intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tác động của qúa trình toàn cầu hóa kinh tế

Chia sẻ: Thân Văn Thương | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:20

880
lượt xem
133
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Toàn cầu hóa kinh tế ngày nay đã trở thành xu thế chung của thời đại mà các quốc gia, dân tộc không thể bỏ qua được. Vậy bản chất, những đặc điểm của toàn cầu hóa kinh tế là gì? Điều này được trình bày tóm lược trong bài viết, cùng với những phân tích sâu sắc về tác động của quá trình này tới nền kinh tế các nước, đặc biệt đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi nước ta ngày càng tham gia sâu rộng vào hội nhập kinh tế quốc tế, để từ đó có nhận thức đúng và những...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tác động của qúa trình toàn cầu hóa kinh tế

  1. Tác động của qúa trình toàn cầu hóa kinh tế Toàn cầu hóa kinh tế ngày nay đã trở thành xu thế chung của thời đại mà các qu ốc gia, dân tộc không thể bỏ qua được. Vậy bản chất, những đặc điểm của toàn cầu hóa kinh tế là gì? Điều này được trình bày tóm lược trong bài viết, cùng với những phân tích sâu sắc về tác động của quá trình này tới nền kinh tế các nước, đ ặc bi ệt đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi nước ta ngày càng tham gia sâu rộng vào hội nhập kinh tế quốc tế, để từ đó có nhận thức đúng và những biện pháp phù hợp nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức. 1 - Toàn cầu hóa kinh tế tác động đến các nền kinh tế Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã dẫn đến một xu thế lớn đang chi phối sự phát triển của thế giới hiện đại, đó là quá trình toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa (tiếng Anh là Globalization), xét về bản chất là quá trình gia tăng mạnh mẽ những mối liên hệ ảnh hưởng, tác động lẫn nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, chính trị giữa các quốc gia, các dân tộc trên toàn th ế gi ới. Trong các n ội dung trên thì toàn cầu hóa kinh tế vừa là trung tâm, vừa là động lực thúc đ ẩy quá trình toàn cầu hóa các lĩnh vực khác. Về bản chất, toàn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia và khu vực, tạo ra sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát tri ển hướng tới một nền kinh tế thế giới hội nhập và thống nhất. Những đặc đi ểm chủ yếu của toàn cầu hóa kinh tế là : Tự do hóa các yếu tố của tái sản xuất xã hội mang tính toàn cầu được th ể hiện qua tự do hóa thương mại đang trở thành nội dung quan trọng của quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Bằng chứng là, mục tiêu của hầu hết các thể chế kinh tế thương mại song phương và đa phương, đặc biệt là WTO, đều tập trung giải quyết vấn đề tiếp cận thị trường thông qua các cam kết về tự do hóa thương mại. Đây là quá trình d ỡ bỏ dần những cản trở trong hoạt động thương mại, xóa bỏ sự phân biệt đối xử, tạo lập sự cạnh tranh bình đẳng, nhằm làm cho hoạt động thương mại trên phạm vi quốc tế ngày càng tự do hơn thông qua việc cắt giảm dần thuế quan; giảm bớt, tiến t ới lo ại bỏ hàng rào phi thuế quan, như hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu, quản lý ngoại hối, phụ thu hàng nhập khẩu, các loại lệ phí và nhiều cản trở vô hình khác; bảo đảm cạnh tranh công bằng và không phân biệt đối xử. Đẩy mạnh tự do hóa các hoạt động tài chính và đầu tư quốc tế được đẩy mạnh. Toàn cầu hóa trong lĩnh vực tài chính được đẩy mạnh thông qua việc tự do hóa rộng rãi các giao dịch tài chính quốc gia và phát triển các thị trường tài chính quốc tế, hướng tới một thị trường tài chính mang tính toàn cầu. Tự do hóa tài chính bao gồm các nội dung cơ bản, như: nới lỏng kiểm soát tín dụng; tự do hóa lãi suất; tự do hóa tham gia hoạt động ngân hàng và các dịch vụ tài chính trên toàn thế giới, không phân biệt biên giới; tự do hóa việc di chuyển của các luồng vốn quốc tế. Quá trình này
  2. dẫn đến hệ thống các nền tài chính quốc gia hội nhập và tùy thuộc, tác đ ộng lẫn nhau ngày càng mạnh mẽ. Các công ty đa quốc gia (MNCs) ngày càng đóng vai trò quan trọng và chủ đ ạo trong các quan hệ kinh tế thế giới. Tính đến năm 2004, toàn thế giới có khoảng 63.000 công ty đa quốc gia với trên 800.000 chi nhánh. Các công ty đa quốc gia hiện chi phối hơn 80% giá trị thương mại quốc tế, chiếm hơn 90% tổng giá trị vốn đầu tư và thành tựu khoa học, công nghệ trên thế giới. Với sức mạnh ngày càng lớn, các công ty đa quốc gia ngày càng mở rộng ảnh hưởng, duy trì và nâng cao quyền l ực ki ểm soát trong các lĩnh vực quan trọng như tài chính, công nghệ, dịch vụ và lao động. Các công ty xuyên quốc gia chính là một nhân tố cực kỳ quan trọng góp phần thúc đ ẩy mạnh mẽ hơn quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Trong hơn một thập kỷ gần đây, các công ty xuyên quốc gia đã tăng cường hoạt động mua lại và sáp nhập (M & A), hình thành các công ty quốc tế khổng lồ có ảnh hưởng ngày càng lớn đến quá trình phân công lao động quốc tế. Hình thành ngày càng nhiều tổ chức liên kết kinh tế quốc tế ở những cấp đ ộ khác nhau (khu vực và thế giới) và vai trò quan trọng của WTO trong quá trình toàn cầu hóa. Trong những thập kỷ gần đây, nền kinh tế thế giới đã chứng kiến sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của các hoạt động liên kết kinh tế quốc tế. Quá trình liên kết kinh tế quốc tế diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau, từ liên kết tam giác, tứ giác phát triển đến liên kết khu vực như: EU, ASEAN, NAFTA, MECOSUR,.. liên khu vực như APEC, ASEM và liên kết toàn cầu. Trong đó, liên kết khu vực đóng vai trò quan trọng. Nếu năm 1956 đánh dấu sự ra đời của liên kết khu vực đầu tiên là Cộng đồng kinh tế châu Âu, thì trong thập kỷ 80 và 90 và của thế kỷ XX, liên kết kinh tế khu vực đã trở thành làn sóng lan khắp các châu lục. Hiện nay trên toàn thế giới có khoảng 24 tổ chức liên kết kinh tế khu vực có quy mô lớn với những mức độ quan hệ khác nhau. Tầm ảnh hưởng của chúng đến mức hầu như không có quốc gia nào không là thành viên của một liên kết kinh tế quốc tế, nhiều quốc gia đồng thời là thành viên của nhiều tổ chức liên kết kinh tế khác nhau. Và, nếu khi mới ra đời, GATT chỉ có 23 thành viên với lĩnh vực điều tiết chủ yếu là trong thương mại hàng hóa và còn giới hạn ở vấn đề thuế quan, thì đến cuối năm 2005, WTO (tổ chức thay thế cho GATT trước đây) đã là một tổ chức với gần 150 thành viên, đi ều ti ết hầu hết các lĩnh vực, khía cạnh của thương mại quốc tế. Toàn cầu hóa đã thúc đẩy kinh tế phát triển với tốc độ cao, nếu nửa đầu th ế kỷ XX, tổng GDP của thế giới tăng 2,7 lần, thì đến nửa cuối thế kỷ, tổng GDP thế giới đã tăng 5,2 lần. Đầu năm 1950, tỷ trọng thương mại trong GDP toàn cầu là 7%, thì hiện nay đã tăng lên hơn 50%. Năm 2004, tổng giá trị thương mại toàn cầu đạt hơn 22.267 tỉ USD, làm cho thương mại thực sự trở thành động lực chủ yếu thúc đ ẩy sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế thế giới. Biểu đồ sau đây cho thấy mức tăng trưởng GDP và xuất khẩu hàng hóa thế giới trong 10 năm sau khi WTO ra đời. Biểu đồ: Tăng trưởng GDP và xuất khẩu hàng hóa của thế giới thời kỳ 1995 – 2004
  3. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế dẫn đến việc những hàng rào kinh tế ngăn cách giữa các quốc gia dần được dỡ bỏ, điều này đã mở ra những cơ hội thị trường to lớn cho tất cả các nước, mà trước hết là thị trường xuất - nhập khẩu. Trong nền kinh tế toàn cầu, cùng với các quan hệ trao đổi hàng hóa dịch vụ tăng lên mạnh mẽ là sự gia tăng nhanh chóng các dòng lưu chuyển của vốn đầu tư, công nghệ, kinh nghiệm quản lý,... được đẩy mạnh. Vì vậy, tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, các quốc gia có cơ hội to lớn trong việc thu hút nguồn vốn đ ầu tư nước ngoài, tiếp nhận được các công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới, rút ngắn khoảng cách tụt hậu. Đối với các nước đang phát triển, toàn cầu hóa kinh tế đã tạo điều ki ện cho các quốc gia nhanh chóng tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Từ đó hình thành nên một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và sức cạnh tranh cao, rút ngắn đ ược tiến trình hiện đại hóa. Xu hướng phân công lao động quốc tế ngày nay đã chuy ển dịch từ chiều dọc sang phân công lao động theo chiều ngang, phân công theo chi tiết, theo quy trình sản xuất. Chẳng hạn, việc sản xuất máy bay của hãng Boing ở Mỹ có các chi tiết được chế tạo từ gần 100 quốc gia khác nhau. Những tác động tiêu cực: Về mặt lý thuyết, toàn cầu hóa kinh tế mang lại lợi ích cho tất cả các qu ốc gia. Tuy nhiên, trên thực tế lợi ích của quá trình này phân chia không đ ều, nó phụ thu ộc vào khả năng cạnh tranh kinh tế của mỗi quốc gia. Nói cách khác, toàn cầu hóa kinh t ế dẫn đến sự phân phối không công bằng các cơ hội và lợi ích kinh tế giữa các khu vực, quốc gia và từng nhóm dân cư. Vì vậy, nó làm gia tăng thêm tình trạng b ất bình đẳng, làm sâu sắc thêm sự phân hóa giàu nghèo giữa các quốc gia. Hiện nay các quốc gia phát triển chỉ chiếm 19% dân số thế giới nhưng lại nắm 71% khối lượng trao đổi buôn bán, tài sản và dịch vụ, 58% đầu tư trực tiếp nước ngoài và 91% người sử dụng mạng Internet.
