng cụ đo vạn năng hoặc chuyên dùng như calíp, dưỡng mẫu, đồng 64 http://www.ebook.edu.vn
  15. hồ so v.v… Trong phương pháp này người ta xác định độ ô van, độ côn, các kích thước cho phép v.v… * Các thiết bị chuyên dùng (quang, từ, siêu âm). Bằng phương pháp này người ta phát hiện được các vết nứt nhỏ trong chi tiết máy. * Thử nghiệm bằng thuỷ lực trên các bệ thử chuyên dùng. Phương pháp này được áp dụng để kiểm tra độ kín khít của blốc xilanh, ống nạp và ống xả của động cơ, két nước, bình đựng nhiên liệu v.v… Các thiết bị và phương pháp đo kiểm tra chi tiết được lựa chọn dựa vào độ chính xác đo và các đặc điểm kết cấu của chi tiết. Mặt khác, mức độ chính xác đo lường cũng còn phụ thuộc vào trình độ của người kiểm tra. Việc lựa chọn các thiết bị đo dựa theo độ chính xác của chi tiết đo có một ý nghĩa thực tế rất quan trọng. Nếu khi chọn thiết bị đo mà không quan tâm tới yếu tố đó thì sẽ dẫn tới những kết quả ngoài ý muốn. Do vậy, tại các nhà máy sửa chữa người ta dựa vào toán đồ để chọn thiết bị đo (Hình 2.11). Hình 2.11. Toán đồ để lựa chọn dụng cụ đo a) Đo trục; b) Đo lỗ; c) Đo độ sâu. 65 http://www.ebook.edu.vn
  16. 2.4.3. Kiểm tra các khuyết tật kín của chi tiết Hiện nay việc kiểm tra các khuyết tật nhỏ và kín ở trong lòng chi tiết được tiến hành bằng các phương pháp sau: * Phương pháp thuỷ lực. * Phương pháp khí nén. * Phương pháp vật lý. Trong phương pháp vật lý bao gồm: • Dùng từ tính. • Dùng tính chất phát quang. • Dùng siêu âm. Sau đây ta lần lượt điểm qua từng phương pháp một. 1. Phương pháp thủy lực Phương pháp thuỷ lực được áp dụng để phát hiện các vết nứt trong các chi tiết thân máy (nắp và thân động cơ đốt trong, ống nạp và ống xả v.v…). Công việc được tiến hành trên bệ thử chuyên dùng. Khi gá động cơ lên bệ thử, các lỗ bên ngoài đều được đậy kín bởi các tấm nắp, người ta bơm nước vào các khoang trống trong lòng chi tiết với áp suất khoảng 0,5 MN/m2 và giữ trạng thái đó trong 5 phút. Nếu đồng hồ áp lực chỉ rằng trị số áp suất không thay đổi thì có nghĩa là chi tiết không bị nứt hoặc rò rỉ. 2. Phương pháp khí nén Phương pháp khí nén được áp dụng để phát hiện các khuyết tật trong két nước, trong thùng nhiên liệu, trong xăm lốp của xe v.v… Khi dùng phương pháp này người ta bơm không khí vào trong chi tiết với áp suất 0,05 ÷ 0,1 MN/m2 và thả chi tiết vào nước (nếu chi tiết có kích thước lớn thì bôi dung dịch xà phòng lên bề mặt ngoài), nếu có bọt khí nổi lên, thì chứng tỏ chi tiết bị thủng hoặc nứt. 3. Phương pháp dùng từ tính Phương pháp dùng từ tính được dựa trên cơ sở của sự xuất hiện từ trường tán xạ (tức là đường sức thay đổi) khi từ thông đi qua khuyết tật của chi tiết. Hình 2.12 biểu thị sự thay đổi đường sức của từ trường đối với các khuyết tật khác nhau. Để làm rõ sự tán xạ của đường sức từ trường, người ta dùng bột kim loại (bột Hình 2.12. Sơ đồ thay đổi đường sức từ trường phoi mài của các chi tiết bằng thép). Lấy đối với các khuyết tật khác nhau 40% thể tích dầu biến thế trộn với 60% dầu hỏa và bột kim loại với hàm lượng 50g trên 1 lít dung dịch trên. Việc bôi hỗn hợp bột từ lên bề mặt chi tiết có thể được tiến hành khi có từ trường (kiểm tra trong từ trường đích thực) 66 http://www.ebook.edu.vn
