Journal of Science – 2015, Vol. 8 (4), 105 – 113<br />
<br />
Part D: Natural Sciences, Technology and Environment<br />
<br />
TÁC ĐỘNG CỦA LŨ BẤT THƯỜNG ĐẾN CANH TÁC LÚA Ở XÃ VĨNH PHƯỚC,<br />
HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG<br />
Võ Duy Thanh1, Hồ Thị Ngân1<br />
ThS. Trường Đại học An Giang<br />
<br />
1<br />
<br />
Thông tin chung:<br />
Ngày nhận bài: 01/12/14<br />
Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br />
10/02/15<br />
Ngày chấp nhận đăng: 12/15<br />
Title:<br />
Impacts of abnormal floods on<br />
rice production in vinh phuoc<br />
commune, tri ton district, An<br />
Giang province.<br />
Từ khóa:<br />
Lũ bất thường, suy giảm phù sa,<br />
hiệu quả canh tác lúa, giải<br />
pháp thích ứng<br />
Keywords:<br />
Abnormal floods, decline in<br />
sediment, rice production<br />
efficiency, adaptive strategies<br />
<br />
ABSTRACT<br />
This research was carried out in Vinh Phuoc commune, Tri Ton district, An<br />
Giang province to evaluate the negative impacts of abnormal floods on the<br />
efficiency of rice production and to propose some recommendations to<br />
minimine their impacts in the future. This study combined qualitative method<br />
(Participating Rural Appraisal discussion and in-depth interviews) and<br />
quantitative analysis (interview 60 households to compare their production<br />
efficiency within 03 Winter-Spring rice crops corresponding to 03 different<br />
flooding levels).<br />
The result shows that abnormal floods changes seasonal crop calendars,<br />
increases pests and production expense due to losing alluvial. Rice<br />
productivity in the low flooding Winter-Spring crop are lower than that in the<br />
high flooding and medium flooding conditions. On the other hand, abnormal<br />
high floods might generate high risk on dyke system destruction and the severe<br />
damage on the Autumn-Winter rice crop. Despite various adaptations to<br />
mitigate the negative impacts of abnormal floods, most of them seem to be<br />
short-term cope purposes. In the long-term, local government should improve<br />
the infield irrigation systems to distribute sediment and wash off acid sulfate<br />
during flood seasons; to expend and multiply what farmers adapt well to<br />
abnormal floods within the community; to introduce and encourage farmers to<br />
use various biology solutions in the context of farmland losing sediment due to<br />
abnormal low flood.<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Nghiên cứu này được thực hiện tại xã Vĩnh Phước, huyện Tri Tôn, tỉnh An<br />
Giang nhằm đánh giá tác động của lũ bất thường đến hiệu quả canh tác lúa và<br />
đề xuất một số khuyến nghị nhằm giảm thiểu tác động của lũ bất thường trong<br />
tương lai. Phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa phân tích định tính (thảo luận<br />
nhóm PRA và phỏng vấn sâu người am hiểu) và định lượng (phỏng vấn 60 nông<br />
hộ, phân tích hiệu quả sản xuất của 03 vụ lúa Đông Xuân tương ứng với 03 mực<br />
nước lũ khác nhau).<br />
Kết quả cho thấy lũ bất thường gây xáo trộn lịch thời vụ, gia tăng dịch hại trên<br />
lúa, khi đất canh tác bị mất phù sa do lũ thấp dẫn đến chi phí sản xuất tăng.<br />
Năng suất lúa trong điều kiện lũ thấp hơn so với năng suất lúa trong điều kiện<br />