  4. Toàn cầu hóa kinh tế có thể mang đến những tác động xấu tới nền kinh tế các qu ốc gia, kể cả quốc gia giàu lẫn nghèo. Bởi vì, nó đưa đến tình trạng cạnh tranh gay gắt, nảy sinh vấn đề phá sản, thất nghiệp, làm trầm trọng thêm các vấn đ ề về lao đ ộng, xã hội. Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế càng phát triển thì tỷ lệ thất nghiệp lại càng gia tăng ở một số quốc gia. Phong trào chống lại toàn cầu hóa đang diễn ra khá mạnh mẽ, nhất là nhóm dân cư chịu nhiều tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa kinh tế, như nông dân, các chủ trang trại... Các nước đang phát triển hiện đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt và không bình đẳng trong các quan hệ kinh tế - thương mại. Tham gia tự do hóa thương mại buộc tất cả các nước phải chấp nhận "luật chơi" tự do cạnh tranh, nghĩa là phải mở cửa thị trường, dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hóa và dịch vụ nước ngoài, loại bỏ các hạn chế đầu tư. Trong điều kiện hầu hết các nền kinh tế của các nước đang phát triển còn đang ở một trình độ thấp kém thì chính sự tự do cạnh tranh này đặt họ trước những thách thức vô cùng to lớn. Chẳng hạn, 20 triệu chiếc áo sơ mi xuất khẩu mới có thể mua được 1 máy bay Airbus hạng trung, trong lúc các mặt hàng công nghiệp có hàm lượng khoa học, công nghệ cao lại thường được cắt giảm thuế quan sớm hơn cả. Toàn cầu hóa kinh tế mở ra cơ hội tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, song chính điều đó lại bao hàm khả năng phụ thuộc rất lớn vào bên ngoài của các quốc gia. Mức độ phụ thuộc này thể hiện trên hai chỉ tiêu chính là tỷ trọng thương mại trong tổng GDP và tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoài, nhất là vốn ngắn hạn trong tổng vốn đầu tư phát triển. Sự lệ thuộc này dồn các nước vào tình thế phải đối mặt với nhi ều rủi ro do biến động thị trường, giá cả, thậm chí cả các sự cố về xung đột chính trị, sắc tộc ở một nơi nào đó trên thế giới. Toàn cầu hóa kinh tế có thể đưa lại những hậu quả xấu về môi trường sống và xã hội. Bởi vì, việc mở cửa nhằm tiếp nhận các nguồn lực, các thành tựu khoa học công nghệ, thiết bị máy móc và những nguồn vốn đầu tư của thế giới đ ể phát tri ển, bản thân nó cũng tiềm ẩn những mặt bất lợi: sự xâm nhập công nghệ lạc hậu, nạn ô nhiễm môi trường, các tệ nạn xã hội, sự bất bình đẳng trong xã hội gia tăng. 2 - Những cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Cơ hội thị trường quốc tế sẽ ngày càng rộng mở cho các doanh nghiệp cùng với tiến trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rõ điều này. Trong giai đoạn từ năm 1996 - 2005, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ, đạt mức trung bình 17,5/ năm, giá trị xuất kh ẩu đã tăng gấp gần 5 lần, từ 7,2 tỉ USD (năm 1996) lên 32,2 tỉ USD (năm 2005), đ ưa Việt Nam trở thành quốc gia có nền thương mại phát triển ở mức trung bình trên thế giới. Và, kể từ sau khi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực (tháng 12-2001), kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã tăng hơn 7 lần, từ 1,053 tỉ USD năm 2001, lên 6,5 tỉ USD năm 2005.
  5. Các doanh nghiệp tiếp cận được với đầu vào nhập khẩu rẻ hơn sẽ tạo đi ều ki ện giảm bớt chi phí, tăng khả năng cạnh tranh. Trong điều kiện Nhà nước thực hiện bảo hộ đối với một ngành sẽ dẫn đến giá hàng hóa của ngành đó cao hơn so với thị trường và vì thế những ngành có liên quan, đặc biệt là những ngành sử dụng sản phẩm của ngành được bảo hộ làm nguyên liệu sản xuất sẽ phải chịu chi phí đầu vào lớn. Nhưng nhờ việc bãi bỏ các rào cản đối với các luồng lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, vốn đầu tư,... giá của các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, kinh doanh trong điều kiện cạnh tranh sẽ có xu hướng giảm do không phải/hoặc giảm bớt các chi phí cho việc nhập khẩu. Do vậy, tự do hóa thương mại góp phần giảm chi phí và tăng năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp. Thương mại tự do còn cho phép các doanh nghiệp giảm các chi phí giao dịch, kinh doanh nhờ các nguyên tắc chung được thống nhất. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả s ản xu ất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong tiến trình hội nhập, sự bảo hộ của Nhà nước đối với doanh nghiệp sẽ phải giảm dần theo các cam kết quốc tế, làm gia tăng mạnh mẽ áp lực cạnh tranh từ bên ngoài, đây là một thách thức rất lớn, nhưng cũng là cơ hội để doanh nghiệp tự vươn lên khẳng định mình. Bởi vì, việc giảm bớt sự bảo hộ của Nhà nước sẽ tạo sức ép và động lực để các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải đổi mới quản lý, công nghệ, cải tiến sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao hiệu qu ả và sức cạnh tranh mới có thể tồn tại trên thị trường. Các doanh nghiệp có được môi trường kinh doanh thuận lợi và ổn định kể cả trên thị trường thế giới và trong nước. Các nguyên tắc, quy định của các tổ chức liên kết kinh tế quốc tế đều bảo đảm cho các doanh nghiệp có được cơ hội tiếp cận thị trường xuất khẩu, đầu tư và sản xuất, kinh doanh với các điều kiện ổn định, minh bạch và có khả năng dự đoán trước. Hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận công nghệ, kỹ thuật hiện đại, học hỏi những kinh nghiệm quản lý sản xuất, kinh doanh tiên tiến của các nước, từ đó góp phần nâng cao năng lực quản lý và s ản xuất kinh doanh. Tuy vậy, trong quá trình hội nhập, các cơ hội và thách thức luôn đan xen nhau. Bên cạnh những cơ hội và thuận lợi nói trên, tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, đó là: - Các doanh nghiệp sẽ phải chịu gia tăng sức ép cạnh tranh của hàng hóa nh ập kh ẩu và các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài ngay tại thị trường nội địa. Bởi vì, khi hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, thị trường nội địa phải "mở cửa", các rào cản thuế quan cũng như phi thuế quan bị giảm bớt và loại bỏ, các doanh nghiệp nước ngoài được tự do tham gia buôn bán, cung cấp hàng hóa, dịch vụ như doanh nghiệp trong nước trên cơ sở bình đẳng, không phân biệt đối xử. Bên cạnh đó, các hình thức hỗ trợ truyền thống rất phổ biến của Nhà nước cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế bao cấp như: trợ cấp, trợ giá, hỗ trợ tín dụng xuất khẩu ưu đãi, thưởng xuất khẩu, độc quyền kinh doanh... cũng phải từng bước cắt giảm, xóa bỏ.
  6. Trong khi các hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu do nước ngoài cung cấp đa dạng, phong phú với chất lượng và giá cả thấp hơn, các nhà cung cấp "trường vốn" hơn và dày dạn kinh nghiệm trong cạnh tranh quốc tế, chưa nói tới tâm lý chung của người tiêu dùng vẫn chủ yếu là "sính hàng ngoại". Nhiều doanh nghiệp trong nước có nguy cơ bị mất thị phần của mình, thậm chí bị phá sản. - Khó khăn rất lớn đối với các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập là khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu so với các nước trong khu vực và thế giới. Điều này được phản ánh ở hàm lượng tri thức và công nghệ trong sản phẩm thấp, yếu tố vốn trong cơ cấu giá thành sản phẩm không cao, chủ yếu dựa vào yếu tố lao động hoặc điều kiện tự nhiên, trong khi lợi thế về lao động hiện nay đang giảm dần. Chất lượng hàng hóa, dịch vụ nhìn chung chưa tốt; chưa đa dạng phong phú về chủng loại; chưa có sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ nào có ưu thế rõ rệt trên thị trường thế giới nhờ vào chất lượng và những thương hiệu mạnh... - Trình độ công nghệ và trang thiết bị, máy móc của các doanh nghiệp lạc hậu. Hi ện nay tỷ trọng số doanh nghiệp công nghiệp thuộc nhóm ngành công nghệ cao chỉ có 20,6% (thấp nhất trong số các nước ASEAN, trừ Lào, Cam-pu-chia và My-an-ma), nhóm ngành công nghệ trung bình 20,7%, còn thuộc nhóm ngành công nghệ thấp chiếm tới 58,7%, dẫn tới năng suất lao động thấp, tiêu hao nguyên, nhiên, vật li ệu nhiều, hiệu quả thấp, giá thành sản xuất của nhiều sản phẩm cao hơn giá nhập khẩu. - Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, trừ một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, phần lớn (90%) là doanh nghiệp nhỏ và vừa với tiềm lực rất hạn chế