Tài chính hành vi học<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Tài chính hành vi học<br />
Bởi:<br />
Wiki Pedia<br />
<br />
<br />
Tài chính hành vi học & kinh tế học hành vi là những có lĩnh vực liên quan gần gũi,<br />
ứng dụng những nghiên cứu khoa học về nhận thức & xu hướng cảm xúc trên con người<br />
nhằm hiểu rõ hơn về các quyết định kinh tế, và làm cách nào mà con người gây ảnh<br />
hưởng lên thị trường giá cả, lợi nhuận & sự cấp phát các nguồn tài nguyên. Phạm vi chủ<br />
yếu được đề cập bao gồm sự hợp lý hoặc thiếu hụt của các nhân tố kinh tế. Các mô hình<br />
hành vi đặc trưng được nhận biết từ qua tích hợp tâm lý học & học thuyết kinh tế tân cổ<br />
điển. Tài chính theo hành vi đã trở thành cơ sở lý thuyết cho các phân tích kỹ thuật.[1]<br />
Các phân tích hành vi phần lớn đề cập đến ảnh hưởng của các quyết định thị trường,<br />
cũng như những lựa chọn chung, khởi điểm của các quyết định thuộc về kinh tế học &<br />
các xu hướng tương tự nhau.<br />
<br />
Định nghĩa<br />
<br />
Kinh tế học hành vi, còn gọi tài chính học hành vi, là một phân ngành kinh tế học nghiên<br />
cứu xem những hành vi (hành động có nhận thức) của các chủ thể kinh tế (người tiêu<br />
dùng, người phân phối, bán hay hay người sản xuất) có thể ảnh hưởng đến việc ra các<br />
quyết định kinh tế cũng như giá cả thị trường ra sao. Môn khoa học này lấy lý luận về dự<br />
tính duy lý của chủ thể kinh tế làm trung tâm. Phương pháp nghiên cứu của nó dựa trên<br />
các mô hình kết hợp giữa tâm lý học với các mô hình về dự tính duy lý của kinh tế học<br />
tân cổ điển. Các nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực này gồm Daniel Kahneman và<br />
Amos Tversky (1937-1996); hai ông nhận chung giải Nobel kinh tế năm 2002 vì những<br />
đóng góp của mình trong lĩnh vực kinh tế học hành vi. Kinh tế học hành vi được áp dụng<br />
nhiều trong phân tích về các quyết định thị trường cũng như trong phân tích về lựa chọn<br />
công cộng.<br />
<br />
Lịch sử<br />
<br />
Trong thời kỷ cổ điển, kinh tế học có mối liên kết gần gũi với tâm lý học. Ví dụ, Adam<br />
Smith viết cuốn Lý thuyết về tình cảm lương tâm (The Theory of Moral Sentiments),<br />
văn bản quan trọng mô tả những nguyên lý tâm lý học của các hành vi cá nhân; Jeremy<br />
Bentham viết bao quát về những hữu dụng (lợi ích) nền của tâm lý học. Trong thời kỳ<br />
kinh tế học tân cổ điển, các nhà kinh tế học bắt đầu đặt mình bên ngoài tâm lý học nhằm<br />
hướng tới những nghiên cứu kinh tế như một khoa học tự nhiên, bắt đầu với những giải<br />
<br />
<br />
1/2<br />
Tài chính hành vi học<br />
<br />
<br />
thích về hành vi kinh tế được suy ra từ các giả định về tính tự nhiên của các thực thể (tác<br />
nhân) kinh tế. Khái niệm con người kinh tế đã được đề xuất, tâm lý của con người được<br />
xem xét cơ bản dựa trên lý trí. Tuy vậy, những giải thích thuộc về tâm lý tiếp tục cho<br />
ra những hình thái phân tích quan trọng trong quá trình phát triển của trường phái kinh<br />
tế học tân cổ điển, những đại diện tiêu biểu như Francis Edgeworth, Vilfredo Pareto,<br />
Irving Fisher và John Maynard Keynes.<br />
<br />
Phương pháp luận<br />
<br />
Máy chụp hình cộng hưởng từ (fMRI) được dùng để xác định những vùng thuộc bán cầu<br />
đại não hoạt động tích cực trong trong chuỗi các bước hình thành quyết định kinh tế.<br />
<br />
Nhà tâm lý học Samuel McClure, đại học Princeton, cùng cộng sự, thông qua nghiên<br />
cứu hình ảnh não bộ, đã báo cáo “Khi các chủ thể chọn lợi ích trước mắt thì xuất hiện<br />
hoạt động tại các vùng não khác với những vùng não khi chọn lợi ích tương lai”. Daniel<br />
Kahneman, giáo sư tâm lý học, người đoạt giải Nobel kinh tế 2002, nói: “Với góc độ<br />
công nghệ, chúng ta có thể hy vọng chỉ trong vòng mười năm hoặc hai mươi năm nữa<br />
thôi sẽ có những bước phát triển khổng lồ. Khối lượng hiểu biết về bộ não sẽ tăng nhanh<br />
kinh khủng. Điều này sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ tới tâm lý học chính trị - thị trường. Và<br />
khối lượng hiểu biết đó sẽ tạo ra được một cơ sở dữ liệu dùng chung, một thứ thông tin<br />
không ai có thể làm ngơ”.<br />
<br />
Ví dụ, trên thị trường “tăng giá liên tục trong thời gian dài” (bull market) những ý nghĩ<br />
“mong muốn giả” hoặc các báo cáo dự đoán của nhà phân tích về xu hướng tăng giá liên<br />
tục trong thời gian dài đối với các loại chứng khoán sẽ tác động trực tiếp đến tâm lý của<br />
nhóm nhà đầu tư, dẫn theo tác động tăng giá.<br />
<br />
Lý thuyết kinh tế học hành vi có đảm nhiệm tốt vai trò dự đoán sự lên xuống của chỉ<br />
số chứng khoán hay tại sao con người lại “nuông chiều” các hành vi “đầu tư” mạo hiểm<br />
như đánh bạc?<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
2/2<br />