lũ cao và trung bình. Lũ lớn bất thường tạo ra nguy cơ vỡ đê cao và gây thiệt<br />
hại lúa Thu Đông. Hiện tại nông dân đã có một số giải pháp thích ứng, tuy<br />
nhiên hầu hết các giải pháp chỉ mang tính ứng phó và chưa thể hiện tính hiệu<br />
<br />
105<br />
<br />
Journal of Science – 2015, Vol. 8 (4), 105 – 113<br />
<br />
Part D: Natural Sciences, Technology and Environment<br />
<br />
quả một cách bền vững. Chiến lược dài hạn, địa phương cần đầu tư hoàn thiện<br />
hệ thống thủy lợi nội đồng nhằm cải thiện khả năng tháo rửa phèn và tiếp nhận<br />
phù sa trong mùa lũ; phổ biến và nhân rộng các giải pháp thích ứng tốt của<br />
nông dân trong cộng đồng; hướng dẫn và khuyến khích nông dân áp dụng các<br />
giải pháp sinh học trong điều kiện đất canh tác bị mất phù sa do lũ thấp.<br />
<br />
& Phạm Văn Lê, 2011). Bên cạnh đó, nhiều diện<br />
tích sản xuất lúa vụ 3 trong các tiểu vùng đê bao<br />
không chắc chắn của tỉnh An Giang cũng bị ảnh<br />
hưởng nghiêm trọng, nhiều địa phương đã phải<br />
huy động nguồn nhân lực và tài lực rất lớn để gia<br />
cố và bảo vệ các tuyến đê xung yếu trong suốt<br />
mùa lũ. Tổng chi phí cho hoạt động chống lũ năm<br />
2011 khó có thể tính hết bằng tiền.<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là khu vực<br />
sản xuất nông nghiệp trọng điểm, là vựa lúa và<br />
thủy sản lớn nhất nước. Tuy nhiên, sự phát triển<br />
bền vững nền nông nghiệp ở ĐBSCL phụ thuộc<br />
rất lớn vào nguồn nước và điều kiện ngập lũ của<br />
sông Mêkong. Do vị trí địa lí nằm ở đầu nguồn<br />
của ĐBSCL nên vào mùa mưa hàng năm tỉnh An<br />
Giang đón nhận nguồn nước lũ từ thượng nguồn<br />
sông Mêkong đổ về và hình thành mùa nước nổi<br />
với khoảng 70% diện tích đất tự nhiên bị ngập lũ<br />
từ 1,0 ÷ 3,5 m. Lưu lượng đỉnh lũ tại An Giang<br />
trước khi tràn vào ĐBSCL trung bình khoảng<br />
38.000 m3/s, có năm lên đến 70.000 m3/s. Tính<br />
trung bình mỗi năm mùa lũ mang từ 410 - 420 tỉ<br />
m3 nước cho ĐBSCL (Sở Nông nghiệp & PTNT<br />
An Giang, 2010).<br />
<br />
Từ đó nhận thấy rằng sự biến động bất thường<br />
của mực nước lũ đã và đang tác động rất lớn đến<br />
nông dân trồng lúa. Do là tỉnh đầu nguồn của<br />
ĐBSCL nên An Giang chính là nơi phải chịu<br />
thiệt hại nặng nề nhất. Điều này khiến cho tỉnh<br />
An Giang với hơn 60% dân cư sống dựa vào canh<br />
tác lúa, hàng năm sản xuất trên 4 triệu tấn lúa<br />
hàng hóa cho cả nước đang đứng trước một thách<br />
thức vô cùng to lớn về kinh tế, xã hội và môi<br />
trường, ảnh hưởng đến vấn đề an ninh lương thực<br />
quốc gia. Để ứng phó lâu dài với những thay đổi<br />
bất thường của mùa lũ, với những tác động tiêu<br />
cực đến hiệu quả canh tác lúa do lũ quá thấp hoặc<br />
sự gia tăng thiệt hại mùa màng do lũ quá cao,<br />
ngoài những nỗ lực về mặt công trình thuỷ lợi<br />
của ngành nông nghiệp, việc nghiên cứu những<br />
tác động cụ thể của lũ bất thường đến hoạt động<br />
canh tác lúa là hết sức cần thiết.<br />
<br />
Trong các năm liên tiếp từ năm 2009 đến 2012,<br />
mực nước lũ ở An Giang và ĐBSCL có những<br />
biến động trái ngược nhau, ngoài dự đoán của<br />
nông dân và các nhà chuyên môn. Năm 2010 đánh<br />
dấu mực nước lũ thấp nhất trong vòng nhiều năm<br />
qua. Hiện tượng lũ thấp không những làm suy<br />
giảm nguồn lợi thuỷ sản (Đặng Thị Thanh Quỳnh,<br />