về tài chính, lại khó tiếp cận được các nguồn vốn chính thức, thường phải vay từ các nguồn không chính thức với lãi suất cao, nên chi phí vốn trở nên đắt đỏ, hạn chế việc đầu tư đổi mới công nghệ và mở rộng, phát triển sản xuất, kinh doanh. - Khả năng nắm bắt thông tin thị trường và thích ứng với những yêu cầu, thay đ ổi của thị trường quốc tế còn hạn chế, nên cản trở những cơ hội thị trường do quá trình hội nhập mang lại. Theo kết quả một cuộc điều tra của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam về năng lực xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, chỉ có 23,8% doanh nghiệp có hàng xuất khẩu, 13,7% doanh nghiệp có triển vọng xuất khẩu và 62,5% hoàn toàn chưa có khả năng tham gia xuất khẩu. - Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn hình thành, hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế chưa hoàn chỉnh cũng là một khó khăn không nhỏ đối với các doanh nghiệp. - Bên cạnh đó, cùng với việc thị trường xuất khẩu được rộng mở, hàng hóa của Việt Nam ngày càng vươn rộng ra thị trường quốc tế, thì nguy cơ phải đối mặt với những vụ kiện chống bán phá giá của nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam cũng càng tăng lên. Theo thống kê, từ năm 1994 - 2005, các doanh nghiệp Việt Nam đã phải đối phó với 25 vụ kiện chống bán phá giá của các
  7. nước. Điển hình là những vụ kiện chống bán phá giá của Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu liên quan đến mặt hàng cá da trơn, mặt hàng tôm, xe đạp, giày, mũ da... Tóm lại, toàn cầu hóa kinh tế là xu hướng phát triển khách quan, mang tính quy luật trong quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới. Toàn cầu hóa kinh tế đang tác động sâu sắc đến nền kinh tế của tất cả các quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại những cơ hội phát triển to lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, nhưng cũng đặt các doanh nghiệp trước những thách thức, khó khăn không nhỏ. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc để có những giải pháp phù hợp nhằm tận dụng được những cơ hội, vượt qua thách thức, biến những thách thức thành cơ hội để phát triển, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, đ ứng vững trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. TS Nguyễn Văn Hồng Toàn cầu hóa nền kinh tế Tác giả : Th.s Phan Văn Ninh ­ PTP Đào tạo File đính kèm: Không có Thuật ngữ  "Toàn cầu hóa" (TCH) mới xuất hiện vào những thập niên gần  đây. Trước hết và  chủ  yếu là toàn cầu hóa   kinh tế. Nhưng đời sống vật chất lại tác động đến đời sống tinh thần, nên TCH kinh tế đã quyết định xu thế phát triển   của các lĩnh vực khác, như văn hoá, chính trị v.v... Hiện nay còn nhiều định nghĩa về TCH kinh tế. Nhưng, theo nhận   thức của chúng tôi, về thực chất, TCH kinh tế là xu hướng tất yếu biểu hiện sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản   xuất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cách mạng   khoa học ­ công nghệ và tích tụ, tập trung sản xuất, dẫn tới hình thành nền kinh tế toàn thế giới. Mầm mống của xu   thế  TCH kinh tế  có  từ  khi  đại công nghiệp cơ  khí  tư  bản chủ  nghĩa  được hình thành, nhưng nó  chỉ  thực sự  bắt  đầu  trong bước chuyển từ  CNTB tự  do cạnh tranh sang CNTB  độc quyền. Khi nghiên cứu về  chủ  nghĩa  đế  quốc, V.I. Lê  nin đã nhận định: "... mạng lưới dày đặc những mạch máu ngân hàng lan rộng nhanh chóng như thế nào, nó bao phủ   các nước, tập trung hết thảy tư  bản và  các khoản thu nhập bằng tiền, biến hàng nghìn hàng vạn doanh nghiệp tản   mạn thành một đơn vị kinh tế tư bản chủ nghĩa thống nhất toàn quốc, rồi sau đó thành một đơn vị kinh tế tư bản chủ  nghĩa thế giới" . TCH kinh tế  là trình  độ phát triển cao của quốc tế  hóa  đời sống kinh tế. Ban  đầu là  quốc tế  hóa về   thương phẩm và dịch vụ, mở rộng mậu dịch quốc tế, hình thành thị trường toàn thế giới thống nhất. Tiếp theo là quốc   tế hóa về tư bản; việc xuất, nhập khẩu tư bản tăng lên, trước hết từ chính quốc sang thuộc địa, rồi dần dần di chuyển   trên phạm vi toàn cầu. Sau cùng là  quốc tế  hóa về  sản xuất; cách mạng khoa học ­ công nghệ  cùng với sự  bành  trướng của các công ty xuyên quốc gia đã tái hiện hình thức phân công kiểu công trường thủ công trên phạm vi toàn   cầu, khiến cho các nền kinh tế dân tộc tuỳ thuộc vào nhau và hình thành TCH kinh tế. TCH kinh tế phát triển tác động   đến các lĩnh vực khác của đời sống xã  hội. TCH kinh tế  bắt nguồn từ  những nhân tố  chủ  yếu sau đây. ­ Cách mạng   khoa học và  kỹ  thuật trước  đây và  cách mạng khoa học và  công nghệ  hiện nay (nhất là  công nghệ  thông tin, công  nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa...) đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển vượt bậc,   tạo ra những phương tiện giao thông vận tải và thông tin liên lạc hiện đại, mở rộng phân công lao động quốc tế trên   phạm vi toàn cầu, làm tăng sự  tuỳ  thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế  dân tộc. ­ Sự  bành trướng của các công ty   xuyên quốc gia (TNCs). Ngày nay, số lượng TNCs trên thế giới có khoảng 60.000 công ty mẹ, chiếm 25% giá trị của   sản xuất toàn cầu, 65% kim ngạch mậu dịch thế giới,70%  đầu tư  nước ngoài, 90% công nghệ cao với một hệ thống  chi nhánh (công ty con) khoảng trên 500.000, như những vòi của con bạch tuộc khổng lồ bao trùm khắp thế giới. Mặt  khác, trao đổi giữa các chi nhánh trong nội bộ TNCs ở các nước ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá   trị thương mại của nhiều nước. Hầu hết các hoạt động đầu tư nước ngoài được thực hiện qua kênh TNCs. Với lợi thế   về quy mô vốn lớn, kỹ thuật hiện đại, quản lý tiên tiến và mạng lưới thị trường rộng lớn TNCs tích cực đầu tư ra ngoài  nhằm tối  đa hoá  lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. TNCs ngày càng  đóng vai trò  quan trọng thúc  đẩy dòng FDI vào  
  8. các nước đang phát triển. Tóm lại, cách mạng khoa học và công nghệ cùng với sự bành trướng của TNCs đã thúc đẩy   phân công lao động quốc tế, nhất là phân công trong nội bộ ngành ngày càng sâu rộng, thúc đẩy mậu dịch và đầu tư   quốc tế tăng nhanh, làm tăng sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế dân tộc, phát triển mạnh mẽ hơn xu thế TCH   kinh tế và các lĩnh vực khác của xã hội. TCH kinh tế là biểu hiện sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất, nhưng   không tách rời quan hệ sản xuất. TCH kinh tế hiện nay diễn ra dưới sự  chỉ  đạo và  chi phối của quan hệ sản xuất tư   bản chủ  nghĩa;  ưu thế  về  kinh tế, khoa học và  công nghệ  nằm trong tay một số  nước TBCN phát triển và  TNCS tư   bản chủ nghĩa. Các chính phủ của các nước ấy thao túng các quyết sách đa biên và hoạt động của các tổ chức kinh   tế quốc tế, như IMF, WB, WTO... TNCs tư bản chủ nghĩa là lực lượng đóng vai trò quyết định trong việc vận hành nền  kinh tế thế giới đương đại, thì tất nhiên lợi ích của TCH được phân phối không công bằng, mang lại phần lớn cho các   nước tư bản chủ nghĩa, nhất là các tập đoàn độc quyền TBCN. Với ý nghĩa đó, có thể nói TCH kinh tế hiện nay mang   tính chất TBCN. Nhưng không thể coi tính chất TBCN là một thuộc tính bất biến của TCH kinh tế, mà tính chất đó sẽ  thay  đổi theo sự  thay  đổi của quan hệ  sản xuất chi phối nó. Mặt khác, hiện nay trên thế  giới vẫn  đang diễn ra cuộc   đấu tranh gay gắt giữa các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển, giữa các lực lượng tiến bộ và các   lực lượng  đế  quốc nên các nước  đang phát triển vẫn có  thể   đoàn kết  đấu tranh nhằm hạn chế  những tác  động tiêu   cực và  phát huy mặt tích cực của TCH, tiến tới lập một trật tự  kinh tế  quốc tế  công bằng, tôn trọng quyền lợi chính   đáng của mọi quốc gia, nhất là các nước nghèo. Khi TCH kinh tế còn chịu sự chi phối của quan hệ  sản xuất TBCN,   thì nó đặt ra cho các nước kém phát triển về kinh tế nhiều thách thức hơn là thời cơ. Nhưng đây là một xu thế khách  quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Bởi vậy, mỗi nước phải chủ  động tìm cách ứng xử tốt nhất để giành nhiều  cái lợi, hạn chế tác hại, giảm thiểu rủi ro. Việc chủ  động hội nhập vào TCH kinh tế đòi hỏi phải vừa hợp tác vừa  đấu   tranh để đảm bảo nguyên tắc cùng có lợi, chứ không phải là chống lại TCH. Nhìn một cách khái quát TCH kinh tế có   những đặc điểm cơ bản sau đây: ­ TCH kinh tế mang tính chất hai mặt: vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu   cực  đến  đời sống kinh tế  ­ xã  hội của mỗi nước. Về  tác  động tích cực TCH kinh tế  là  kết quả  của sự  phát triển vượt   bậc của lực lượng sản xuất, nhưng nó lại tác động trở lại, thúc đẩy tốc độ phát triển và trình  độ xã hội hóa lực lượng   sản xuất; mở rộng thị trường; giao lưu hàng hoá, dịch vụ, sức lao  động thông thoáng hơn do giảm bớt hàng rào thuế  quan. Dòng đầu tư và chuyển giao công nghệ dưới nhiều hình thức giúp các nước tiếp cận nguồn vốn, công nghệ mới  từ  nước ngoài, làm sâu sắc thêm phân công lao  động quốc tế, có  lợi cho cả  bên  đầu tư  và  bên tiếp nhận  đầu tư.   