  17. hoặc sau khi đã chấm dứt sự tác dụng của từ trường (kiểm tra trong từ dư). Cách kiểm tra thứ nhất sẽ có độ nhạy cao và cần thiết phải áp dụng khi chưa biết rõ đặc điểm từ tính của vật liệu chi tiết. Còn cách thứ hai được dùng để phát hiện vết nứt trong các chi tiết bé được chế tạo từ thép cácbon cao hoặc thép hợp kim. So với cách thứ nhất thì cách này có năng suất cao và thuận tiện hơn, có thể không cần phải bôi bột từ lên từng chi tiết mà có thể nhúng chúng vào trong bể chứa hỗn hợp pha trộn như đã nói ở trên trong vòng vài ba giây. Để phát hiện vết nứt theo từng chiều khác nhau trong lòng chi tiết (chiều ngang, chiều dọc hoặc theo một góc nào đó) người ta dùng các thiết bị từ hóa khác nhau (Hình 2.13). Trong đó, đối với vết nứt ngang thì dùng thiết bị từ hoá dọc, còn đối với vết nứt dọc và vết nứt theo một góc bất kỳ thì dùng thiết bị từ hoá đối lưu (tuần hoàn). Cũng có thể có các thiết bị từ hóa tổng hợp, tức là vừa dọc vừa đối lưu. Hình 2.13. Sơ đồ các thiết bị từ hóa chi tiết a, b) Từ hóa dọc; c, d) Từ hoá đối lưu; e, g) Từ hóa tổng hợp; 1- Chi tiết; 2- Nam châm điện. Trong quá trình từ hóa chi tiết, cường độ dòng điện cần có trị số tương đối lớn. Giá trị đó được xác định theo biểu thức sau: + Kiểm tra trong từ trường đích thực: 67 http://www.ebook.edu.vn
  18. I = (6 ÷ 8)D (2.1) + Kiểm ta trong từ dư: I = (17 ÷ 20)D (2.2) Trong đó: I- Cường độ tạo ra hiệu thế của từ trường, A; D- Đường kính của chi tiết cần kiểm tra,mm. Phương pháp kiểm tra vết nứt bằng từ hóa được trình bày trên đây, chủ yếu được dùng cho các chi tiết chế tạo từ kim loại đen (thép, gang). Còn đối với những chi tiết thuộc kim loại màu, nên dùng phương pháp khác. 4. Phương pháp kiểm tra vết nứt bằng quang học Phương pháp này dựa trên việc vận dụng một số chất có khả năng hấp thụ năng lượng tia sáng và chuyển nó về dạng bức xạ ánh sáng trong một khoảng thời gian nào đó khi chất đó được kích thích bằng tia cực tím (tia tử ngoại). Chất phát quang nói trên là chất có cấu trúc phân tử đặc biệt. Nhiều hợp chất hữu cơ có tính chất đó, trong đó có các sản phẩm của quá trình chưng cất dầu mỏ, những chất này sẽ phát quang dưới sự tác dụng của tia cực tím. Thành phần chất phát quang thường dùng như sau: * Dầu biến thế, dầu hỏa, xăng - theo tỷ lệ (về thể tích) 1: 2: 1 có pha thêm 0,25 gam chất xúc tác khuyếch đại cho 1 lít hỗn hợp để tăng thêm độ rõ khi kiểm tra. * Dầu hỏa - 75% (theo thể tích); dầu vadơlin - 15%; xăng - 10%, pha thêm 0,2 gam chất xúc tác khuyếch đại và nhũ tương OP-7. Sơ đồ của thiết bị kiểm tra bằng quang học được thể hiện trên hình (2.14). Trong sơ đồ trên đây, đèn thuỷ Hình 2.14. Sơ đồ nguyên lý cấu tạo ngân - thạch anh là nguồn phát xạ tia của thiết bị kiểm tra quang học cực tím. Để kiểm tra chi tiết, người ta 1- Cụm phản xạ; 2- Bộ lọc tia cực tím; 3- Đèn thủy ngân - thạch anh; 4- Biến thế cao áp; bôi một lớp chất phát quang lên bề mặt 5- Biến thế nguồn; 6- Chi tiết kiểm tra. chi tiết (những chi tiết nhỏ thì được nhúng vào bể có chứa chất đó) và nung nóng đến 800C. Sau 10 ÷ 15 phút, chất lỏng phát quang sẽ chảy đầy vào các vết nứt và các lỗ nhỏ trong lòng chi tiết. Sau đó người ta lau qua chi tiết, trên bề mặt chi tiết lúc này sẽ có một lớp mỏng chất phát quang. Một nguồn tia cực tím từ đèn số (3) được chiếu thẳng vào chi tiết, các khuyết tật của chi tiết được thể hiện bằng các vệt sáng hoặc các đốm sáng. Chiều sâu 68 http://www.ebook.edu.vn