2011) mà còn gây ra những xáo trộn trong hoạt<br />
động canh tác lúa của nông dân. Đất canh tác bị<br />
mất phù sa làm chi phí đầu vào gia tăng trong khi<br />
năng suất lúa giảm dẫn đến hiệu quả canh tác lúa<br />
thấp.<br />
<br />
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU<br />
Xác định những tác động bất lợi của lũ bất thường<br />
đến hoạt động canh tác lúa của nông dân trên địa<br />
bàn xã Vĩnh Phước, huyện Tri Tôn, tỉnh An<br />
Giang.<br />
<br />
Ngược lại, lũ cao bất thường năm 2011 đã khiến<br />
cho nông dân hoàn toàn không chủ động trong<br />
việc ứng phó. Điển hình là sự cố vỡ đê hàng loạt<br />
trên địa bàn các huyện Tri Tôn, Tịnh Biên, Châu<br />
Thành, Châu Phú, Thoại Sơn và Châu Đốc trong<br />
mùa lũ 2011. Chỉ trong 20 ngày vào thời điểm<br />
đỉnh lũ, trên 4.000 ha lúa Thu Đông (TĐ) của tỉnh<br />
An Giang đã bị thiệt hại hoàn toàn (Đỗ Vũ Hùng<br />
<br />
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa phân tích<br />
định tính và định lượng. Trong đó, phân tích<br />
định tính thông qua các cuộc thảo luận nhóm<br />
PRA - phương pháp đánh giá nông thôn có sự<br />
tham gia - với các công cụ cơ bản như: bản đồ tài<br />
106<br />
<br />
Journal of Science – 2015, Vol. 8 (4), 105 – 113<br />
<br />
Part D: Natural Sciences, Technology and Environment<br />
<br />
nguyên, lát cắt thời gian, lịch thời vụ, giản đồ<br />
Venn; phỏng vấn sâu cán bộ (5 cuộc); phỏng vấn<br />
sâu nông dân am hiểu (8 cuộc); và quan sát thực<br />
địa.<br />
<br />
1,0 m), lũ trung bình năm 2009 (tương ứng mực<br />
nước lũ từ 2,0 - 2,5 m), lũ cao bất thường năm<br />
2011 (tương ứng mực nước lũ trên 2,5 m).<br />
Phương pháp xử lý số liệu: Tổng hợp thành<br />
bảng, biểu đồ, đồ thị và hộp thông tin bằng<br />
Microsoft Word và Excel. Nghiên cứu này được<br />
thực hiện từ tháng 12/2011 đến 12/2012.<br />
<br />
Phân tích định lượng thông qua số liệu thứ cấp<br />
và số liệu khảo sát 60 nông hộ sản xuất lúa tại xã<br />
Vĩnh Phước, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang bằng<br />
bảng câu hỏi. Nghiên cứu này không phân nhóm<br />
các đối tượng hộ khác nhau để khảo sát do hầu<br />
hết nông hộ có điều kiện sản xuất tương đồng<br />
nhau như điều kiện đất đai, hệ thống thuỷ lơi,<br />
mức độ ngập lũ,… và phần lớn nông hộ có diện<br />
tích đất canh tác lúa trên 1.0 ha/hộ. Mẫu phỏng<br />
vấn được chọn phân bố đều trên tất cả các ấp của<br />
xã Vĩnh Phước, loại trừ các nông hộ sản xuất 3<br />
vụ lúa trong các khu vực đê bao.<br />
<br />
4. KẾT QUẢ THẢO LUẬN<br />
4.1 Lũ bất thường làm xáo trộn lịch thời vụ<br />
Theo chuỗi số liệu từ Sở Nông nghiệp & PTNT<br />
tỉnh An Giang (2011), trong khoảng thời gian từ<br />
năm 2000 đến năm 2011 tỉnh An Giang đã xuất<br />
hiện 4 trận lũ lớn. Sau trận lũ lịch sử năm 2000 thì<br />
liên tiếp sau 2 năm đó và năm 2011 xuất hiện lũ<br />
lớn với đỉnh lũ tương đương năm 2000 (mức đo<br />
trên 4,5 m tại trạm Tân Châu). Tuy nhiên, trong 4<br />
năm tiếp theo (2003 - 2009) xuất hiện lũ trung<br />
bình với đỉnh lũ dao động từ 4,0 – 4,5 m và năm<br />
2010 xuất hiện lũ thấp với đỉnh lũ tại trạm Tân<br />
Châu dưới 4,0 m (IUCN Việt Nam, 2010). Diễn<br />
biến bất thường của mực nước lũ trên địa bàn tỉnh<br />
An Giang được thể hiện qua Hình 1.<br />
<br />
Khảo sát thu thập số liệu sản xuất lúa trong 03<br />