Nhưng TCH kinh tế cũng có mặt trái, đặt ra nhiều thách thức cho những nước đang phát triển. Do TCH kinh tế chịu sự   thao túng của các nước TBCN phát triển nên sự phân cực giàu nghèo giữa các nước, cũng như trong từng nước, ngày   càng xa. TCH kinh tế đặt các nước đang phát triển vào một cuộc cạnh tranh không cân sức, nước nào vượt qua được   thì sẽ tiến nhanh, nước nào ứng phó thất bại thì sẽ bị mất mát lớn, thậm chí thụt lùi. Nền kinh tế dân tộc của các nước   đang phát triển rất dễ  bị  tổn thương, nhất là  về  phương diện bảo  đảm an toàn về  tài chính. TCH cũng kéo theo cả   những tội phạm xuyên quốc gia, những tệ  nạn xã  hội mang tính toàn cầu và  truyền bá  những "văn hoá  phẩm" phi   nhân bản, xâm hại bản sắc văn hoá  dân tộc... Trong từng nước cũng có  tầng lớp dân cư   được hưởng lợi từ  TCH có   tầng lớp bị thua thiệt hay thất nghiệp, phá sản vì TCH. Bởi vậy, mỗi nước phải có một chiến lược tổng thể phù hợp với   thực lực và bối cảnh lịch sử cụ thể của nước mình để xử lý linh hoạt, nhằm tranh thủ cái lợi, giảm bớt tác hại của TCH.   ­ TCH kinh tế là xuất hiện tất yếu, khách quan, không thể đảo ngược, nhưng không thuận buồm xuôi gió mà đầy mâu   thuẫn. TCH kinh tế  mở  rộng biên giới kinh tế  vượt biên giới lãnh thổ  quốc gia, mỗi nước tham gia TCH kinh tế, một   mặt, phải thích nghi với những quy tắc chung, phải từ bỏ một số quyền lợi dân tộc nào đó, mặt khác vẫn phải bảo vệ  chủ  quyền quốc gia và  lợi  ích chính  đáng của dân tộc. TCH kinh tế  thúc  đẩy nền kinh tế thế giới tăng trưởng nhanh   nhưng phân phối lợi ích lại ngày càng chênh lệch. Các nước phát triển muốn dựa vào ưu thế về nhiều mặt để duy trì   trật tự kinh tế thế giới hiện tồn trong khi các nước đang phát triển lại muốn đòi lập một trật tự kinh tế quốc tế mới công   bằng, cùng có lợi. TCH kinh tế đi cùng với khu vực hóa; tự do hóa xen lẫn với xu hướng bảo hộ, nên cạnh tranh toàn  cầu lại diễn ra cùng với cạnh tranh giữa các tổ chức kinh tế khu vực, giữa tổ chức khu vực với quốc gia ngoài khu vực.   ­ Các chủ thể cùng hợp tác và đấu tranh, cùng tham gia hoạch định các thể chế về TCH kinh tế. Đó là các quốc gia   có  chủ  quyền, các tổ  chức kinh tế  khu vực, các tổ  chức kinh tế  quốc tế  (IMF, WB, WTO) và  TNCs. Mặc dù   ưu thế   thuộc về  các nước phát triển nhất và  TNCs lớn nhất, họ  chi phối quyết sách của các tổ  chức quốc tế, nhưng không  phải họ có thể mặc sức làm mưa làm gió theo ý chí chủ quan của họ. Trên vũ đài quốc tế và trong từng tổ chức quốc  tế  luôn diễn ra cuộc  đấu tranh gay gắt giữa các nước công nghiệp phát triển với các nước  đang phát triển, giữa lực  
  9. lượng tiến bộ  với lực lượng  đế  quốc và  không  ít những thoả  thuận phản  ánh sự   đấu tranh và  thoả  hiệp giữa các lực   lượng đó. ­ Kinh tế  phi vật thể  ngày càng thoát ly kinh tế hiện vật và tồn tại  độc lập, khiến cho TCH kinh tế rất dễ bị  xáo động bởi các cuộc khủng hoảng. Hiện chỉ có khoảng 2% giao dịch tài chính, tiền tệ có quan hệ với hàng hoá và   dịch vụ. Cái gọi là "kinh tế bong bóng" tăng lên, trở thành một nhân tố quan trọng làm cho hệ thống tài chính ­ tiền tệ   toàn cầu dễ  bị  xáo  động. Tình trạng  đó  diễn ra trong bối cảnh chuyên môn hóa và  hợp tác quốc tế  ngày càng sâu  rộng; TNCs cắm nhánh ở nhiều nước và biến phân công quốc tế thành phân công trong nội bộ công ty, lôi cuốn các   quốc gia vào cùng một "dàn hợp xướng", nên chỉ một xáo động nhỏ cũng có thể làm rung chuyển cả hệ thống; gây ra  những cuộc khủng hoảng lan rộng. ­ Xu thế khu vực hóa tiếp tục diễn ra cùng với xu thế TCH. Liên kết kinh tế khu vực   diễn ra từ thấp đến cao, từ khu vực ưu đãi thuế quan, khu vực mậu dịch tự do, đồng minh thuế quan, thị trường chung   hay cộng  đồng kinh tế, và  liên minh kinh tế. Giữa khu vực hoá  và  TCH kinh tế  vừa có  sự  thống nhất vừa có  mâu   thuẫn. Các tổ  chức kinh tế  khu vực tự  do hoá  bên trong nhưng bảo hộ  nghiêm ngặt với bên ngoài. Tuy nhiên, xu   hướng của khu vực hoá là từng bước phá vỡ tính hạn hẹp để vươn rộng ra không gian toàn cầu (thí dụ ASEAN cộng 1,   ASEAN cộng 3; EU cũng đang mở  rộng về  phía Đông,...). Sự  mở  rộng này sẽ  từng bước tiệm cận TCH. Với ý  nghĩa   này khu vực hoá thúc đẩy TCH. Nhưng khu vực hoá tạm thời dẫn đến chia cắt thị trường thế giới thành "từng mảnh";   cạnh tranh toàn cầu do đó thành cạnh tranh giữa các tổ chức kinh tế khu vực và cạnh tranh giữa tổ chức kinh tế khu   vực với những quốc gia ngoài khu vực, nảy sinh những cuộc chiến tranh mậu dịch. ­ Xu thế   đa cực hoá  kinh tế  thế   giới. TCH do các nước lớn chi phối, dẫn  đến sự  giành giật lợi  ích giữa các trung tâm kinh tế  lớn và  hình thành xu   hướng  đa cực hoá kinh tế thế giới. TCH làm tăng thêm sự biến động thực lực và thay  đổi so sánh lực lượng giữa các   nước lớn. Hiện nay Mỹ  vẫn là  nước  đứng  đầu thế giới về những ngành công nghệ cao, tiêu biểu là công nghệ thông  tin; về tổng giá trị sản lượng kinh tế; về thị trường. Nhưng Mỹ cũng có những mặt hạn chế, như nợ của nhà nước tăng,   mức tích luỹ thấp, nhập siêu lớn, giá cả sức lao động cao,... Người ta dự đoán Mỹ vẫn tiếp tục duy trì được địa vị đứng   đầu trong tương lai, nhưng không thể   độc quyền thành một cực duy nhất với  địa vị  bá  chủ  thế  giới. ­ Phân cực giữa  các nước phát triển và  các nước  đang phát triển vẫn sâu sắc nhưng thế  và  lực của các nước  đang phát triển ngày   càng tăng lên. Xét về các mặt: mức độ tham gia TCH kinh tế, mức chiếm giữ thị trường thế giới, sức cạnh tranh và khả  năng chế  ngự  những nguy cơ  của thị  trường... các nước đang phát triển đều kém xa các nước phát triển, nên những   nguồn lợi thu được từ TCH kinh tế của các nước đang phát triển cũng kém xa các nước phát triển. Vì thế, dù TCH kinh   tế  tạo  điều kiện cho các nước  đang phát triển có  cơ  hội  đẩy mạnh và  rút ngắn quá  trình công nghiệp hoá, hiện  đại   hoá nền kinh tế quốc dân, nhưng một khi trật tự kinh tế thế giới hiện nay chưa được thay đổi căn bản thì sự phân hoá  hai cực Bắc ­ Nam vẫn tiếp diễn, thậm chí có thể tăng thêm khi TCH kinh tế phát triển mạnh. ­ Sự phân hoá giữa các   nước  đang phát triển vẫn tiếp diễn. Những năm qua các giao dịch kinh tế  giữa các nước  đang phát triển với nhau   không ngừng tăng lên, góp phần giảm bớt sự  lệ  thuộc vào các nước phát triển, nhưng sự  phân hoá  các nước  đang   phát triển thành vẫn tiếp diễn. ­ Cách mạng khoa học ­ công nghệ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, kinh tế tri thức xuất hiện  ở  những nước TBCN phát triển cao sẽ  thúc  đẩy nhanh hơn TCH kinh tế  và  tác  động mạnh các lĩnh vực xã  hội, văn   hoá, chính trị. Những thành tựu khoa học, công nghệ  mới càng thúc  đẩy nhanh sự  phát triển và  nâng cao trình  độ   quốc tế  lực lượng sản xuất  đồng thời tác  động mạnh xu thế  phát triển trong các lĩnh vực khác của  đời sống xã  hội,  tăng sự  tuỳ  thuộc giữa các nước và  tăng xu thế  toàn cầu hóa, nhưng cũng  đặt những nước không tiếp thu kịp các   thành tựu của cách mạng khoa học ­ công nghệ và kinh tế tri thức trước nguy cơ tụt hậu xa hơn. Nói tóm lại, TCH là  một xu thế tất yếu và nó có tính hai mặt. Do đó, tham gia hội nhập nền kinh tế thế giới, đối với mỗi quốc gia, trong đó   có  Việt Nam, phải biết phát huy  được những lợi thế, hạn chế  những thách thức,  đảm bảo  được lợi  ích và  chủ  quyền   dân tộc là chìa khóa cho sự phát triển. Toàn cầu hóa kinh tế - cách tiếp cận, cơ hội và thách thức (Bài viết của Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển đăng trên Báo Nhân dân Điện tử ngày 17/01/2005) 1. Ðã có nhiều ý kiến khác nhau về chủ đề toàn cầu hóa. Bởi, toàn c ầu hóa là m ột ti ến