  19. của các vết nứt hoặc các lỗ nhỏ trong chi tiết được xác định bằng bề rộng vùng phát quang, bề rộng này thường gấp 10 lần chiều sâu vết nứt. 5. Phương pháp siêu âm Phương pháp kiểm tra chi tiết bằng siêu âm được dựa trên khả năng của dao động siêu âm lan truyền trong kim loại với một khoảng cách lớn và bị phản xạ lại từ vùng khuyết tật của chi tiết do sự thay đổi đột ngột mật độ của môi trường (nói cách khác là mật độ của cấu trúc chi tiết), tức là thay đổi độ cản quang. Trong lĩnh vực sửa chữa, người ta vận dụng 2 phương pháp siêu âm để phát hiện khuyết tật: phương pháp bóng âm và phương pháp phản xạ. Do giới hạn của chương trình, trong giáo trình này chỉ giới thiệu 1 phương pháp - phương pháp bóng âm. Bản chất của phương pháp bóng âm được mô tả như sau: Khuyết tật được phát hiện do sự truyền dẫn xung lượng phóng xạ của dao động siêu âm vào chi tiết đặt giữa bộ phát (số 2) và bộ tiếp nhận Hình 2.15. Sơ đồ tác dụng của bộ kiểm tra chi tiết bằng phương pháp siêu âm (số 5) trên hình (2.15). Nếu trong lòng chi tiết (kiểu bóng âm) không có khuyết tật thì dao động ở dạng sóng siêu 1- Máy phát; 2- Bộ phát; 3- Chi tiết; âm sẽ được truyền qua chi tiết tới tấm bản áp điện 4- Sóng siêu âm; 5- Bộ tiếp nhận; (tức là bộ tiếp nhận số 5) và tiếp tục đến thiết bị đo 6- Khuyết tật; 7- Thiết bị báo. số 7. Còn trong trường hợp chi tiết có khuyết tật thì sóng siêu âm không được truyền qua chi tiết (tức là không được truyền tới bộ tiếp nhận số 5), hay nói cách khác là ở vùng khuyết tật của chi tiết tạo thành một bóng âm nên trên bộ tiếp nhận số 5 không xuất hiện các điện tích và do vậy ở thiết bị số 7 không báo chỉ số. 2.4.4. Xỏc định độ mũn của trục và của lỗ Trục sẽ bị loại bỏ nếu trên nó có vết nứt, vết tróc hoặc các cổ trục bị mòn quá trị số cho phép. Trong sửa chữa xe - máy, người ta chú ý nhiều đến trục cơ của động cơ đốt trong và xylanh. Các khuyết tật về nứt, hoặc tróc sẽ được phát hiện bằng các phương pháp vừa trình bày trên đây. Các kích thước giới hạn (độ ôvan, độ côn) của các cổ trục lắp biên được xác định theo hai phương vuông góc với nhau (một phương trong mặt phẳng của biên, một phương khác trong mặt phẳng vuông góc với biên). Còn kích thước giới hạn của các cổ đỡ trục, của rãnh then hoa 69 http://www.ebook.edu.vn Hình 2.16. Thiết bị đo lỗ bằng đồng hồ so a) Hiệu chỉnh đồng hồ so bằng panne; b) Đo kích thước xylanh; 1- Panme; 2- Đồng hồ so.
  20. v.v… thì được đánh giá bằng calíp kiểu quai vòng, bằng cữ hoặc dưỡng mẫu. Các bề mặt làm việc của xylanh thường bị mòn không đều vì vậy khi kiểm tra xylanh cần đo tại 3 vị trí theo chiều cao xylanh và theo 2 phương vuông góc với nhau. Phương pháp đo này giúp ta xác định được độ mòn tuyệt đối tại từng vị trí đồng thời xác định được độ côn, độ ôvan của xylanh. Đối với những chi tiết lỗ có độ cao nhỏ thì người ta đo kích thước lớn nhất và so sánh nó với kích thước cho phép. Các chi tiết lỗ được đo bằng đồng hồ so hoặc calíp trục. Điều đáng chú ý là trước lúc đo, phải căn và hiệu chỉnh lại đồng hồ so để xác định độ sai lệch theo trị số "0" của nó, từ đó giúp ta xác định được chính xác kích thước của chi tiết đo. Cách hiệu chỉnh thiết bị đo và cách đo xylanh được thể hiện trên hình (2.16). 2.4.5. Xác định độ cong, xoắn của chi tiết bằng các thiết bị khác nhau Hình 2.17. Bàn kiểm tra độ cong và nắn trục cơ, trục cam của động cơ đốt trong 1- Bàn trượt; 2- Thiết bị nắn; 3- Bánh xe (con lăn); 4- Giá đỡ; 5- Ổ bi; 6- Thanh ke; 7- Đồng hồ so; 8- Giá đỡ; 9- Ổ bi cầu; 10- Mặt bàn bằng thép tấm; 11- Chân bàn. Độ cong của trục (trục cơ, trục cam) cũng được kiểm tra bằng đồng hồ so khi cho trục quay hoặc trên giá chữ V. Hình 2.17 và 2.18a biểu thị các thiết bị kiểm tra độ cong của trục cơ, trục cam, độ cong và độ xoắn của thanh biên động cơ đốt trong. Các bộ phận cơ bản của chi thiết bị này là các giá đỡ chuẩn (Bàn trượt, chốt tựa, các giá chữ V) và đồng hồ so. Vai trò của các giá đỡ chuẩn là làm chỗ tựa chuẩn xác cho chi tiết kiểm tra, còn đồng hồ so là để biểu thị độ sai lệch (độ cong, xoắn) của chi tiết. 70 http://www.ebook.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2