vụ Đông Xuân (ĐX) liên tiếp tương ứng với 03<br />
mức lũ khác nhau (dựa trên phân loại lũ của<br />
nông dân) trên cùng các chỉ tiêu nghiên cứu.<br />
Nông dân địa phương phân loại lũ dựa vào mực<br />
nước trên đồng vào thời điểm đỉnh lũ: lũ thấp bất<br />
thường năm 2010 (tương ứng mực nước lũ dưới<br />
<br />
Hình 1. Đỉnh lũ vào tháng 09 tỉnh An Giang từ năm 2000 - 2011<br />
(Nguồn: Đỗ Vũ Hùng & Phạm Văn Lê, 2000 - 2011)<br />
<br />
107<br />
<br />
Journal of Science – 2015, Vol. 8 (4), 105 – 113<br />
<br />
Part D: Natural Sciences, Technology and Environment<br />
<br />
Thời vụ sản xuất vụ lúa ĐX bắt đầu ngay khi lũ<br />
rút, thông thường nông dân xuống giống vào đầu<br />
tháng 11 và thu hoạch vào giữa tháng 2 dương<br />
lịch. Sau khi thu hoạch lúa ĐX nông dân cày phơi<br />
đất khoảng nửa tháng rồi tiến hành xuống giống<br />
vụ Hè Thu (HT) và thu hoạch vào khoảng giữa<br />
tháng 6. Sau đó nông dân tiến hành cày ải phơi đất<br />
trống trước khi đón nước lũ lên đồng. Nước lũ<br />
ngập đồng từ 3 - 4 tháng là khoảng thời gian đất<br />
canh tác nghỉ ngơi và tiếp nhận phù sa. Trong thời<br />
gian này, nông dân nghỉ ngơi, chuẩn bị nông cụ<br />
cho vụ lúa tiếp theo.<br />
<br />
lũ thấp và thời gian ngập lũ ngắn ngày đã hạn chế<br />
khả năng phát triển bình thường của cây lúa mùa<br />
nổi, năng suất lúa thấp. Một số diện tích lúa mùa<br />
nổi mất trắng do lúa không trổ bông. Dịch chuột<br />
và sâu rầy gây thiệt hại nặng. Lớp rơm rạ từ cây<br />
lúa mùa nổi không đủ để nông dân trồng rau màu<br />
trên nền đất lúa ngay sau khi lũ rút (Phỏng vấn<br />
ông Tôn Long Ràng, Phó Chủ tịch Hội Nông dân<br />
Vĩnh Phước, ngày 11 tháng 09, 2012).<br />
4.2 Lũ thấp bất thường làm gia tăng chi phí<br />
các yếu tố đầu vào<br />
4.2.1 Gia tăng chi phí làm đất<br />
<br />
Lịch thời vụ năm lũ cao bất thường (năm 2011) có<br />
nhiều điểm tương đồng với năm lũ trung bình<br />
(năm 2009). Điểm khác biệt là mùa lũ năm 2011<br />
kéo dài hơn khoảng 10 ngày so với năm lũ trung<br />
bình và mực nước trên đồng sâu từ 3,0 - 3,5 m<br />
(cao hơn khoảng 1,0 m so với năm lũ trung bình).<br />
Lịch xuống giống vụ lúa ĐX 2011 - 2012 trễ hơn<br />
khoảng 1 tuần so với lịch thời vụ hàng năm. Tuy<br />
nhiên, lũ thấp bất thường năm 2010 đã làm dịch<br />
chuyển lịch thời vụ, gây một số ảnh hưởng bất lợi<br />
trong hoạt động canh tác lúa của nông dân. Cụ<br />
thể, nước lũ lên đồng trễ hơn khoảng 30 ngày so<br />
với năm 2009, thời gian ngập lũ chỉ kéo dài 45<br />
ngày, với mực nước lũ thấp (dao động từ 0,3 - 0,6<br />
m), một số nơi nước lũ không lên đồng. Nước lũ<br />
rút sớm nên nông dân tiến hành sạ lúa ĐX sớm<br />
hơn 01 tháng. Tuy nhiên, vào thời điểm xuống<br />
giống đang lúc mưa liên tục, nước lũ ngập ruộng<br />
trở lại đã gây thiệt hại trên 50% diện tích xuống<br />
giống vụ lúa ĐX tại xã Vĩnh Phước.<br />
<br />
Theo kết quả thảo luận nhóm, nông dân cho rằng<br />
chi phí vệ sinh đồng ruộng và chi phí cày xới<br />
trong vụ ĐX năm lũ thấp tăng gần gấp đôi so với<br />
vụ ĐX của những năm lũ lớn và trung bình. Đối<br />
với năm lũ lớn, đất canh tác phủ một lớp dày phù<br />
sa, đất mềm và xốp, rơm rạ đã bị phân hủy sau khi<br />
nước lũ rút. Khâu chuẩn bị đất đơn giản hơn, nông<br />
dân chỉ cần cày đất một lần để vùi rơm rạ, sau đó<br />