  10. trình phức tạp, chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Có mặt thu ận và m ặt ngh ịch, có c ơ hội và thách thức. Mặc dù vậy, như Ðảng ta đã nhận định "Toàn c ầu hóa kinh t ế là m ột xu th ế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia..."(1). Tại sao lại nói "Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan"? B ởi đ ộng l ực c ủa "toàn c ầu hóa" là s ự phát triển của lực lượng sản xuất, mà lực lượng sản xuất thì không ng ừng l ớn m ạnh. Ðây là quy luật chung nhất cho mọi thời đại, mọi chế độ xã hội. Sự lớn m ạnh đó không ch ỉ theo c ấp s ố c ộng mà theo cấp số nhân. Cái cấp số này lớn đến mức nào không chỉ tùy thuộc vào s ự phát tri ển c ủa khoa học - công nghệ mà còn tùy thuộc vào cách t ổ ch ức quan h ệ s ản xu ất, nh ưng càng v ề sau cấp số này càng lớn. Trong xã hội phong kiến, lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém, c ủa c ải làm ra ch ưa đ ủ b ảo đảm những nhu cầu tối thiểu của con người, các yếu tố của quá trình tái sản xuất đóng khung s ự vận động trong phạm vi cai quản của lãnh chúa phong kiến theo ki ểu "N ội b ất xu ất, ngo ại b ất nhập". Thị trường, do đó, cũng bị vây chặn trong địa hạt của t ừng lãnh chúa. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra, l ực lượng s ản xuất phát tri ển cao h ơn, quan hệ sản xuất phong kiến không thể dung nạp nổi s ự phát triển c ủa l ực l ượng s ản xu ất, các cu ộc cách mạng tư sản đã quật đổ chế độ phong kiến. Chủ nghĩa t ư b ản ra đ ời, tr ước h ết ở châu Âu, đã phá bỏ các rào cản do các lãnh chúa thi ết lập và áp ch ế. Có th ể nói công lao c ủa ch ủ nghĩa tư bản, như một nấc thang trong sự phát triển của xã h ội loài ng ười, là đã hình thành đ ược th ị trường dân tộc. Nhưng như trên đã nói, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển, th ị tr ường dân t ộc cũng đã không chứa nổi nhu cầu phát triển của lực l ượng sản xuất. Và do đó, nhà n ước c ủa giai c ấp t ư sản phát động cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa. Xét cho cùng, các cu ộc chi ến tranh này cũng là để tìm kiếm thị trường: thị trường nguyên liệu, th ị trường s ức lao đ ộng và th ị tr ường tiêu thụ sản phẩm. Cả hai cuộc đại chiến thế giới 1914 - 1918 và 1939 - 1945 cũng là các cu ộc chi ến tranh xâm chiếm và phân chia lại thị trường. Ðến đầu thế kỷ 20, đặc biệt là sau cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đ ại và s ự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào đấu tranh gi ải phóng dân t ộc có đ ược đi ểm t ựa lớn đã bùng lên và lan rộng ở châu Á, châu Phi cuốn phăng ch ủ nghĩa th ực dân cũ. Ch ủ nghĩa t ư bản không thể chiếm giữ thị trường bằng súng đạn mà b ằng một bi ến thái khác là ch ủ nghĩa thực dân mới. Về bản chất, đó cũng là một phương cách chiếm gi ữ thị tr ường b ằng các th ủ đo ạn khác. Nhưng, độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia luôn là khát v ọng mãnh li ệt c ủa con ng ười, khát vọng đó được hun đúc từ các yếu t ố lịch s ử và chiều sâu văn hóa. Ch ủ nghĩa th ực dân m ới cũng
  11. không thể lừa mị được con người. Các biến thái theo ki ểu "tân c ổ đi ển" này c ủa ch ủ nghĩa đ ế quốc rốt cuộc cũng bị vạch trần. Bản đồ chính trị thế gi ới t ừ nửa sau c ủa th ế k ỷ 20 đã thay đ ổi sâu sắc. Trong khi đó, những thành t ựu của cuộc cách m ạng k ỹ thuật và công ngh ệ thông tin trong những năm cuối của thế kỷ 20 đã làm tăng t ốc s ự phát tri ển c ủa l ực l ượng s ản xu ất, đ ưa loài người từ xã hội công nghiệp sang xã hội hậu công nghi ệp và đang b ước vào ng ưỡng c ửa của xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức. Chính sự phát tri ển m ạnh m ẽ này, v ề khách quan, đ ặt ra yêu cầu mở rộng thị trường lên một tầm mức m ới, b ằng nh ững ph ương cách m ới. T ừ đó, xu ất hiện cái mà chúng ta đang đề cập là "Toàn cầu hóa kinh t ế". Có th ể nói, Mác là ng ười đ ầu tiên phát hiện ra quá trình có tính khách quan này khi ông vi ết "Ð ại công nghi ệp đã t ạo ra th ị tr ường thế giới, thay cho tình trạng cô lập trước kia của các đ ịa ph ương, dân t ộc v ẫn t ự cung tự cấp, ta thấy phát triển những mối quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến của các dân t ộc" (2). 2. Khi nói động lực bên trong của quá trình toàn c ầu hóa là s ự phát tri ển c ủa l ực l ượng s ản xu ất là nói đến "nội năng" của quá trình này. Chính cái "nội năng" này thúc đ ẩy s ự v ận đ ộng, còn v ận động theo hướng nào lại tùy thuộc vào chủ thể. B ởi lẽ, nếu toàn c ầu hóa kinh t ế là m ột xu th ế khách quan, nghĩa là có tính quy luật thì quy luật đó là quy lu ật xã h ội. Khác v ới quy lu ật tự nhiên, các quy luật xã hội bao giờ cũng hoạt động dưới tác động của con ng ười, c ủa ch ủ thể, mang đậm dấu ấn của con người, của chủ thể. Chính sự chiếm đoạt th ị tr ường theo ph ương thức thực dân (cũ và mới) kéo dài suốt từ đầu thế kỷ 17 đến gi ữa th ế k ỷ 20 b ắt nguồn t ừ yêu c ầu phát triển của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa và do chính quy ền t ư s ản ở các n ước t ư b ản công nghiệp phát động. Tiến trình toàn cầu hóa hiện nay cũng do các n ước t ư b ản phát tri ển - đằng sau nó là các tập đoàn xuyên quốc gia - phát động, trước h ết là vì l ợi ích c ủa các n ước, các tập đoàn này. Chính vì thế, quá trình toàn cầu hóa hiện nay là "không đ ối x ứng". S ự "không đ ối x ứng" không chỉ ở các lĩnh vực mà quá trình này đặt ra và gi ải quy ết. Trong khi chú ý đ ến n ội dung kinh t ế, nó đã không quan tâm đầy đủ đến các vấn đề xã h ội, an sinh và môi tr ường. Không đ ối x ứng còn thể hiện ở sự phân phối lợi ích trong toàn cầu hóa là không cân b ằng. Các n ước công nghi ệp phát triển được lợi nhiều hơn, các nước đang phát tri ển và ch ậm phát tri ển ch ịu nhi ều thua thiệt(3). Ở nước ta cũng đã có cuộc tranh luận giữa các nhà nghiên cứu, lý luận về tính ch ất c ủa toàn c ầu hóa. Rằng toàn cầu hóa có định ngữ (tính từ) không? Toàn c ầu hóa đang di ễn ra là thu ộc ph ạm trù tư bản chủ nghĩa, là toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa hay toàn c ầu hóa ki ểu gì? Giá tr ị c ủa các cuộc tranh luận này có lẽ chủ yếu không phải ở phương diện khoa học. B ởi, v ề m ặt khoa h ọc và nhận thức luận, vấn đề đã được giải quyết khi chúng ta phân bi ệt s ự v ận đ ộng c ủa quy lu ật t ự nhiên và quy luật xã hội và đã được gi ải quyết t ừ thời Mác. Ngay sau vi ệc kh ẳng đ ịnh đ ại công
  12. nghiệp tạo ra thị trường thế giới, Mác đã chỉ ra rằng giai c ấp t ư s ản đang m ưu toan "t ạo ra cho nó một thế giới theo hình dạng của nó" (4). Giá trị chủ yếu của các cuộc tranh luận này có lẽ ch ủ yếu là để nhận diện rõ hơn mặt trái của toàn cầu hóa, tránh nh ững hi ểu bi ết phi ến di ện và ng ộ nhận sai lầm khi tham gia vào quá trình này. Một câu hỏi tự nhiên được đặt ra là: Tại sao toàn cầu hóa hiện nay do các n ước t ư b ản phát tri ển phát động, trước hết vì lợi ích của các nước này lại "lôi cuốn đ ược ngày càng nhi ều n ước tham gia", kể cả các nước đang phát triển và chậm phát triển? Trong thời đại ngày nay, khi mà các yếu tố của s ản xuất đã đ ược qu ốc t ế hóa m ột cách sâu s ắc, không một quốc gia nào có thể đạt được tăng trưởng kinh t ế v ới t ốc đ ộ cao nh ằm rút ng ắn khoảng cách phát triển nếu không tham gia vào quá trình này, nh ất là toàn c ầu hóa luôn g ắn v ới cải cách cơ cấu kinh tế của từng nước dẫn đến s ự chuyển dịch cơ cấu gi ữa các nước. Ði ều đó giải thích tại sao Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) - định ch ế c ơ b ản c ủa toàn c ầu hóa - bao gồm 148 nền kinh tế thành viên, chiếm 97% GDP và 95% giá tr ị thương m ại toàn c ầu. Các n ước chưa phải là thành viên như Nga, Việt Nam, Ukraine, A-rập Xê-út... cũng đang kh ẩn tr ương đàm phán để được gia nhập Tổ chức này. Hơn nữa, quá trình toàn cầu hóa hiện nay là quá trình v ừa h ợp tác, v ừa đ ấu tranh nh ằm thi ết l ập một trật tự kinh tế thế giới mới bảo đảm phân phối lợi ích công b ằng hơn, h ợp lý h ơn. K ết qu ả thế nào còn phụ thuộc vào tương quan lực l ượng gi ữa các n ước, các nhóm n ước. Chính vì v ậy mà để có thể thành lập WTO, các nước tham gia Hi ệp định chung v ề thuế quan và th ương m ại (GATT) đã mất tám năm (từ 1986 đến 1994) với rất nhiều vòng đám phán. Và, khi t ổ ch ức này phát động vòng đám phán mới t ại Doha, thủ đô Qatar, về m ở c ửa th ị trường sâu r ộng h ơn, v ới tên gọi "Vòng Doha vì sự phát triển" thì m ục tiêu ban đ ầu đ ặt ra là s ẽ k ết thúc đàm phán trong vòng bốn năm (vào cuối năm 2004). Nhưng, đến nay, th ời gian ấn đ ịnh đã qua. Ba trong b ốn "vấn đề Singapore"(5) mà các nước công nghiệp phát triển áp đặt cho vòng đàm phán này h ầu như đang bị gác lại, nhiều vấn đề khác, trong đó có vấn đ ề thương m ại hàng nông s ản còn đang tranh luận. Mặc dù, tại cuộc họp Ðại Hội đồng WTO tháng 7-2004 ở Geneva, các n ước đã th ỏa thuận được khuôn khổ đàm phán. Nhưng, từ khuôn kh ổ này đ ến khi th ỏa thu ận đ ược các hi ệp định mới còn phải mất thời gian. Những người lạc quan nh ất cũng cho r ằng đ ể k ết thúc đ ược vòng Doha có lẽ phải vào năm 2006, dài hơn thời gian d ự định ban đ ầu 1,5 l ần. Ð ưa ra các d ẫn chứng trên đây để khẳng định rằng hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình v ừa h ợp tác, v ừa đ ấu tranh. Khuynh hướng phát triển của toàn cầu hóa ph ụ thuộc vào s ự h ợp tác và đ ấu tranh này. Như vậy, cùng với việc gia nhập Liên hiệp quốc, trở thành thành viên c ủa WTO, các n ước m ới có quyền có tiếng nói chính thức, thể hiện l ập trường của mình v ề ch ương trình ngh ị s ự kinh t ế toàn cầu. Tuy nhiên, cần nhận rõ là việc tham gia tiến trình toàn c ầu hóa, gia nh ập WTO ch ỉ là đi ều
  13. kiện cần. Ðể có vị thế vững chắc trong hợp tác và đấu tranh trên di ễn đàn c ủa T ổ ch ức Th ương mại thế giới còn cần nhiều yếu tố hội thành điều kiện đủ. 3. Do toàn cầu hóa là một quá trình chưa định hình, đang ti ếp t ục v ận đ ộng d ưới tác đ ộng c ủa các mâu thuẫn và sự đấu tranh giữa các l ực l ượng đ ứng sau các mâu thu ẫn ấy, khó có th ể có được một định nghĩa chính xác, đầy đủ về toàn cầu hóa. Vì v ậy, cách ti ếp c ận th ực ti ễn h ơn c ả là xem xét các định chế của toàn cầu hóa hiện nay - t ức là xem xét các n ội dung c ủa toàn c ầu hóa thể hiện trong các Hiệp định của WTO về mở cửa thị trường. Theo đó, các n ước tham gia vào tổ chức này phải mở cửa thị trường nước mình cho các nước thành viên c ả v ề th ương m ại hàng hóa, thương mại dịch vụ và đầu tư. Ðể mở cửa thị trường về thương mại hàng hóa các nước phải loại b ỏ các hàng rào phi quan thu ế cản trở thương mại, phải giảm thuế nhập khẩu (mức độ và l ộ trình c ắt gi ảm còn ph ụ thu ộc vào kết quả đàm phán) để hàng hóa có thể l ưu thông t ự do t ừ n ước này sang n ước khác không b ị hạn chế. Về dịch vụ, theo phân loại của WTO, dịch vụ bao g ồm 11 ngành v ới 155 phân ngành khác nhau, hiện đang chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong GDP toàn cầu và bao quát các lĩnh v ực c ủa đ ời sống xã hội, phục vụ trực tiếp cho sản xuất, tiêu dùng. Ðể mở cửa thị trường dịch vụ, mỗi nước phải chấp nhận để các nước thành viên cung ứng d ịch vụ cho pháp nhân và thể nhân nước mình theo các ph ương th ức: (i) Cung ứng qua biên gi ới: Theo đó, các thương nhân kinh doanh dịch vụ đăng ký kinh doanh ở m ột n ước thành viên có quyền cung ứng dịch vụ cho các pháp nhân và th ể nhân c ủa các thành viên khác mà không c ần lập hiện diện thương mại tại các thành viên đó. Ph ương th ức này ngày càng phát tri ển v ới s ự phát triển của công nghệ thông tin và internet. (ii) Tiêu dùng ngoài lãnh th ổ: Theo đó, m ỗi n ước thành viên phải để cho pháp nhân và thể nhân nước mình đ ược s ử d ụng d ịch v ụ do các th ương nhân của các nước thành viên khác cung ứng ở ngoài lãnh th ổ nước mình. (iii) Hi ện di ện th ương mại: Mỗi nước thành viên phải để cho thương nhân cung ứng dịch v ụ c ủa các n ước thành viên khác lập các công ty, chi nhánh công ty tại nước mình đ ể kinh doanh d ịch v ụ. (iv) Hi ện di ện th ể nhân: Ðây vừa là phương thức hiện diện thương m ại, đ ồng th ời là s ự di chuy ển th ể nhân - v ề bản chất là để cho công dân các nước thành viên vào hoạt động d ịch v ụ ở n ước mình. Tuy nhiên, do phương thức này tác động trực tiếp đến vi ệc làm của t ừng nước, nên trong Vòng Uruguay - Vòng đàm phán để thành lập WTO - các nước chưa đạt được thỏa thuận cụ th ể. Trong vòng đàm phán Doha hiện nay, một số nước đang yêu cầu đưa nội dung này vào cam k ết. Mở cửa thị trường đầu tư: Yêu cầu đặt ra là các nước phải m ở cửa th ị trường c ủa n ước mình cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nước mình mà không h ạn ch ế lĩnh v ực đ ầu t ư, tr ừ nh ững
  14. lĩnh vực có liên quan an ninh quốc gia, truyền th ống văn hóa c ủa dân t ộc. Tuy nhiên, nhi ều n ước, đặc biệt là các nước đang phát triển, đều muốn xây d ựng nh ững ngành công nghi ệp c ủa chính mình. Nên trong vòng đàm phán Uruguay, các n ước mới ch ỉ đ ạt đ ược th ỏa thu ận các v ấn đ ề đ ầu tư có liên quan thương mại (Hiệp định TRIMS). Mặc dù vậy, trên th ực t ế, các n ước v ẫn đang ti ếp tục cải cách thể chế kinh tế, cải thiện môi trường đầu t ư, t ạo ra th ị tr ường c ạnh tranh đ ể thu hút đầu tư. Và, vấn đề mở cửa thị trường đầu tư sẽ còn được đặt ra trong tiến trình toàn c ầu hóa. Khi mở cửa thị trường theo ba lĩnh vực nêu trên, m ỗi thành viên c ủa WTO ph ải tuân th ủ các nguyên tắc: (i) không phân biệt đối xử, gồm: Không phân bi ệt đ ối x ử gi ữa hàng hóa n ước này v ới hàng hóa nước khác, giữa doanh nghiệp nước này với các doanh nghi ệp n ước khác v ề các chính sách thuế, giá hàng hóa - dịch vụ và các biện pháp ti ếp c ận th ị tr ường (g ọi là nguyên t ắc đ ối x ử tối huệ quốc - MFN). Không phân biệt đối xử gi ữa hàng hóa nước mình v ới hàng hóa n ước khác, giữa doanh nghiệp nước mình với doanh nghi ệp nước khác (g ọi là nguyên t ắc đ ối x ử qu ốc gia - NT). (ii) Thực hiện minh bạch, công khai trong cơ chế chính sách đ ể m ọi th ương nhân, m ọi ng ười có quyền và cơ hội tiếp cận thông tin như nhau, t ạo ra đi ều ki ện bình đ ẳng trong ho ạt đ ộng kinh doanh. Minh bạch và công khai còn được coi là tiền đề c ủa ch ống tham nhũng. Vì, tham nhũng làm méo mó môi trường kinh doanh, làm tăng chi phí, gi ảm hi ệu qu ả và ch ất l ượng tăng tr ưởng. Ðây là vấn đề đang được các quốc gia, các định ch ế đa ph ương đ ưa vào ch ương trình ngh ị s ự "Thương mại và phát triển". (iii) Thực hiện bảo hộ quyền s ở h ữu trí tuệ. Không th ể có môi tr ường cạnh tranh lành mạnh, khi doanh nghiệp đầu t ư tiền của cho phát minh, sáng ch ế, c ải ti ến m ẫu mã, kiểu dáng, xây dựng thương hiệu sản phẩm, v.v. lại bị doanh nghi ệp khác đánh c ắp và s ử dụng. Nghĩa vụ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được quy định trong Hi ệp định các vấn đ ề s ở h ữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS). (iv) Tuân th ủ cơ ch ế gi ải quyết tranh ch ấp c ủa WTO và sự phán xử của cơ quan tài phán quốc tế do t ổ chức này thiết l ập. Ngoài bốn nguyên tắc này, các nước thành viên còn ph ải tuân th ủ hàng ch ục Hi ệp đ ịnh khác c ủa Tổ chức Thương mại thế giới. Hội nhập kinh tế với các yêu cầu mở cửa thị trường nêu trên đặt ra m ột s ố h ệ lu ận trong t ư duy chính sách và trong chiến lược phát triển. Trong đó có nh ững v ấn đề ph ải đ ược xem xét t ường tận hơn, sâu hơn như: Thế nào là một nền kinh tế đ ộc lập, t ự ch ủ; m ối quan h ệ gi ữa đ ộc l ập, t ự chủ về kinh tế và sự tùy thuộc lẫn nhau ngày càng tăng lên trong th ời đ ại toàn c ầu hóa; h ội nh ập kinh tế và sự hợp tác về an ninh, hợp tác về văn hóa... Ðây là nh ững v ấn đ ề có ý nghĩa quan trọng về phương diện chính trị thực tiễn mà trong phạm vi bài vi ết này ch ưa thể đề c ập đ ến. 4. Xem xét trên góc độ thương mại, thế giới đã ch ứng kiến hai mô hình công nghi ệp hóa: Công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu và công nghiệp hóa hướng về xuất kh ẩu.