trục chạc thêm 1 lần nữa (nông dân gọi là 1 tác) là<br />
có thể tiến hành gieo sạ. Riêng đối với những khu<br />
vực đất lung trũng, phù sa nhiều thì nông dân<br />
không cần cày xới, chỉ cần làm phẳng mặt ruộng<br />
là có thể xuống giống. Tuy nhiên, đối với năm lũ<br />
thấp thì sau khi nông dân cày xới đất xong phải<br />
trục chạc thêm từ 2 đến 3 tác để diệt cỏ và vùi<br />
rơm rạ mới tiến hành gieo sạ. Kết quả phỏng vấn<br />
nông hộ cũng cho kết quả tương tự, số lần làm đất<br />
vụ lúa ĐX 2010 - 2011 (năm lũ thấp) so với vụ<br />
ĐX 2009 - 2010 (năm lũ trung bình) và ĐX 2011<br />
- 2012 (năm lũ lớn) tăng trung bình 2,5 lần, với<br />
chi phí làm đất tăng từ 797.000 đồng/ha lên<br />
1.249.000 đồng/ha, tăng khoảng 35%.<br />
<br />
Theo ông Tôn Long Ràng, lũ thấp bất thường<br />
cũng đã tác động tiêu cực đến mô hình canh tác<br />
lúa mùa nổi - rau màu tại địa phương. Mực nước<br />
<br />
108<br />
<br />
Journal of Science – 2015, Vol. 8 (4), 105 – 113<br />
<br />
Part D: Natural Sciences, Technology and Environment<br />
<br />
Hình 2. Ý kiến nông dân về tác động của lũ thấp đến canh tác lúa<br />
(Nguồn: Phỏng vấn nông hộ, 2012)<br />
<br />
lũ thấp) để nâng hiệu quả hạ phèn trong đất. Tổng<br />
lượng phân bón hoá học được sử dụng/ha tăng<br />
bình quân 50% trong điều kiện lũ thấp bất thường<br />
so với năm lũ bình thường.<br />
<br />
4.2.2 Gia tăng lượng phân bón hóa học<br />
Theo kết quả điều tra nông hộ, nông dân có xu<br />
hướng sử dụng phân hoá học trong vụ ĐX tương<br />
ứng với năm lũ thấp cao hơn so với năm lũ trung<br />
bình. Trong đó tăng nhiều nhất là lượng phân Lân<br />
và phân Urê. Cụ thể, trong vụ ĐX 2010 - 2011<br />
tổng lượng phân Urê được sử dụng trung bình là<br />
185 kg/ha, tăng 30 kg/ha so với vụ ĐX 2009 2010. Nông dân cũng gia tăng lượng phân Lân từ<br />
230 kg/ha (năm lũ trung bình) lên 460 kg/ha (năm<br />
<br />
Ngoài ra, vụ lúa HT cũng bị ảnh hưởng do đất<br />
canh tác thường xuyên bị thiếu nước, nông dân<br />
thường sử dụng nguồn nước bị nhiễm phèn từ các<br />
kênh rạch bơm tưới cho ruộng lúa nên lượng phân<br />
Lân được sử dụng để hạ lí phèn cũng tăng lên<br />
giống như vụ lúa ĐX.<br />
<br />
Bảng 1. So sánh lượng phân sử dụng tương ứng với từng mực nước lũ<br />
Loại phân<br />
<br />
ĐX 2009 - 2010<br />
(Lũ trung bình)<br />
<br />
ĐVT: kg/ha<br />
<br />
ĐX 2010 - 2011<br />
(Lũ thấp bất thường)<br />
<br />
ĐX 2011 - 2012<br />
(Lũ cao bất thường)<br />
<br />
Lân<br />
<br />
230<br />
<br />
460<br />
<br />
138<br />
<br />
Kali<br />
<br />
80<br />
<br />
89<br />
<br />
86<br />
<br />
Urê<br />
<br />
185<br />
<br />
215<br />
<br />
202<br />
<br />
NPK<br />
<br />
116<br />
<br />
142<br />
<br />
124<br />
<br />
DAP<br />
<br />
80<br />
<br />
102<br />
<br />
97<br />
<br />
500<br />
<br />
750<br />
<br />
647<br />
<br />
Tổng lượng phân<br />
<br />
(Nguồn: Phỏng vấn nông hộ, 2012)<br />
<br />
Kết quả thống kê cho thấy có sự gia tăng đáng kể<br />
lượng phân bón được sử dụng trong vụ lúa ĐX<br />
vào năm lũ thấp (đất bị mất phù sa) so với vụ ĐX<br />
trong 2 năm lũ cao và trung bình, phù hợp với kết<br />
<br />
quả nghiên cứu của Dương Văn Nhã (2006) ở các<br />
tiểu vùng đê bao triệt để 2 năm và 4 năm (điều<br />
kiện không ngập lũ) của huyện Chợ Mới, tỉnh An<br />
Giang.<br />
109<br />
<br />