  15. Công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu đã rất thành công cho đến nh ững th ập k ỷ cu ối c ủa th ế k ỷ 20. Với hàng rào bảo hộ cao bằng thuế nhập khẩu và các bi ện pháp phi quan thu ế, các n ước có thể bán sản phẩm trên thị trường nội địa mà không b ị áp l ực c ạnh tranh t ừ hàng hóa nh ập kh ẩu. Với thời gian, các doanh nghiệp có thể cải tiến công ngh ệ s ản xuất, hoàn thi ện quá trình qu ản lý, tích tụ tư bản, v.v. Từ đó, nâng cao chất lượng, hạ giá thành s ản ph ẩm, t ạo l ập v ị th ế c ủa doanh nghiệp trên thị trường. Ðịnh hướng phát triển này luôn g ắn v ới vi ệc t ạo ra m ột th ị tr ường c ạnh tranh nội bộ thông qua việc phát triển khu vực kinh tế t ư nhân. Khi thế giới bước sang thời kỳ quốc tế hóa nền s ản xu ất, ti ến trình chuy ển d ịch c ơ c ấu kinh t ế giữa các quốc gia diễn ra với nhịp độ ngày càng cao đi đôi v ới các cam k ết m ở c ửa th ị tr ường thì định hướng công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu không còn phát huy tác d ụng nh ư trong th ời kỳ bảo hộ mậu dịch. Và vì vậy, các nước đều chuyển sang thực thi chính sách công nghi ệp hóa ch ủ yếu hướng về xuất khẩu. Trong những năm gần đây, khi toàn cầu hóa kinh tế trở thành xu thế khách quan, nhi ều khu v ực mậu dịch tự do và các hiệp định mậu dịch t ự do song ph ương ra đời thì các khái ni ệm công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, hoặc công nghiệp hóa h ướng về xuất kh ẩu không còn nguyên nghĩa ban đầu của nó. Bởi lẽ, với việc giảm thuế nh ập kh ẩu (ti ến đ ến 0) và vi ệc bãi b ỏ các hàng rào phi thuế, hàng hóa được lưu thông tự do, ranh gi ới gi ữa th ị tr ường trong n ưóc và th ị tr ường ngoài nước là không đáng kể, thậm chí không còn. Trong đi ều kiện đó, m ột ngành s ản xu ất, m ột ngành dịch vụ chỉ có thể đứng vững và phát triển nếu có kh ả năng c ạnh tranh trên th ị tr ường trong nước và thị trường quốc tế. Chiến lược phát triển, ch ủ trương đ ầu t ư đ ược xác đ ịnh qua ba yếu tố: (i) Lợi thế so sánh. Lợi thế so sánh là tiền đ ề đ ể gi ảm chi phí s ản xu ất, l ưu thông, là y ếu tố tăng khả năng cạnh tranh. Lợi thế so sánh có thể là giá trị công ngh ệ, là ngu ồn lao đ ộng d ồi dào với chất lượng cao và giá nhân công thấp, là tài nguyên thiên nhiên và v ị trí đ ịa lý. L ợi th ế so sánh là yếu tố động. Ngay cả tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý, tưởng như là tĩnh, cũng thay đổi theo thời gian. Vì vậy, khi tính toán lợi thế so sánh ph ải đ ặt trong vi ệc tính toán t ổng chi phí và trong tầm nhìn dài hạn. (ii) Quy mô kinh tế: Công trình đ ầu t ư ph ải đ ạt đ ến quy mô kinh t ế nào đó mới giảm thiểu được các chi phí cố định cho m ột đơn vị sản ph ẩm. Ði ều này đ ặc bi ệt có ý nghĩa khi các thiết bị công nghệ hiện đại, trình độ tự đ ộng hóa cao, s ử d ụng ít lao đ ộng nh ưng giá bán lại rất đắt. Ðể đạt được quy mô kinh tế, các công trình đ ầu t ư s ản xu ất, ch ế bi ến ph ải đ ặt trong quy hoạch liên vùng. (iii) Dung lượng thị trường. Yếu t ố này cũng r ất quan tr ọng, nh ưng ít đ ược nói đến. Nhu cầu của con người trong tính đa d ạng, phong phú có th ể coi là vô cùng, nh ưng trong tính đơn nhất lại có giới hạn. Vì vậy, khi đầu t ư ph ải xem xét dung l ượng th ị tr ường c ủa s ản phẩm, phải dự báo được nhu cầu và sự thay đổi nhu cầu. N ếu dung l ượng th ị tr ường b ị gi ới h ạn, dù sản phẩm có khả năng cạnh tranh vẫn khó có khả năng mở rộng, vì s ẽ có nguy c ơ b ị áp đ ặt
  16. các biện pháp chống bán phá giá, hoặc các bi ện pháp t ự v ệ. Khi t ỷ l ệ chi ếm lĩnh th ị tr ường còn nhỏ nhưng dung lượng thị trường còn lớn và tốc độ chi ếm lĩnh th ị trường đang tăng lên, t ức là sản phẩm có khả năng cạnh tranh, có thể mở rộng sản xuất. 5. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những cơ hội mới và nh ững thách th ức m ới. Nh ững c ơ h ội là: Có một thị trường rộng lớn để có thể tiêu thụ sản ph ẩm đ ược s ản xuất ra trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thu hút vốn đầu tư t ừ các nhà đ ầu t ư nước ngoài, các ngu ồn vi ện tr ợ phát triển của các nước và các định chế tài chính quốc t ế nh ư Ngân hàng Th ế gi ới (WB), Qu ỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát tri ển châu Á (ADB)...; có đi ều ki ện ti ếp nh ận công ngh ệ sản xuất và công nghệ quản lý thông qua các dự án đầu tư. Cùng với cơ hội và đồng hành với cơ hội, nền kinh tế nước ta, các doanh nghi ệp n ước ta cũng phải đối đầu với các thách thức lớn. Ðó là sự cạnh tranh quy ết li ệt trên c ả ba c ấp đ ộ do hàng rào bảo hộ bị dỡ bỏ, do phải thực hiện chế độ đãi ngộ tối huệ quốc và đối x ử qu ốc gia, nên các s ản phẩm nước ta phải cạnh tranh bình đẳng với các sản ph ẩm nước khác không ch ỉ trên th ị tr ường thế giới mà ngay cả trên thị trường nội địa. Ðiều đó không chỉ đòi h ỏi b ản thân s ản ph ẩm ph ải có chất lượng cao, giá thành hạ (điều này chủ yếu do công ngh ệ s ản xu ất, công ngh ệ qu ản lý c ủa doanh nghiệp quyết định), để sản phẩm đến được với người tiêu dùng, doanh nghi ệp còn ph ải có khả năng tổ chức thị trường, làm tốt các dịch vụ sau bán hàng, xây d ựng th ương hi ệu. B ằng cách đó, doanh nghiệp đưa sản phẩm đến người tiêu dùng và m ở r ộng kinh doanh. Và nh ư v ậy, cạnh tranh không chỉ ở cấp độ sản phẩm mà là ở cấp độ doanh nghi ệp. Chưa h ết! Là đơn vị kinh tế cơ sở, hoạt động của doanh nghiệp tuy phản ánh t ất cả, nh ưng t ự nó không quy ết đ ịnh t ất c ả. Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào chi phí "đ ầu vào" mà doanh nghiệp khác đặt ra cho nó, phụ thuộc vào các cơ ch ế chính sách vĩ mô, vào các d ịch v ụ công mà Nhà nước cung ứng. Tất cả những yếu tố này t ạo nên chi phí giao dịch xã h ội c ủa doanh nghi ệp. Chi phí giao dịch xã hội càng lớn thì khả năng cạnh tranh c ủa doanh nghi ệp càng nh ỏ. Và vì v ậy, sự cạnh tranh được đặt ra trên cấp độ lớn hơn: Cạnh tranh t ổng lực c ủa nền kinh t ế, s ức c ạnh tranh quốc gia. Như vậy là: Hội nhập kinh tế quốc t ế vừa có c ơ hội, v ừa có thách th ức. Thách thức là sức ép trực tiếp, còn cơ hội tự nó không chuy ển thành l ực l ượng v ật ch ất trên th ị tr ường mà phải thông qua hoạt động của chủ thể. Cơ hội và thách th ức cũng luôn v ận đ ộng, bi ến đ ổi. Tận dụng được cơ hội sẽ đẩy lùi được thách thức và t ạo ra cơ h ội m ới l ớn h ơn. Ng ược l ại, không tận dụng được cơ hội thì thách thức sẽ lấn át làm triệt tiêu c ơ h ội. Chính vì v ậy mà vai trò "ch ủ thể" của doanh nghiệp, của Nhà nước là rất quyết đ ịnh. Doanh nghi ệp là ng ười "xung tr ận", là lực lượng trực tiếp đương đầu trong cạnh tranh. Nhưng, Nhà nước phải là ng ười m ở đ ường. Với nền kinh tế đã được toàn cầu hóa, s ự tùy thuộc l ẫn nhau gi ữa các qu ốc gia ngày càng sâu, sự phối hợp giữa các nhà nước có vai trò ngày càng lớn, ch ức năng c ủa nhà n ước trong quan h ệ
  17. kinh tế đối ngoại ngày càng được tăng cường. Và, tôi không nghĩ r ằng công th ức "th ị tr ường t ối đa - nhà nước tối thiểu" lại có thể phản ánh đầy đ ủ mối quan h ệ về ch ức năng gi ữa nhà n ước và thị trường mà thực chất là mối quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghi ệp - l ực l ượng "đ ứng sau" thị trường và làm nên thị trường. Bộ trưởng Thương mại TRƯƠNG ĐÌNH TUYỂN Một số cam kết chính trong khuôn khổ WTO và việc thực thi của Việt Nam Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và quy định mang tính ràng bu ộc c ủa WTO t ừ thời điểm gia nhập và Việt Nam đã nghiêm túc thực thi đầy đủ các cam k ết gia nh ập và các nghĩa vụ chung trong WTO. Thực tế hơn hai năm qua cho th ấy Vi ệt Nam đ ạt t ốc độ tăng tr ưởng GDP cao (từ 6 -8%) và thu hút nguồn vốn FDI kỷ lục, đặc bi ệt là ti ếp t ục duy trì tăng tr ưởng dương trong 6 tháng đầu năm 2009 và hướng đến mục tiêu đạt tốc độ tăng tr ưởng kho ảng 5-6 % cho cả năm 2009 trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế và suy thoái toàn c ầu. 1. Một số cam kết chính của Việt Nam khi gia nhập WTO: Theo kết quả đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đ ồng ý tuân th ủ toàn b ộ các hi ệp đ ịnh và quy đ ịnh mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập, với một số cam kết chính nh ư sau: Về mở cửa thị trường hàng hóa: Cam kết ràng buộc toàn bộ biểu thuế nhập khẩu hi ện hành (10.600 dòng thuế) với mức cam kết bình quân vào th ời đi ểm gia nh ập là 17, 4% và m ức thu ế su ất bình quân cuối cùng là 13, 4%, lộ trình thực hiện từ 5 - 7 năm; cam k ết trung bình 21% đ ối v ới s ản ph ẩm nông nghiệp và 12, 6% đối với sản phẩm công nghiệp (cuối lộ trình thực thi). Về mở cửa thị trường dịch vụ: Cam kết đủ 11 ngành dịch vụ theo phân loại trong WTO, v ới khoảng 110 phân ngành. Về đầu tư: Tuân thủ đầy đủ các quy định của Hiệp định về các biện pháp đ ầu t ư liên quan đ ến th ương mại (TRIMS) ngay sau khi gia nhập, theo đó, ta sẽ bãi b ỏ các bi ện pháp ưu đãi nh ằm khuy ến khích đ ầu tư nước ngoài như mức thuế nhập khẩu ưu đãi và các quy định về t ỷ l ệ n ội đ ịa hóa, t ỷ l ệ xu ất kh ẩu b ắt buộc v.v. . Về quyền sở hữu trí tuệ: Thực hiện đầy đủ các quy định của Hiệp định Sở hữu trí tuệ liên quan đ ến thương mại (TRIPS) ngay từ khi ngày gia nhập. 2. Thực thi các cam kết gia nhập, tiến trình và triển vọng: Ngày 1/11/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên c ủa WTO và b ắt đ ầu quá trình h ội nh ập sâu rộng vào hệ thống thương mại đa phương thông qua việc thực thi các cam k ết gia nh ập và tuân th ủ các quy định chung trong WTO. 2.1. Tình hình thực hiện cam kết gia nhập và tác động:
  18. Sau khi nước ta gia nhập WTO, Thủ t ướng Chính ph ủ đã ký ban hành Ch ương trình Hành đ ộng c ủa Chính phủ (kèm Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP, ngày 27/2/2007) về “M ột s ố ch ủ tr ương, chính sách l ớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên c ủa WTO”, giao nhi ệm v ụ c ụ th ể cho các Bộ, ngành, địa phương nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách th ức, đ ưa n ước ta b ước vào giai đoạn phát triển mới. Bộ Ngoại giao đã thông qua Kế hoạch hành động của B ộ Ngoại giao (kèm Quy ết đ ịnh s ố 2736/2007/QĐ-BNG-KTĐP, ngày 31/10/2007) nhằm triển khai các nhi ệm v ụ: công tác xây d ựng pháp luật thể chế; phát huy vai trò đối ngoại của Vi ệt Nam trong WTO; vi ệc ki ện toàn các c ơ quan đ ại di ện Việt Nam ở nước ngoài; nâng cao vai trò đối ngoại của Việt Nam t ại các di ễn đàn, t ổ ch ức qu ốc t ế; v ận động cộng đồng kiều bào Việt Nam ở nước ngoài ủng hộ tiến trình hội nh ập kinh t ế qu ốc t ế c ủa đ ất nước và tuyên truyền phổ biến kiến thức về HNKTQT. Trong hơn hai năm qua, Việt Nam đã nghiêm túc thực thi đ ầy đ ủ các cam k ết gia nh ập và các nghĩa v ụ chung trong WTO. Việc gia nhập WTO đã góp ph ần t ạo thêm đ ộng l ực m ới đ ể Vi ệt Nam đ ẩy m ạnh c ải cách trong nước, hoàn thiện hệ thống luật pháp – chính sách và th ể ch ế kinh t ế th ị tr ường, c ải thi ện môi trường kinh doanh - đầu tư, nâng cao năng l ực cạnh tranh c ủa nền kinh t ế, qua đó, đóng góp hi ệu qu ả vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất n ước. Th ực t ế hơn hai năm qua cho th ấy Vi ệt Nam đ ạt tốc độ tăng trưởng GDP cao (từ 6 -8%) và thu hút ngu ồn v ốn FDI k ỷ l ục, đ ặc bi ệt là ti ếp t ục duy trì tăng trưởng dương trong 6 tháng đầu năm 2009 và hướng đến mục tiêu đ ạt t ốc đ ộ tăng tr ưởng kho ảng 5% cho cả năm 2009 trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế và suy thoái toàn c ầu. Một số nhóm tác động nhìn từ góc độ chính trị - đối ngoại: Thứ nhất, thông qua việc chủ động và tích cực tham gia đàm phán t ại Vòng Ðô-ha, nh ất là trong khuôn khổ Nhóm RAMs, ta có điều kiện cùng các nước đang phát tri ển đ ấu tranh nh ằm thi ết l ập m ột h ệ th ống thương mại đa phương công bằng, cân bằng hơn và tính đ ến l ợi ích c ủa các n ước đang và kém phát triển. Tiến trình này đến nay đã đạt kết quả b ước đ ầu: nhi ều khả năng Vi ệt Nam, cùng m ột s ố thành viên mới gia nhập khác, sẽ được miễn trừ các nghĩa vụ m ới v ề m ở c ửa th ị tr ường khi Vòng Ðô-ha k ết thúc. Thứ hai, với tư cách thành viên WTO, ta có đi ều ki ện ch ủ đ ộng yêu c ầu đàm phán song ph ương v ới m ột số đối tác xin gia nhập WTO, qua đó góp ph ần gi ải quy ết các v ướng m ắc trong quan h ệ kinh t ế - th ương mại của ta với các đối tác này. Thứ ba, sau khi ta gia nhập WTO, nhiều đối tác kinh t ế - th ương m ại ch ủ ch ốt, trong đó có Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Ca-na-đa v.v., ngày càng nhìn nhận Vi ệt Nam nh ư m ột đối tác giàu ti ềm năng và quan tr ọng tại khu vực Ðông - Nam Á. Ta cũng tận dụng các m ối quan hệ m ở r ộng đ ể đ ẩy m ạnh tri ển khai liên k ết kinh tế song phương và khu vực. Theo đó, ta đã ký và th ực hi ện Hi ệp đ ịnh khung v ề th ương m ại và đ ầu tư với Hoa Kỳ (TIFA), hoàn t ất đàm phán Hi ệp đ ịnh Ð ối tác Kinh t ế (EPA) v ới Nh ật B ản; đang đàm phán
  19. Hiệp định Mậu dịch Tự do (FTA) với Chi-lê, Hiệp định khuyến khích và b ảo h ộ đ ầu t ư song ph ương (FIPA) với Ca-na-đa, Hiệp định Ðối tác và Hợp tác (PCA) v ới EU; Hi ệp đ ịnh đ ầu t ư song ph ương (BIT) với Hoa Kỳ... Tuy nhiên, việc gia nhập WTO và hội nhập sâu rộng cũng đ ặt ra nh ững thách th ức cho kinh t ế đ ối ngo ại của ta. Trong cam kết gia nhập WTO, ta phải ch ấp nh ận th ời h ạn 12 năm tr ước khi đ ược công nh ận là nền kinh tế thị trường đầy đủ. Ðiều này tạo ra sự phân bi ệt đ ối x ử v ới các doanh nghi ệp và ngành kinh tế của ta khi xảy ra các vụ kiện chống bán phá giá và ch ống tr ợ c ấp do các đ ối tác n ước ngoài kh ởi xướng. Do vậy, việc vận động các nước sớm công nhận quy chế kinh t ế thị trường đ ối v ới Vi ệt Nam là một ưu tiên trong công tác hội nhập kinh tế quốc tế của ta sau khi gia nh ập WTO. 2.2. Các công việc cần triển khai trong thời gian tới phục vụ cho tiến trình th ực hi ện cam k ết gia nhập WTO của Việt Nam Việc gia nhập WTO đánh dấu quá trình tham gia sâu rộng c ủa nền kinh t ế n ước ta vào h ệ th ống kinh t ế quốc tế, với những cơ hội và thách thức, những tác đ ộng cả thuận và không thu ận đ ối v ới công cu ộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ðặc biệt, quá trình này di ễn ra trong b ối c ảnh kinh t ế khu v ực và kinh tế thế giới có nhiều diễn biến phức t ạp, khó l ường và tác đ ộng nhi ều chi ều đ ến môi tr ường an ninh – phát triển của hầu hết các quốc gia. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh t ế toàn cầu tiếp tục kéo dài, để tăng cường hiệu quả việc th ực thi các cam k ết v ới WTO trong th ời gian t ới, qua đó phục vụ đắc lực sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước, c ần t ập trung vào m ột s ố đ ịnh h ướng sau: Thứ nhất, để sớm ổn định kinh tế vĩ mô, các bộ, ngành, địa phương và doanh nghi ệp c ần ph ối h ợp ch ặt chẽ, đẩy mạnh việc thực hiện tám nhóm giải pháp kinh tế nh ằm kiềm chế l ạm phát, gi ảm nh ập siêu, đồng thời triển khai những đối sách thích hợp để hạn chế tác đ ộng c ủa cuộc kh ủng ho ảng tài chính th ế giới hiện nay. Các biện pháp áp dụng cần phù hợp các tiêu chuẩn quốc tế và quy đ ịnh c ủa WTO. Thứ hai, tiếp tục thực hiện đầy đủ các cam kết WTO, đi đôi với việc ch ủ động, tích c ực tham gia đàm phán thương mại đa phương, cùng các thành viên WTO s ớm k ết thúc Vòng Ðô-ha v ới nh ững k ết qu ả công bằng, cân bằng và vì mục tiêu phát triển. Thứ ba, sớm xây dựng và hoàn thiện chiến lược hội nhập kinh t ế t ổng thể trong giai đo ạn t ới v ới nh ững trọng tâm, ưu tiên rõ ràng và phù hợp điều kiện phát tri ển của Việt Nam, trong đó th ống nh ất đ ịnh h ướng tham gia chủ động, tích cực và cân bằng vào hội nh ập đa ph ương và liên k ết khu v ực, song ph ương. Chiến lược này cần bảo đảm các điều kiện thuận l ợi nh ất cho công cuộc phát tri ển kinh t ế - xã h ội b ền vững ở trong nước, điều hòa được mối quan hệ phức t ạp, đan xen gi ữa các cam k ết qu ốc t ế c ủa Vi ệt Nam nhằm tăng cường tác động bổ trợ lẫn nhau gi ữa các cam k ết này, đ ồng th ời nâng vai trò c ủa Vi ệt Nam trong quá trình hoạch định chính sách thương m ại toàn cầu.
  20. Thứ tư, đẩy mạnh việc vận động chính trị và đàm phán kỹ thuật v ới các đ ối tác v ề quy ch ế kinh t ế th ị trường của Việt Nam, góp phần giảm thiểu sự phân bi ệt đ ối x ử và tác đ ộng tiêu c ực c ủa các tranh ch ấp thương mại do các đối tác nước ngoài khởi kiện nhằm vào các mặt hàng xuất kh ẩu c ủa Vi ệt Nam. Thứ năm, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng các tiêu chu ẩn ngày càng cao c ủa giai đoạn hội nhập sâu rộng; đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ bi ến thông tin để nâng cao nh ận th ức c ủa doanh nghiệp và của toàn xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ khi Vi ệt Nam là thành viên WTO. Những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới kinh tế - xã h ội c ủa đ ất n ước trong h ơn hai th ập k ỷ qua, cùng với cam kết mạnh mẽ của Ðảng và Nhà nước ta tích c ực hội nh ập kinh t ế qu ốc t ế, nh ư đã đ ược khẳng định tại Ðại hội X của Ðảng (tháng 4-2006), cũng nh ư s ự ch ủ đ ộng và quy ết tâm c ủa Chính ph ủ và của toàn xã hội trong việc tận dụng t ối đa các cơ hội và vượt qua các thách th ức, là c ơ s ở v ững ch ắc để chúng ta tin tưởng vào những bước phát triển mới của đất nước trong thời gian t ới./. (Vụ Hợp tác Kinh tế Đa phương, BNG. 10/2009)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2